HỘI ĐỒng giám mục việt nam giáo lý giáo hội công giáo biên soạN CHO giáo dân việt nam


V. NHỮNG VI PHẠM PHẨM GIÁ HÔN NHÂN



tải về 1.61 Mb.
trang20/23
Chuyển đổi dữ liệu11.09.2017
Kích1.61 Mb.
#33085
1   ...   15   16   17   18   19   20   21   22   23

V. NHỮNG VI PHẠM PHẨM GIÁ HÔN NHÂN
Ngoại tình có ý chỉ sự bất trung giữa vợ chồng. Khi ít là một trong hai người nam nữ đã có vợ chồng, mà lại quan hệ tình dục với nhau, dù chỉ chóng qua thôi, họ đã phạm tội ngoại tình. Chúa Kitô đã lên án tội ngoại tình dù chỉ là trong ước muốn (x.Mt 27-28). Điều răn thứ VI và Tân Ước tuyệt đối cấm ngoại tình (x.Mt 5,32; 19,6) là bất công, là lỗi lời cam kết và giao ước trong hôn nhân, xúc phạm đến quyền lợi của người bạn đời, và của cơ chế hôn nhân, gây nguy hại cho nhân loại và cho các trẻ em đang cần sự hiệp nhất bền vững của cha mẹ.
Ly dị. Đức Giêsu đã nhấn mạnh đến ý định của Đấng Tạo Hóa muốn hôn nhân bất khả phân ly (x.Mt 5, 31-32). Người hủy bỏ những dung thứ đã lọt vào trong luật cũ (x.Mt 19,7-9). Giữa hai người công giáo, khi đã kết hôn và ăn ở với nhau (hòa hợp) rồi thì không quyền năng nào của loài người, và không lý do nào có thể tháo gỡ, trừ sự chết (CIC luật 1141). Ly dị vi phạm nặng luật tự nhiên, và còn xúc phạm đến giao ước mà Bí tích Hôn phối là dấu hiệu. Nếu người đã ly dị còn kết hôn nữa, thì họ ở trong tình trạng ngoại tình công khai và thường xuyên. Ly dị còn vô luân nữa, vì nó gây xáo trộn trong gia đình: người bạn đời bị bỏ rơi, con cái bị tổn thương vì cha mẹ chia ly, còn trong xã hội, nó như một vết thương dễ lây nhiễm.
Ly thân giữa vợ chồng, nhưng vẫn giữ dây hôn phối, đó là điều hợp pháp trong một số trường hợp giáo luật đã dự trù, chẳng hạn một trong hai vợ chồng:
1. Gây nguy hiểm nặng nề hoặc về hồn hay xác cho người kia và cho con cái.
2. Làm cho đời sống chúng trở nên cơ cực, (CIC luật 1153).

Đa thê là tình trạng không hợp luân lý. Thật là một thảm kịch khi người đa thê muốn trở thành Kitô hữu, họ buộc lòng bỏ một hay nhiều vợ đã cùng nhau chia sẻ đời sống vợ chồng lâu năm. Dù trở thành Kitô hữu, họ bị buộc nặng phải giữ nghĩa vụ đã giao kết với các người vợ khác, và các con cái của mình.
Loạn luân có ý chỉ những quan hệ xác thịt giữa những người có máu hoặc là sui gia ở cấp bậc mà luật không cho phép kết hôn với nhau. Tội nầy phá hủy quan hệ gia đình và biểu lộ một sự thoái hóa hướng về thú tính. Người lớn phạm tội loạn luân với thiếu niên hay trẻ con được gởi gấm cho mình thì còn tội gấp đôi, vì gây gương xấu và làm cho người trẻ mang dấu vết suốt đời, và còn vi phạm trách nhiệm giáo dục nữa.
Tự do kết hôn là hai người nam nữ chung sống như vợ chồng nhưng không tuân theo một hình thức pháp lý và công cộng nào. Nó gồm nhiều tình trạng như: có vợ bé, không muốn có hôn nhân, không có khả năng cam kết sống chung lâu dài (x.FC 81). Các tình trạng nầy đều xúc phạm phẩm giá của hôn nhân, trái luật luân lý, và là một tội nặng không được rước lễ.
Hôn nhân thử nghiệm là hai bên đã có ý kết hôn nên có những quan hệ tình dục để thử, trước khi dứt khoát kết hôn với nhau. Việc thử như vậy "không bảo vệ cho họ chống lại những ngông cuồng và thói thất thường" (CDF Per Hum 7). Tình yêu con người không cho phép "thử", nó đòi hiến thân trọn vẹn và dứt khoát. (x.FC 80).

Bài 54
Điều răn VII

SỐNG CÔNG BẰNG
(x. SGLC từ 2401 đến 2463)
"Ngươi không được trộm cắp"
(Xh 20,15) (Mt 19,8).
"Những chênh lệch quá đáng về kinh tế và xã hội, giữa những thành phần hay giữa những dân tộc trong cùng một gia đình nhân loại, thực là gương xấu và đi ngược với công bằng xã hội"

(MV 29)


"Ai yêu người thì đã chu toàn lề luật" (Rm 13,8). Nhưng tình yêu đích thực phải được xây dựng trên nền tảng công bằng. Vì thế, điều răn thứ bảy cấm không được ăn trộm, ăn cắp của người khác; và trong Kinh Thánh, còn có nghĩa là cấm bắt cóc, lường gạt và dụ dỗ người khác, để chiếm hữu cho mình hoặc bán làm nô lệ. Đây là một vấn đề rất thiết thực và quan trọng trong cuộc sống hôm nay.
I. CỦA CHUNG VÀ CỦA RIÊNG
Trong lịch sử nhân loại, người ta chứng kiến hai khuynh hướng đối nghịch nhau: Một đàng nhấn mạnh đến quyền làm chủ tập thể, đến nỗi khước từ quyền tư hữu, làm mất đi tự do và sáng kiến cá nhân. Đàng khác đề cao quyền tư hữu đến độ đánh mất ý thức về người khác, tạo ra tình trạng bất bình đẳng trong xã hội càng ngày càng lớn.
Dựa vào Kinh Thánh, người Kitô hữu hiểu rằng "Thiên Chúa đã đặt định trái đất và mọi vật trên trái đất thuộc quyền sử dụng của mọi người, và của mọi dân tộc. Chính vì thế, của cải được tạo dựng phải được phân phối cho tất cả mọi người cách hợp lý, theo luật công bằng là luật đi liền với bác ái" (MV 69). Đồng thời "Mọi người đều có quyền có một phần của cải đầy đủ cho mình và cho gia đình" (MV 69). Quyền tư hữu là đòi hỏi hợp pháp nhằm bảo vệ tự do, bảo đảm những nhu cầu căn bản, và có thể phát triển tình liên đới tự nhiên.
Hai yếu tố nầy gắn bó với nhau và bổ túc cho nhau, tạo mối quan hệ hài hòa giữa người với người trong cuộc sống chung.
II. TÔN TRỌNG THA NHÂN VÀ SỞ HỮU CỦA HỌ
1. Tôn trọng sở hữu của tha nhân:
Trên nền tảng đó, điều răn thứ bảy cấm không được trộm cắp, nghĩa là tước đoạt của cải người khác ngược với ý muốn của họ. Và bởi vì con người có liên hệ mật thiết đến cuộc sống chung trong xã hội, nên tội phạm đến điều răn nầy còn là: lấy của công làm của riêng, đầu cơ tích trữ, buôn gian bán lận, trốn tránh những thuế vụ chính yếu... Người ta cũng không được biến người khác thành món hàng để trao đổi, mua bán như dịch vụ mãi dâm, buôn bán bào thai và trẻ em, dùng người để buôn hàng lậu... Ngoài ra những giao kèo mua bán, thuê mướn lao động phải được tôn trọng và không được vi phạm.
Đức công bằng đòi hỏi phải đền bù những thiệt hại đã gây cho người khác, bằng cách trả lại đồ vật đã lấy, hoặc trả lại số tiền tương đương. Những người không trực tiếp trộm cắp, nhưng có tham gia bằng cách nào đó: điều khiển, phụ giúp hay mua lại của ăn cắp, cũng phải đền bù cân xứng.
Tuy nhiên có những trường hợp lấy của người khác mà không phải là trộm cắp. Đó là trường hợp "những người sống trong cảnh cùng quẫn cực độ, họ có quyền lấy ở của cải người khác những gì cần thiết cho mình" (MV 69), hoặc phỏng đoán được rằng người khác chấp thuận hành động của mình.
2. Tôn trọng thiên nhiên:
Ngày nay, ô nhiễm môi sinh đã trở thành vấn đề quan trọng của cả nhân loại. Khoáng sản, thực vật, động vật là những tài nguyên Thiên Chúa ban tặng cho tất cả mọi người. Vì thế, một đàng con người được phép khai thác những tài nguyên thiên nhiên để phục vụ cuộc sống, nhưng đàng khác phải tôn trọng thiên nhiên là của cải chung, cho con người hôm nay và cho cả những thế hệ mai sau.
III. CÔNG BẰNG XÃ HỘI VÀ HOẠT ĐỘNG KINH TẾ
Càng ngày kinh tế càng chiếm vai trò quan trọng hơn trong cuộc sống con người, đến nỗi "trong các quốc gia theo kinh tế tập sản, cũng như trong các quốc gia khác, hầu như cả đời sống cá nhân cũng như xã hội của họ, đều bị thấm nhiễm một thứ chủ nghĩa duy kinh tế" (MV 63). Vì thế, Hội Thánh đưa ra những hướng dẫn về đời sống kinh tế, nhằm phục vụ con người vốn là "tác giả, là tâm điểm và là cứu cánh của tất cả đời sống kinh tế xã hội" (MV 63).
1. Sinh hoạt kinh tế:
Phát triển kinh tế nhằm mục đích mục vụ nhu cầu của con người. Vì thế "phải cổ võ tất cả những yếu tố góp phần vào việc phát triển ấy" (MV 64). Tuy nhiên, mục đích căn bản của sản xuất không chỉ là gia tăng sản lượng, lợi tức hay quyền lợi, mà chính là để phục vụ con người, và là con người toàn diện. Cho nên "dù theo phương pháp và lề luật riêng, vẫn phải nằm trong giới hạn của trật tự luân lý" (MV 64). Đó là hướng dẫn căn bản cho sinh hoạt kinh tế con người.
Trong sinh hoạt đó, nhà nước có trách nhiệm bảo đảm an ninh, tự do của cá nhân, quyền tư hữu và sự ổn định tiền tệ... là những điều kiện cần thiết cho sự phát triển. Các chủ xí nghiệp và các nhà đầu tư cần có được lợi nhuận để bảo đảm việc đầu tư và cung cấp việc làm cho công nhân, nhưng họ cần quan tâm đến lợi ích của con người, chứ không chỉ đến lợi nhuận.
2. Việc làm:
Đối với Kitô giáo, lao động có một giá trị cao cả: không những để nuôi sống bản thân và gia đình, mà còn liên kết với tha nhân và phục vụ họ, cộng tác vào công cuộc sáng tạo của Thiên Chúa, và tham gia vào công cuộc cứu độ của Chúa Kitô qua những lao công vất vả của mình (x.MV 67).
Vì thế mỗi người có quyền đòi hỏi việc làm, không phân biệt chủng tộc, tôn giáo, phái tính hay giai cấp nào. Khi làm việc, con người cũng cần có được đồng lương xứng đáng "đủ khả năng xây dựng cho mình và gia đình một đời sống xứng hợp cả về phương diện vật chất, xã hội, văn hóa cũng như tinh thần" (MV 67). Để bảo đảm cho quyền lợi chính đáng của mình, công nhân có quyền đình công, khi không còn phương thế nào khác, và sự thực mang lại lợi ích tương xứng (x.MV 68).
3. Liên đới giữa các dân tộc:
Ngày nay người ta chứng kiến sự cách biệt rất lớn giữa các nước giầu và các nước nghèo. Đang khi một số quốc gia càng lúc càng giàu hơn, thì nợ nần của các nước nghèo lại gia tăng. Và nhiều khi một quốc gia giàu có là vì đã tước đoạt tài nguyên thiên nhiên của các nước nghèo, bằng nhiều hình thức khác nhau. Vì thế, Hội Thánh kêu gọi xây dựng công bằng thế giới, và tình liên đới giữa các dân tộc. Sự liên đới ấy không chỉ thể hiện bằng cách giúp đỡ trực tiếp, nhưng còn phải cải tổ cả cơ cấu của nền kinh tế thế giới, và phải hướng đến việc phát triển toàn diện của gia đình nhân loại.
IV. YÊU THƯƠNG NGƯỜI NGHÈO
Tiếng gọi của Thiên Chúa không chỉ ngưng lại ở đòi hỏi công bằng, mà còn đi xa hơn đến chỗ: yêu thương người nghèo. Ngay trong Cựu Ước, Dân Chúa đã có những biện pháp cụ thể để nâng đỡ người nghèo. Năm Toàn Xá với việc tha thứ nợ nần, trả lại đất đai. Đến thời Tân Ước, tiếng gọi ấy càng khẩn thiết hơn: Đức Giêsu công bố hạnh phúc cho người nghèo, chính Ngài đã sống nghèo giữa những người nghèo, để chăm sóc cho họ, và Ngài vẫn hiện diện trong những người nghèo (x.MT 25,31-36). Vì thế, trong suốt lịch sử của mình, Hội Thánh luôn dành cho người nghèo tình yêu thương đặc biệt, không chỉ nghèo vật chất mà cả về tinh thần và tôn giáo.
Là người Kitô hữu, ta không thể không mang tâm tư của Đức Giêsu (x.Kh 2,5). Lòng yêu thương ấy được thể hiện qua cuộc sống tiết độ, không tham lam của cải, không tiêu xài lãng phí. Tích cực hơn, ta góp phần làm vơi đi nỗi khổ của những anh chị em nghèo khổ hơn, về tinh thần cũng như về vật chất: an ủi, khích lệ, khuyên bảo, dạy dỗ; đồng thời cho kẻ đói ăn, cho kẻ khát uống, cho kẻ rách rưới mặc, cho kẻ không nhà được náu thân, vì "Nếu con không cho người đói khát ăn uống tức là con đã giết họ" (Các Giáo Phụ).
Những công việc đó làm cho ta được nên giống Cha trên trời là Đấng nhân từ và giàu lòng thương xót.

Bài 55
Điều răn VIII

TÔN TRỌNG SỰ THẬT
(x. SGLC từ 2464 đến 2513)
"Ngươi không được làm chứng dối chống lại đồng loại"
(Xh 20,16)

"Thầy bảo cho anh em biết: Đừng thề chi cả... Nhưng hễ có thì phải nói có, không thì phải nói không. Thêm thắt điều gì là do ác quỷ".


(Mt 5,33)

"Ai yêu thương, người ấy chu toàn lề luật" (Rm 13,8). Nhưng tình yêu đích thực phải được hướng dẫn và soi sáng bởi chân lý, và chỉ có chân lý mới giải thoát chúng ta. (x.Ga 8,32).
I. SỐNG TRONG SỰ THẬT VÀ LÀM CHỨNG CHO SỰ THẬT
Con người không thể sống với nhau nếu không tin tưởng lẫn nhau và thành thật với nhau. Không có sự thành thật, cuộc sống chung sẽ rất nặng nề, vì người ta phải thường xuyên cảnh giác và lo sợ.
Đối với người Kitô hữu, lời mời gọi sống theo sự thật được bắt nguồn từ chính Thiên Chúa. Cựu Ước xác quyết rằng Thiên Chúa là nguồn mọi sự thật. Lời Ngài là chân lý. Vì Thiên Chúa là chân lý, nên dân của Ngài được mời gọi sống trong sự thật (Rm 3,4). Nơi Đức Giêsu Kitô, toàn bộ chân lý của Thiên Chúa được bày tỏ. Đức Giêsu là chân lý (Ga 14,6), đến trong thế gian để làm ánh sáng cho cuộc đời. Bước theo Đức Giêsu là sống trong "Thánh Thần chân lý", Đấng dẫn đưa chúng ta vào "tất cả sự thật" (Ga 16,13). Vì thế, người môn đệ Đức Giêsu phải là người yêu mến sự thật "có thì nói có, không thì nói không" (Mt 5,33); nghĩa là thành thật, chân thành trong lời nói cũng như trong việc làm, không giả hình, không gian dối.
Không những sống trong sự thật, Kitô hữu còn được mời gọi làm chứng cho sự thật, theo gương Đức Giêsu, Đấng "đã đến trong thế gian để làm chứng cho sự thật" (Ga 18,37). Vì Chúa Kitô chính là sự thật, nên làm chứng cho sự thật cũng là làm chứng cho Chúa Kitô, cho niềm tin vào Ngài, cho Tin Mừng của Ngài "Đừng hổ thẹn vì phải làm chứng cho Chúa chúng ta " (2Tm 1,8).
Các vị Tử Đạo là những chứng nhân tuyệt vời. Các ngài đã làm chứng cho Chúa Kitô chết và sống lại, cho chân lý đức tin, và các ngài đã làm chứng bằng chính mạng sống của mình. Chính vì thế, Hội Thánh tôn kính các vị Tử Đạo cách đặc biệt, và ân cần lưu giữ bút tích về chứng tá của các ngài.
II. TỘI PHẠM CHỐNG LẠI SỰ THẬT
Người Kitô hữu được mời gọi "mặc lấy con người mới... để sống thật công chính và thánh thiện. Và khi đã cởi bỏ sự gian dối, mỗi người trong anh em hãy nói sự thật với người thân cận" (Ep 4,24-25). Tuy nhiên trong thực tế, ta có thể sống không phù hợp với sự thật bằng nhiều cách khác nhau:
1. Thề gian, làm chứng dối:
Những hành động nầy gây thiệt hại nghiêm trọng cho người khác, vì ảnh hưởng đến phán quyết của tòa án, dẫn đến chỗ kết án người vô tội, hoặc gia tăng hình phạt cho phạm nhân; hay ngược lại, đồng lõa với tội phạm.
2. Không tôn trọng danh dự người khác:
Phán đoán liều lĩnh là kết tội người khác khi không có đủ bằng chứng. Để tránh tội nầy, phải rất cẩn thận và phải giải thích tốt hết sức có thể, tư tưởng và hành vi của người khác.
Nói hành nói xấu là phơi bày lỗi phạm của người khác cho người chưa biết, mà không có lý do gì vững chắc.
Vu khống, cáo gian làm thiệt hại thanh danh người khác, và dẫn đến những phán đoán sai về họ.
Những lỗi phạm nầy hủy hoại danh thơm tiếng tốt của người khác, và vì thế, đi ngược lại đức công bằng và bác ái.
3. Nói dối:
Đây là lỗi phạm thường xuyên nhất. Nói dối là nói ngược với sự thật, khiến người khác bị lầm lạc, đang khi họ có quyền được biết sự thật. Mức độ tội phạm có thể khác nhau, tùy theo bản chất lời nói dối, hoàn cảnh và ý định của người nói dối, cũng như thiệt hại mà lời đó gây nên cho người khác. Vì thế ở tự nó, nói dối chỉ là tội nhẹ, nhưng trong một số trường hợp, nó trở thành tội nặng vì đi ngược lại đức công bằng và đức ái.
Tất cả những lỗi phạm đi ngược lại đức công bằng và đức ái, đòi hỏi phải được đền bù, kể cả khi người có tội đã được tha thứ. Khi không thể đền bù cách công khai, phải đền bù cách kín đáo. Đó là đòi hỏi của lương tâm.
III. TÔN TRỌNG SỰ THẬT
1. Tôn trọng sự thật:
"Bác ái trong sự thật và sự thật trong bác ái". Ta có bổn phận phải nói sự thật, nhưng đồng thời, trong một vài trường hợp cụ thể. Đức Ái đòi buộc ta phải cẩn trọng xem xét có nên nói sự thật cho người khác không, vì có thể dẫn đến những hậu quả không tốt. Ích lợi và an ninh của người khác, tôn trọng đời tư, công ích: đó là những lý do đủ để ta có thể im lặng, không nói điều không nên nói, hoặc nói tránh đi. Không ai bị bó buộc phải nói cho người khác điều mà họ không có quyền biết.
Chính ở đây, xuất hiện tầm quan trọng của bí mật tòa giải tội. Ấn tòa giải tội là bí mật bất khả xâm phạm. Vì thế sẽ là trọng tội nếu cha giải tội phản bội hối nhân, bằng lời hay cách thế nào khác và vì bất cứ lý do gì (x. Giáo luật 983).
Ngoài ra còn có những bí mật về nghề nghiệp, hoặc những tâm sự đòi hỏi được giữ kín. Chỉ được phép nói ra vì những lý do nghiêm trọng và cân xứng, hoặc vì tai nạn có thể xãy ra nếu không nói.
2. Những phương tiện truyền thông:
Trong thời đại hiện nay, những phương tiện truyền thông phát triển rất nhanh, và đóng vai trò ngày càng quan trọng hơn trong việc thông tin, đào tạo và phát triển văn hóa. Những phương tiện truyền thông đó phải nhằm mục đích phục vụ công ích, đặt nền tảng trên sự thật, tự do, công bằng và tình liên đới.
Trong thực tế, vì ảnh hưởng của lợi nhuận kinh tế và những động lực chính trị, người ta đã bóp méo sự thật, và làm cho nhiều người mất đi khả năng đón nhận chân lý (Đức Gioan Phaolô II). Vì thế, người tín hữu phải tự tạo cho mình một kỷ luật và khả năng phán đoán, dựa trên thang giá trị của Tin Mừng, để biết đánh giá đúng mức và tiếp thu những gì tốt đẹp qua các phương tiện truyền thông (x. TT 10).
3. Mỹ thuật Thánh:
Ngôn ngữ là một trong những phương thế diễn tả và truyền thông chân lý, nhưng không phải là phương thế duy nhất. Hơn thế nữa, có những chân lý mà ngôn ngữ con người không sao diễn tả nổi, nhất là chân lý về Thiên Chúa "Đấng ngự trị trong ánh sáng siêu phàm, vô phương đạt thấu". Vì thế, còn có nhiều phương thế khác để diễn tả chân lý, đặc biệt là Mỹ Thuật mà Hội Thánh quan tâm đề cao "Trong những hoạt động cao quý nhất của tài năng con người, rất đáng kể đến mỹ thuật, nhất là nghệ thuật tôn giáo, mà tột đỉnh của nghệ thuật nầy chính là nghệ thuật Thánh" (PV 122).
Vì thế, từ việc xây cất nhà thờ, trưng bày ảnh tượng hay những tác phẩm tôn giáo, phải quan tâm xem xét để tất cả phục vụ cho chân lý Đức Tin "góp phần tích cực vào việc đạo đức, là hướng tâm người ta về cùng Chúa" (PV 122).
IV. TRONG CUỘC SỐNG HÔM NAY
1. Do ảnh hưởng của sinh hoạt xã hội, và nhiều khi do cả nền giáo dục chuộng hình thức, sự gian dối đã trở thành quen thuộc trong cuộc sống hằng ngày của người dân Việt. Sự gian dối đó không những hủy hoại mối quan hệ người với người trong xã hội, mà còn hủy hoại chính ơn gọi làm người để "sống trong sự thật" (Rm 3,4). Vì thế cho dẫu khó khăn, người Kitô hữu phải cố gắng và can đảm sống ngay thẳng, thành thật, chân thành với chính mình và với mọi người.
2. Từ năm 1966, Hội Thánh Công Giáo đã chọn lễ Thăng Thiên hàng năm làm ngày Quốc Tế về Truyền thông. Việc Đức Giêsu về trời gắn liền với sứ mạng trao ban cho Hội Thánh: Ra đi loan báo Tin Mừng. Trong thời đại bùng nổ thông tin nầy, Hội Thánh phải tận dụng mọi phương tiện truyền thông để loan báo Tin Mừng (x.TT 3): Báo chí, phim ảnh, truyền thanh, truyền hình.
Phần đông anh chị em tín hữu ở Việt Nam là những người đón nhận chứ không phải là người sử dụng các phương tiện truyền thông. Tuy nhiên vai trò của cha mẹ rất quan trọng "Phải nhớ mình có bổn phận tận tâm coi sóc, kẻo kịch ảnh, sách báo và những thứ cùng loại, trái nghịch với Đức Tin, trái thuần phong mỹ tục, lại lọt vào ngưỡng cửa gia đình; cũng đừng để con cái gặp những thứ đó ở nơi khác" (TT 10).

Bài 56
Điều răn IX

THANH KHIẾT TRONG TÂM HỒN
(x. SGLC từ 2514 đến 2533)
"Ngươi không được ham muốn nhà người ta, ngươi không được ham muốn vợ người ta, tôi tớ nam nữ, con bò con lừa hay bất cứ vật gì của người ta"
(Xh 20,7)

"Ai nhìn người phụ nữ mà thèm muốn, thì trong lòng đã ngoại tình với người ấy rồi"


(Mt 5,28)
"Ai yêu người thì đã chu toàn lề luật" (Rm 13,8). Trong quan hệ nam nữ, tình yêu đòi hỏi sống thanh khiết, nghĩa là nhìn người khác như một con người mình tôn trọng, chứ không chỉ là dụng cụ, phương thế cho ta thỏa mãn những ham muốn thấp hèn. Điều răn thứ chín nhấn mạnh: Sự thanh khiết ấy phải bắt nguồn từ chiều sâu tâm hồn. Muốn được như thế, phải chấp nhận chiến đấu với chính bản thân, mỗi ngày và suốt đời.
I. THANH TẨY CON TIM
Trong bài giảng trên núi, Đức Giêsu công bố "Phúc thay ai có tâm hồn trong sạch, vì họ sẽ được nhìn thấy Thiên Chúa" (Mt 5,8). Tâm hồn là nơi quyết định tính chất luân lý của hành vi, vì "Tự lòng người phát xuất những ý định gian tà, những tội giết người, ngoại tình, tà dâm, trộm cắp, làm chứng gian và vu khống" (Mt 15,19). Tâm hồn ấy phải thanh khiết, nghĩa là phải biết qui hướng về Chúa, là Đấng tuyệt đối thanh khiết.
Những người có tâm hồn thanh khiết được hứa là "sẽ nhìn thấy Thiên Chúa". Như vậy, sự thanh khiết trong tâm hồn là điều kiện để được hưởng nhan thánh Chúa. Ngay từ bây giờ, tâm hồn ấy đã có thể giúp ta nhìn mọi sự bằng cặp mắt của Chúa, nhìn thân xác mình và thân xác người khác như Đền thờ của Thánh Thần, biểu lộ vẻ đẹp của Thiên Chúa, chứ không phải cái nhìn dung tục dẫn đến tội lỗi.
II. CUỘC CHIẾN ĐẤU NỘI TÂM
Trong thực tế, là tinh thần nhập thể trong một thân xác, và do ảnh hưởng của tội lỗi, "tất cả cuộc sống con người đều biểu hiện như một cuộc chiến bi thảm, giữa tốt và xấu, giữa ánh sáng và tối tăm" (MV 13). Phải chấp nhận bước vào cuộc chiến đấu, mỗi ngày và suốt đời.
1. Trong đời sống cá nhân:
Ai cũng có kinh nghiệm về những dục vọng xấu nội tại tâm hồn mình. Những dục vọng ấy là hậu quả của tội nguyên tổ. Bí tích Thánh Tẩy tha thứ mọi tội lỗi, nhưng những dục vọng xấu vẫn còn đó, và ta phải cố gắng chống lại bằng cách:
- Thanh tẩy ý hướng: xác định rõ cứu cánh đích thực của đời người là ở nơi Chúa, từ đó thi hành thánh ý Chúa trong mọi sự.
- Thanh tẩy cách nhìn bên ngoài cũng như bên trong: làm chủ tư tưởng, khước từ những tư tưởng xấu khiến ta xa Chúa.
- Cầu nguyện, vì "không ai có thể sống khiết tịnh nếu không được Chúa ban ơn" (Âu Tinh).
- Sống đoan trang, thể hiện trong cách ăn mặc, nói năng, cư xử với người khác.
2. Trong đời sống xã hội:
Môi trường xã hội hôm nay đầy rẫy những quyến rũ dâm ô: phim ảnh, báo chí, sách vở, hộp đêm... Thêm vào đó là chủ trương phóng túng về luân lý ngày càng phổ biến. Tất cả đều lôi kéo con người vào đường tội lỗi hơn là sống thánh thiện.
Muốn giữ được tâm hồn thanh khiết, người Kitô hữu phải có can đảm xa lánh những dịp tội, những dịp vui chơi giải trí không lành mạnh. Hơn thế nữa, còn phải góp phần với mọi người thiện chí, để xây dựng một bầu khí xã hội lành mạnh hơn, như Hội Thánh mong muốn: "Phúc Âm của Chúa Kitô không ngừng đổi mới cuộc sống và văn hóa của con người đã sa ngã, chống đối và khử trừ các sai lầm và tai họa phát sinh từ sức quyến rũ thường xuyên của tội lỗi luôn luôn đe dọa" (MV 58).
Bài 57
Điều răn X

CHỚ THAM CỦA NGƯỜI
(x. SGLC từ 2534 đến 2557)
"Ngươi không được ham muốn bất cứ vật gì của người ta"
(Xh 20,17)

"Của anh em ở đâu, thì lòng anh em ở đó"


(Mt 6,21)
Điều răn thứ bảy cấm trộm cắp, cướp đoạt và gian lận. Bổ túc cho đòi hỏi nầy, điều răn thứ mười nhắm đến lòng tham, như nguồn gốc của những tội lỗi trên. Như vậy, cả hai điều răn thứ chín và thứ mười nhắm đến ý hướng trong lòng, và tóm kết tất cả các giới răn.
I. HAM MUỐN BẤT CHÍNH
Ai đói cũng thèm ăn, ai lạnh cũng mong được sưởi ấm. Ở tự nó, những ham muốn nầy là tốt, vì giúp bảo vệ sự sống. Tuy nhiên, kinh nghiệm cho thấy con người không giữ được mức độ hợp lý trong những ham muốn nầy.
Vì không giữ được mức độ hợp lý nên sinh ra tham lam và ghen tị.
Tham lam: là ham mê của cải, và thế lực do của cải đem lại; từ đó có thể làm điều bất công hại đến tài sản người khác. Kinh Thánh còn ghi lại câu chuyện về một người giàu, tuy có vô số chiên cừu, nhưng lại đi bắt con chiên duy nhất của người nghèo để làm tiệc đãi khách (x.2Sm 12,1-4). Cuộc sống hôm nay vẫn đầy dẫy những con người tham lam như thế: những nhà buôn mong hàng hóa khan hiếm và đắt đỏ, những kẻ mong người khác gặp hoạn nạn để thu lợi...
Ghen tị: là buồn phiền khi thấy người khác có của cải và ước ao chiếm đoạt. Thánh Âu Tinh coi ghen tị là tội quỉ quái nhất, vì "ghen tị sinh ra thù ghét, nói xấu, vu khống, vui khi thấy kẻ khác gặp hoạn nạn, buồn khi thấy kẻ khác được may lành". Thánh Gioan Kim Khẩu nói quyết liệt hơn: "Chúng ta đấm đá nhau chỉ vì ghen tị... Nếu mọi người đều xâu xé nhau như vậy thì thân thể Chúa Kitô sẽ ra sao? Chúng ta đang làm tan nát Thân Thể Chúa Kitô".

II. ĐỂ VƯỢT QUA NHỮNG HAM MUỐN BẤT CHÍNH
1. Điều chỉnh những ước muốn:
Ở tự nó, ước muốn không phải là điều xấu. Vấn đề là phải điều chỉnh những ước muốn cho đúng đắn. Phải cảnh giác trước sự quyến rũ của những thực tại "ăn thì ngon, trông đẹp mắt và đáng quý" (St 3,6), nhưng lại ẩn chứa bên trong nọc độc của tội lỗi và sự chết. Điều mà người Kitô hữu phải ước muốn là sự toàn thiện, và đặt mình trong sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần. Vì thế, Thánh Phaolô nói người tín hữu là người "đã đóng đinh xác thịt vào thập giá cùng với các dục vọng và đam mê" (Gl 5,24), và ước muốn những điều hợp ý Chúa Thánh Thần (x.ra 8,27).


tải về 1.61 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   ...   15   16   17   18   19   20   21   22   23




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương