Kinh Anan Vấn Phật Sự Cát Hung ht. Tịnh Không giảng tk. Thích Nhuận Nghi dịch Nguồn



tải về 0.72 Mb.
trang18/18
Chuyển đổi dữ liệu02.09.2016
Kích0.72 Mb.
#30100
1   ...   10   11   12   13   14   15   16   17   18

5- Nghi quả báo tội phước. 


CHÁNH VĂN:

15/ Mạt thế nhiều kẻ ác

Chẳng tin lắm nghi hoặc

Ngu sinh chẳng hiểu đạo

Vốn tội lại đào sâu.

*

16/ Chê Phật hại chánh pháp

Chết đọa đại thiết thành

Thần thức ở trong đó

Đầu đội bánh xe sắt

*

18/ Muốn chết cũng chẳng được

Giây lát đã biến mất

Chỉa ba cùng gươm giáo

Thi nhau đâm chém thân.

 

LỜI GIẢI:



Kệ thứ mười lăm, A-Nan nói đời mạt pháp nhiều kẻ ác chẳng tin Phật pháp, nghi ngờ nhân quả, ngu si chẳng biết nhận định chân lý chánh tà, tự ý buông tình nói xàm bậy, đã mang kiếp phàm phu đầy tội lỗi lại thêm chất chồng tội lỗi do không tin nhân quả tạo ra. Kinh Bát Đại Nhân Giác nói: “Tâm là nguồn ác, thân là rừng tội”. Người không tin nhân quả nghiệp báo thì khó tránh khỏi tạo mười nghiệp ác do thân miệng ý tạo ra và dễ dàng phạm tội ngũ nghịch. Như cộng sản phá hoại Phật pháp, sát hại người hiền, tiêu diệt luân thường đạo lý, đem cha mẹ bà con đấu tố, biến nơi thờ phượng trang nghiêm làm chỗ hý trường, xưởng đẻ, nuôi súc vật, kho chứa v.v... Cho đến cướp của giết người, đoạt vợ hại chồng đều do si mê cuồng vọng không tin nhân quả nghiệp báo. Như thế có phải tâm là nguồn ác, thân là rừng tội không? Người xuất gia mà mang lòng hoài nghi oai lực của chư thiện thần gia hộ, thần lực Tam Bảo phò trì, năng lực giới pháp đưa người đến giải thoát thì khó tránh sa vào tham cầu lợi dưỡng, hình đồng xuất gia mà tâm đã xa đạo!

Kệ thứ mười sáu nói về quả báo ác của việc phá hoại hoằng dương Phật pháp, làm chướng ngại người tu học. Bất luận là ai, hễ có tâm mờ ám bất chánh thì khó tránh khỏi quả báo đọa vào vô gián địa ngục. Phá hoại Phật pháp tức là phá hoại con mắt chánh giác của trời người. Trở ngại việc hoằng pháp là đoạn dứt con đường pháp thân huệ mạng của chúng sanh, nên chịu quả báo đầu đội vành bánh xe sắt lửa cháy hừng hựt. Là người tu học Phật phải nhận rõ thân nầy là vô thường huyễn mộng sống chẳng qua hơi thở, dài lắm là năm bảy mươi năm, sao không cố gắng lợi dụng thời gian để tu tâm sửa tánh hầu tiến bước lên trên đường ánh sáng thanh thoát của Phật thánh, lại chụp bắt ngũ dục trần gian, mang lòng ích kỷ trở ngại phá hoại đạo pháp, chính là tự hủy hoại bước tiến thăng hoa thánh thiện của mình.

Kệ thứ mười bảy nói mạng sống trong địa ngục vô gián, thân hình chịu khổ liên tục không ngừng, tâm thần thống khổ liên miên, lúc đó cho dù muốn chết để thoát kiếp khổ đọa đày cũng chẳng được. Do tạo nghiệp hủy báng chánh pháp, trở ngại người chánh tâm hành đạo mà phải nhận lấy ác quả báo như thế. Muốn rõ nên tham khảo kinh Địa Tạng và kinh Lăng Nghiêm. Tiếp đến đây là đoạn thứ sáu nói về tâm ý thế gian tạo tác ác nhân cảm thọ ác báo. 

6- Tâm ý thế gian là nguyên nhân của nghiệp báo.


 

CHÁNH VĂN:



18/ Sao người đời như thế

Nghịch chánh, tin quỷ thần

Tấu xin điều may mắn

Cúng bái tổn hại thân.

*

19/ Chết đọa mười tám ngục

Trải qua ngục Hắc thằng

Tám nạn liên tiếp chịu

Hoàn phục thân người khó.

*

20/ Nếu khi được làm người

Man rợ chẳng nghĩa lý

Si cuồng không mắt tai

Chưn què lại câm ngọng.

*

21/ Dại khờ không rõ sự

Việc ác cứ trói lôi

Luân lưu trong chúng ác

Mang hình loài lục súc.

*

22/ Bị người mổ xẻ thân

Lột da cắt cổ họng

Đền oan trái đời trước

Đem thịt thân trả người.

*

23/ Vô đạo đọa ác đạo

Cầu thoát thật khó thay

Thân người đã khó được

Phật pháp khó dịp nghe. 

LỜI GIẢI:

Kệ thứ mười tám nói tâm ý của người đời là nguyên nhân khơi dậy các ác nghiệp. Vì thế mà tôn giả A-Nan cảm thương than thở “Vì sao người đời như thế?!” Chúng sanh ý nghĩ việc làm thường trái ngược chánh pháp, tà tri tà kiến mê tín quỷ thần “nghịch chánh, tin quỷ thần”. Đức Phật dạy chúng ta rằng, quỷ thần đại để phân làm hai loại là Tứ thiên vương và quỷ ngục trong ba đường ác, cả hai đều chưa ra khỏi sáu nẻo luân hồi, tri kiến bất chánh, năng lực hữu hạn, kiến giải nhiều sai lầm, chỉ có thể kính mà không thể tin theo. Người tu học Phật nên trai giới nghiêm tịnh phát tâm từ bi cảm hóa quỷ thần khiến cho họ phát tâm hồi đầu Phật pháp. Thế mà nhân gian tập quán sâu dày mê tín khẩn cầu quỷ thần xá miễn nghiệp tội, ban phước cho người. Nếu tự mình không biết sám hối tội lỗi đã làm, gắng công tu bồi phước đức như kinh Hoa Nghiêm nói: “Tội từ tâm sanh do tâm sám, tâm đã diệt rồi tội liền tiêu” thì việc “tấu xin điều may mắn”, việc sát sanh, rượu thịt, đoạt mạng sống, lấy máu xương cúng bái chỉ thêm tổn hại lòng nhân từ mà thôi. Xin xăm, bói quẻ, cầu kiết, tránh hung, ý dồ cầu may miễn họa đều là vọng tâm mê tín. Giả sử xin xăm bói quẻ mà tai họa được miễn trừ, không tu tâm làm phước thiện mà được phần phước báo thì luật nhân quả thế gian và xuất thế gian bị đảo lộn, có thể như thế được ư? Sự thật mặt trời mặt trăng có thể rơi rụng, quả địa cầu có thể nổ tung, chứ luật nhân quả muôn đời bất biến.

Kệ thứ mười chín nói về kẻ không tin nhân quả làm điều tội ác, cầu xin quỷ thần thì sẽ phải đọa vào địa ngục thứ mười tám là địa ngục nặng nhất. Nghiệp ác do người tạo, nghiệp lực chiêu cảm tội nhơn, nên địa ngục nầy có núi dao, dầu sôi, hầm phẩn sôi, băng lạnh, cối đá nghiền, sắt thiết cưa, trụ đồng nung đỏ, nước đồng sôi v.v... ngày đêm hành phạt. Ngoài ra có địa ngục vô gián, tám thứ lạnh nóng kinh hoàng, cưa chặt, thiêu đốt đủ thứ hình phạt thảm khốc không lời lẽ bút mực nào có thể kể xiết. Những ai ác tâm chống phá sự hoằng pháp, hủy báng người tu hành, ly gián Tăng già lục hòa, ngăn cản trở ngại người nghe pháp học đạo, làm công quả đều phải đọa ba đường ác đạo, khi ra khỏi lại phải mắc bát nạn. Nghe được Phật pháp phát tâm hành trì thì nhất định lìa khổ được vui. Chống phá trở ngại làm cho người mất cơ hội tốt trên đường tu hành thánh thiện giác ngộ, cản ngăn người mộ đạo có ý chí xuất gia tất nhiên là chuốc lấy quả báo ác. Cổ đức nói, Bồ Tát sợ nhân, chúng sanh sợ quả. Thói thường người đời vì tự ái, ích kỷ, đố kỵ, bè phái, nên càng muốn làm cho thỏa mãn phàm tâm xuẩn động, nhưng đâu có biết tạo ác trong giây lát mà phải thắc mắc quả báo tan thương muôn đời. Cứ xem anh em Ngô Đình Diệm nhận lấy ác quả báo nhãn tiền thì đủ cảnh cáo cho những ai còn hăng máu trong mê muội tạo tội ác.

Kệ hai mươi nói về tội nhơn sau khi chịu cực hình trong ba đường khổ xong, nhân duyên ác tập vẫn còn, nên khi làm người thường gặp tai nạn. Kinh Phật nói chúng sanh trong sáu nẻo luân hồi, chủng tử thiện ác đều vốn tự có trong tâm thức, nên khi đầu thai, tùy theo lực lượng của chủng tử nào mạnh thì nghiệp dẫn theo đó mà thọ sanh. Chúng ta thật lòng tự hỏi, mỗi ngày chúng ta có được bao nhiêu lần nghĩ đến Phật Bồ Tát, có mấy lần thiết tha nghĩ đến phải tinh tấn tu hành để cầu giác ngộ giải thoát sanh tử luân hồi, có mấy lần thao thức nghĩ đến thương giúp chúng sanh, cứu giúp quốc gia dân tộc, và tính thử bao nhiêu lần nghĩ đến chuyện thị phi, bao nhiêu lần khởi tâm tham sân si hơn thiệt. Căn cứ vào tâm niệm sinh hoạt hằng ngày thì chúng ta rõ hơn ai hết, biết được ta có thiện tâm nhiều hay ác tâm nhiều, chánh tâm nhiều hay tà tâm nhiều, và câu trả lời hiện ra trước mắt cái nào nhiều thì cái đó có sức mạnh tạo thành nghiệp lực sẽ dắt ta đi. Đi về đâu thì quá rõ!?

Tập khí của con người đáng sợ nhưng cũng đáng quý, nên phải cẩn thận. Nếu tạo thành tập khí niệm Phật ăn chay làm thành thì thật đáng quý, ngược lại, tập khí sát sanh, trộm cắp, tà dâm, nói dối, cờ bạc, rượu chè, ích kỷ, thị phi, hơn thua thì thật đáng sợ. Dù cho có bằng cấp địa vị giàu sang quyền uy mà mang trong người những tập khí đáng sợ nầy thì cũng thuộc hạng ngu si độc ác, chẳng khác người năm giác quan không thông, lòng chồng chất độc ác, tâm tư mê hoặc điên đảo. Ác nhân dẫn đến ác quả. Ác quả tạo ra ác nhân. Như người vui thuốc vui rượu làm nhân đưa đến ghiền thuốc ghiền rượu là quả. Ghiền rượu ghiền thuốc là nhân bắt phải vui rượu vui thuốc là quả. Cứ thế nghiệp lực xoay vần thống khổ bất tận.

Kệ hai mươi mốt và hai mươi hai nói về chúng sanh không tin nhân quả, tạo nhiều tội ác đọa vào địa ngục chịu đủ thứ hình phạt thống khổ xong, khi được sanh làm người lại phải ở nơi nghèo khổ hạ tiện, thiếu văn hóa giáo dục, thân hình tật nguyền, sáu căn không đầy đủ, ngu si dốt nát, bạn ác thân gần. Từ địa ngục ra, trước khi làm thân người cũng đã phải trải qua làm kiếp ngạ quỷ đói khổ thân hình bị thiêu đốt, kiếp súc sanh chịu cảnh lột da cắt xẻ bầm nướng. Thấy súc vật chịu cảnh cầy sâu chở nặng, người cưỡi đánh, giết thị đớn đau đáng thương, tất cả đều là quả báo đền trả của chúng sanh mà trước kia do không tin nhân quả nên tạo ra nhân ác. Kinh Phật nói:”Nghiệp quả lôi kéo thật khó trốn thoát.

Kệ thứ hai mươi ba không tin Tam Bảo; không tin nhân quả báo ứng; không thọ trì Ngũ giới, Thập thiện; không lưu ý Tứ vô lượng tâm từ bi hỷ xả; luân lý đạo đức chẳng cần biết, sống theo phàm tâm tục tánh nên phải đọa lạc vào ác đạo. vì vậy kinh đây nói: “Vô đạo đọa ác đạo, cầu thoát thật khó thay”. Khi thoát ra ba đường ác làm thân người sáu căn đầy đủ nguyên vẹn tay chưn giác quan đã là khó rồi, mà phát tâm thành tín Phật pháp lại càng khó hơn. Trong lục đạo luân hồi, nhơn đạo là quý hơn cả. Vì nhơn đạo trung bình không khổ sở ngu si đói khát bức bách quá đổi như địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, cũng không sân hận gây hấn đấu tranh như A tu la và cũng không quá sung sướng triền miên hưởng thụ phước lạc đến quên tu như cõi trời. Ba đường ác đạo ít có Phật Bồ Tát vào thuyết pháp độ sanh đã đành mà cõi sân hận đấu tranh A tu la và sung sướng hưởng lạc thú như cõi thiên thượng cũng ít gặp Phật hóa độ. Cõi nhơn gian vừa khổ cũng vừa vui đủ cơ độ thức tỉnh người nhân thức được vô thường mộng huyễn, con đường thiện ác thăng hoa đọa đày phân minh. Thế nên các bậc Bồ Tát, thánh nhơn và chư Phật thường hiện ra cõi đời này để thuyết pháp độ sanh. Và xưa nay các bậc thánh hiền Bồ Tát Phật cũng khởi đi từ con người. Đối với kẻ nghiệp chướng sâu dày, tập khí bất thiện chứa đầy tâm thức thì không thể dễ dàng mang tâm thành đến với Phật pháp và chánh tín nhân quả luân hồi. Nên kinh đây tôn giả A Nan nói: “Thân người đã khó được, Phật pháp khó dịp nghe” là vậy. Tiếp dưới đây là đoạn bảy, tôn giả A-Nan kết luận bằng kệ chuyển hóa.

 

7- Kết thúc băng lời chuyển hóa. 


CHÁNH VĂN:

24/ Thế Tôn vì chúng sanh

Giúp ba cõi nhờ ơn

Pháp cam lồ tưới khắp

Khiến chúng sanh phụng hành.

*

25/ Những ai được kiến tánh

Thương nghĩ đến quần sanh

Khai thông đường chánh đạo

Kẻ tuệ căn thoát khổ.

*

27/ Ơn nào hơn ơn Phật

Cứu đời chuyển pháp luân

Nguyện hết thảy chúng sanh

Thấm nhuần pháp cam lồ.

*

28/ Thuyền bát nhã đến bến

Phật pháp chở đại thiên

Ngã nhơn đồng một thể

Phát nguyện vô thượng chân.

 

LỜI GIẢI:



Bài kệ hai mươi bốn là tán thán ơn đức của Phật đối với chúng sanh. Đức Phật đã hy sinh trọn đời cho sự nghiệp hoằng pháp lợi sanh làm cho tất cả mọi loài trong ba cõi sáu đường đều có cơ hội thấu hiểu Phật pháp thoát kiếp sanh tử luân hồi.

Kệ hai mươi lăm nói chúng sanh một khi phát tâm tin Phật pháp, y theo Phật pháp, tu hành theo Phật pháp thì được trí huệ giải thoát sanh tử, rồi lại hóa độ gia hộ cho quần sanh cũng được minh tâm kiến tánh giác ngộ thành A la hán Bồ Tát. Nên kệ nói: “những ai được kiến tánh, thương nghĩ đến quần sanh, khai thông đường chánh đạo, kẻ tuệ căn thoát khổ”. Thế nên với Phật pháp hễ ai phát tâm Bồ Tát thương nghĩ đến chúng sanh mà tự mình cố gắng tu học rồi đem sự tu học đó hóa độ người, bất cứ là ai hễ chịu thành tâm tiếp thọ, chánh pháp chánh tâm phụng hành cũng đều được thành đạo chứng quả giác ngộ giải thoát cả.

Kệ hai mươi sáu, A-Nan đặc biệt khuyen chúng ta môt lòng chí thành hướng về Phật cầu tu học Phật pháp để tạo phước báo. Được thân người là khó, chúng ta đã được; được cơ duyên nghe Phật pháp là khó, chúng ta đã nghe. Như vậy chúng ta tuy sanh vào thời mạt pháp cách Phật lâu xa mà chúng ta được như vậy thì phải biết rằng có nhiều phước duyên thiện căn, nếu không nắm lấy cơ hội này phát tâm tinh tấn tu hành để tiến thân, để một khi mất thân nầy đọa lạc ngàn muôn ức kiếp chẳng dễ gì được lại thân với sáu căn đầy đủ và gặp Phật pháp. Bài kệ trên đây tôn giả A-Nan còn cho chúng ta biết, chỉ những người có phước duyên mới có tâm hướng về Phật, nghĩ đến việc tu học Phật pháp. Nói hướng về Phật là phát tâm quy y theo Phật, lấy Phật làm mục đích để tiến đến, lấy giới định huệ, tứ hoằng thệ nguyện, lục độ, tam quy ngũ giới pháp làm phương tiện hành trì. Như vậy, chúng ta sống có mục đích là Phật, hướng đi là giác ngộ giải thoát, phương tiện là giới định huệ và cứu cánh là quả vị Phật. Kệ đây nói: “Kiến tánh ngộ vô sanh”. Kiến tánh là thấy rõ chân lý, nhất chân pháp giới. “Ngộ vô sanh” nghĩa là tâm trí thanh tịnh khai thông, Thiền tông gọi là minh tâm kiến tánh, Tịnh độ tông gọi là nhứt tâm bất loạn, cả hai đều là “Kiến tánh (thấy chân lý) ngộ vô sanh”. Ruộng phước điền là chỉ cho Tam Bảo. Chúng sanh nên quy y, nên gieo trồng giống lành vào ruộng phước điền để được quả bất sinh bất diệt, thường, lạc, ngã, tịnh. Gieo bằng cách nào? Là trì giới và tu hạnh lành như Lục độ, Tứ nhiếp pháp, Bát chánh đạo.

Kệ hai mươi bảy nói ơn đức của Phật lớn lao không ơn đức nào bằng. Bởi vì nếu không có Phật hiến trọn đời thuyết pháp độ sanh thì chúng ta đâu có biết thế nào là tội phước nhân quả luân hồi, và như thế đâu có cơ hội thấu rõ cội nguồn thật tướng của vũ trụ vạn vật, và cũng không từ đâu mà thấu rõ được chính mình có khả năng thánh thiện có thể thành Phật Bồ Tát, để rồi từ đó cố gắng tu hành tiến lên quả vị Phật thánh. Ngài đã thắp ngọn đèn trong đêm tăm tối. Ngài đã mở lối cho vạn loại sanh linh đang lạc loài trong rừng sâu. Ngài là người dẫn đường cho kẻ mất phương hướng như chúng ta. Ngài là bà mẹ hiền săn sóc đàn con bơ vơ đói rách lâu ngày. Vậy thì ơn nào hơn ơn Phật? Muốn đền ơn Phật chi còn có cách duy nhất là phát tâm y theo lời Phật dạy mà tu hành.

Kệ hai mươi tám nói giáo pháp đức Phật như thuyền Bát Nhã có năng lực diệu dụng đưa chúng sanh đến bờ Niết bàn giác ngộ. Người y theo giáo pháp của đức Phật mà nghiêm chỉnh tu hành thì chẳng khác nào như hành khách lên thuyền để qua sông, tự độ, nên kệ nói “thuyền bát nhã đến bến”. Độ tha là “Phật pháp chở đại thiên”, có nghĩa là Phật pháp có năng lực chuyển hóa chúng sanh trong cõi tam thiên đại thiên thế giới đồng đến bỉ ngạn, đồng chứng Bồ đề, đồng được tự tại giải thoát. Đạt đến cảnh giới ngã nhơn đồng một thể, tánh tướng nhứt như, nhứt chân pháp giới bình đẳng cứu cánh viên mãn. Người tu học Phật nên noi theo gương Phật, phát tâm Đại thừa, tu hạnh lợi tha thượng cầu thành Phật, hạ hóa chúng sanh, tức là “chúng sanh vô biên thệ nguyện độ, Phật đạo vô thượng thệ nguyện thành”. Xuất thế pháp của nhà Phật là đoạn phiền não, thế pháp của nhà Nho là cách vật. Người Phật tử nguyện pháp môn vô lượng thệ nguyện học, cũng như môn đồ Nho gia là trí tri. Phật đạo vô thượng thệ nguyện thành, tương tợ thế pháp của Nho gia là thành ý chánh tâm. Tinh thần lợi tha xuất thế của nhà Phật là “Chúng sanh vô biên thệ nguyện độ”, cũng như tinh thần xử thế của nhà Nho là “tu thân, tề gia, trị quốc bình thiên hạ”. Xuất thế pháp của nhà Phật bao gồm thế gian pháp. Người tu Phật pháp khởi đi từ nhơn cách. Nhơn cách hoàn thành thì đạo cách mới thành. Thế nên Phật pháp bất ly thế gian pháp, đạt lý thế gian pháp tức là đạt chân lý Phật pháp. Nên kệ nói: “Phát nguyện vô thượng chân”, tức là nguyện cho nhứt thiết chúng sanh đồng viên chủng trí, đồng đăng bỉ ngạn, đồng thành Phật đạo. 

Đoạn bảy: Đại chúng nghe A-Nan nói kệ đều hoan hỷ phát tâm Bồ đề


 

1- Đại chúng phát tâm Bồ đề.


CHÁNH VĂN:

A-Nan nói như thế rồi, đại chúng trong pháp hội thấu hiểu đều phát chánh tâm tinh tấn cầu đạo vô thượng Bồ đề.

 

LỜI GIẢI:



Tôn giả A Nan vừa nói kệ xong, tất cả đại chúng trong pháp hội đều thấu hiểu lời khuyến lệ quý giá của tôn giả, đồng phát chánh tâm tinh tấn quyết sớm đạt đạo vô tượng Bồ đề. “Phát chánh tâm tinh tấn” nghĩa là đem hết tâm chân thành y theo lời Phật dạy nhứt tâm dốc chí dồn hết tâm lực ngày đêm tu hành, chứ không giống như những kẻ chỉ hiểu tin suông tà tà qua ngày đoạn tháng, môi mép phê phán thị phi, đi đến dâu cũng xưng là đã quy y lâu năm, Phật tử kỳ cựu mà tâm tánh hủ lậu sâu mọt đạo pháp, thì không phải là phát vô thượng tâm. 

2- Đại chúng phát tâm tự độ độ tha. 


CHÁNH VĂN:

Hương xông thơm ba cõi, từ đây được độ thoát, mở bày đường giác ngộ, bắt cầu độ chúng sanh. 

LỜI GIẢI:

Ở đây tôn giả A Nan nói người tu học Phật lấy ngũ phần hương trang nghiêm mình và tang nghiêm pháp giới. Khi ngũ phần hương pháp thân viên mãn thì xông thơm khắp ba cõi dục giới, sắc giới và vô sắc giới trùm cả tam thiên đại thiên. Ngũ phần hương là: 1/ Giới phần hương pháp thân, tức là các đức Phật dứt sạch lỗi lầm của ba nghiệp thân miệng, ý gọi là giới hương pháp thân. 2/ Định phần hương pháp thân, tức là các đức Phật chân tâm tịch tĩnh lìa sạch hết vọng niệm gọi là định hương pháp thân. 3/ Huệ phần hương pháp thân, tức là các đức Như Lai chân trí viên minh, quán suốt pháp tánh, gọi là huệ phần hương pháp thân, tức là căn bổn trí. 4/ Giải thoát phần hương pháp thân, tức là thân tâm của các đức Như Lai tự giải thoát không còn bị vướng bận dính mắc những thứ dục lạc ái ân phiền lụy thế gian, nên gọi là giải thoát hương pháp thân, tức là đức tánh Niết bàn. 5/ Giải thoát tri kiến phần hương pháp thân, tức là phần hương pháp thân, tức là sự hiểu biết của các đức Phật đúng như sự thật, trí huệ của các đức Phật thật như chân lý, không dính mắc thường đoạn, tà chân ngụy, ngời sáng như mặt trời, suốt trong như pha lê, bao la như hư không, trí huệ như vậy gọi là giải thoát tri kiến hương pháp thân, tức là hậu đắc trí, hay còn gọi là đại viên cảnh trí. Do giới định huệ mà được giải thoát. Do ba nghiệp thanh tịnh giải thoát mà được tri kiến giải thoát, tức là kiến giải minh liễu, siêu xuất tam giới. Khởi đi từ sự tu nhân giới định huệ để đạt quả giải thoát, giải thoát tri kiến, đức trí vẹn toàn, thân Phật trọn đủ năm phần pháp thân hay ngũ phần hương pháp thân, tức là thân Phật. Thế nên hành giả tu học Phật muốn đạt được quả Phật, không thể nào xem nhẹ giới luật. Cho dù bất cứ lý do nào mà cố ý chế tạo hoặc cải biến giới luật của Phật, thì đó là kẻ mang tâm tà ngụy hành đạo không còn thuần chân Phật đạo, mà phải biết đó là kẻ tà đạo, đích thực là ma tỳ kheo được khéo trang bị lớp võ Phật đạo. Giới luật của Phật chế tùy khả năng lãnh thọ không có sự bắt buộc gượng ép, nhưng tuyệt đối không nên ngụy tạo hay cải đổi giới luật.

Người hành Phật đạo một khi giới luật trang nghiêm thì sẽ được trọn vẹn ngũ phần hương, hương thơm xông khắp ba cõi, tự nhiên thành người dẫn đường giác ngộ cho muôn loài, làm cầu giải thoát cho chúng sanh. Chúng sanh ba cõi được mong nhờ ngũ phần hương mà giải thoát. Năng lực của giới pháp vi diệu như vậy, nên kinh Phạm Võng nói: “Giới như đèn sáng lớn soi sáng đêm tối tăm. Giới như ngọc ma ni cứu giúp những kẻ nghèo. Người gìn giữ giới luật là phước đức hơn cả”. Giới pháp có năng lực vi diệu trang nghiêm hành giả, hướng đạo chúng sanh trong cuộc hành trình giác ngộ giải thoát. Giới pháp vô cùng vi diệu thơm khắp mười phương, có thần lực diệu dụng đưa chúng sanh thẳng đến quả vị Niết bàn tịch tịnh an lạc.

 

3- Thính chúng trong pháp hội tâm trí khai thông đồng hân hoan tiếp nhận lời Phật và A-Nan nói.


CHÁNH VĂN:

Vua quan thần dân, thiên long quỷ thần nghe kinh hoan hỷ tiếp nhận những điều A Nan vừa nói. Tất cả đại chúng vừa buồn vừa sợ, cúi dầu đảnh lễ chưn Phật và lạy A-Nan thọ giáo mà lui ra.

 

LỜI GIẢI:



Đại chúng dự nghe kinh trong pháp hội nầy có đủ vua quan dân chúng thiên long quỷ thần, điều đó cho ta thấy đương thời Phật pháp hưng thạnh biết dường nào. Đại chúng đều vui mừng lãnh thọ lời Phật thuyết pháp và hai mươi tám bài kệ của tôn giả A Nan. Khi nghe xong lòng đại chúng vừa buồn thương vừa lo sợ. Buồn thương cho những chúng sanh thiếu duyên lành không được diện kiến Phật để nghe Phật thuyết pháp đoạn trừ ác tập nghiệp sâu, tránh sao cho khỏi đắm chìm trong đường ác chịu khổ. Lại lo sợ cho chính mình nếu chẳng may lại vọng tâm duyên trần lôi cuốn làm mê mất chánh đạo, đọa lạc đường tà ác. Đây là tâm trạng thận trọng của đại chúng vừa mừng vừa lo là tâm trạng cẩn trọng thuần chân của người tu học Phật chân chánh. Đại chúng đồng thời nhất thành kính đảnh lễ tạ ơn Phật từ bi giáo huấn và đồng thời hết lòng cảm kích lạy ngài tôn giả A Nan đã khuyến hóa sách tấn trên đường tu tập. Tất cả đại chúng đều hoan hỷ lãnh thọ giáo huấn và nhất tâm thực hành để khỏi phụ ân đức từ bi của Phật và sự kỳ vọng của tôn giả A Nan.

 

---o0o---



HẾT

tải về 0.72 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   ...   10   11   12   13   14   15   16   17   18




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương