Hà Nội Điện Biên Phủ trên không


Kỳ 7: “Mỗi quả đạn là một B.52”



tải về 1.12 Mb.
trang13/18
Chuyển đổi dữ liệu26.07.2016
Kích1.12 Mb.
#6077
1   ...   10   11   12   13   14   15   16   17   18

Kỳ 7: “Mỗi quả đạn là một B.52”


LTS: 40 năm, một hành trình thời gian đủ dài để các tài liệu từng được liệt vào dạng "Tuyệt mật" (Top Secret) có thể được mang ra ánh sáng, để có cái nhìn đầy đủ về 12 ngày đêm "Điện Biên Phủ trên không" , từ hai phía.

Không nhằm nhắc nhớ, khơi gợi về một chương buồn trong quan hệ Việt - Mỹ, loạt bài nhằm cung cấp thêm một góc nhìn lịch sử, từ người trong cuộc. Và cũng hi vọng, sự thật lịch sử được minh định. Và đó cũng là lời nhắc nhở, rằng ''không có gì quý hơn độc lập, tự do' và không ai có thể xâm phạm điều đó.

"Hồi kháng chiến chống Pháp, bộ đội ta có câu "Một viên đạn là một quân thù". Bây giờ ta thực hiện câu nói đó: Mỗi quả đạn là một B.52", lời hô vang của tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn tên lửa 57 Nguyễn Văn Phiệt giữa bom đạn mịt mù đã xốc toàn trận địa vào cuộc "săn" B.52, dù số lượng đạn còn rất ít.

"Bóc vỏ" để SAM2 "làm bàn"

Đêm 20/12/1972, đúng như dự đoán của Bộ Tư lệnh, Mỹ huy động một lực lượng khá lớn: 90 lần chiếc B.52, 151 lần chiếc máy bay chiến thuật của không quân và hải quân Mỹ, tổ chức đánh vào 3 nơi: Hà Nội - Hải Phòng - Thái Nguyên.

Tại mặt trận Hà Nội, mặc dù thời tiết xấu nhưng một biên đội MIG.21 đã được lệnh cất cánh, đánh thẳng vào đội hình B.52 vừa triển khai xong. Bị tấn công bất ngờ, đội hình bay của đối phương tán loạn, các chiến sỹ tên lửa bỗng thấy cường độ nhiễu trên màn hiện sóng giảm hẳn và mọi người đều thầm cảm ơn các chiến sĩ không quân của ta đánh "bóc vỏ" tiêm kích tạo điều kiện cho tên lửa "làm bàn".

Lúc 20h20', tiểu đoàn 93 bố trí ở Phú Thượng đã bắt được tốp B.52 vào đánh Gia Lâm. Chờ đến cự ly 32km, tiểu đoàn trưởng ra lệnh cách đánh 3 điểm và đón X góc ở cự ly thích hợp nên đã bắn trúng mục tiêu, chiếc B.52 còn nguyên cả bom rơi gần như thẳng đứng xuống rìa làng Yên Thượng, cạnh ga Yên Viên. Sau đó tiểu đoàn 77 cũng áp dụng phương pháp đánh trên nhưng ở cự ly gần hơn chút ít, đạn trúng mục tiêu.

Cách đánh mới càng được khẳng định sau hai trận thắng của Tiểu đoàn 93 và 77. Quân chủng kịp thời thông báo tin chiến thắng xuống các đơn vị. Vừa  động viên tinh thần và ý chí chiến đấu vừa kịp thời phổ biến kinh nghiệm để hiệu quả chiến đấu cao hơn, diệt được nhiều B.52 hơn.

Khoảng 10 phút sau, ba tiểu đoàn 78, 79, 94 lần lượt phóng đạn vào 6 chiếc B.52 đang bay vào hướng ga Yên Viên. Thấy tín hiệu mục tiêu bị xóa, tiểu đoàn 94 phóng tiếp quả đạn cuối cùng góp phần tiêu diệt một chiếc B.52. Lúc này là 20h 30'.

Phát huy truyền thống phát sóng tìm mục tiêu đánh gần, tiểu đoàn 77 liên tục bám sát dải nhiễu sau và cũng chờ đến cự ly thích hợp mới nâng cao thế phát sóng và chỉ 4 phút sau đã bắn rơi tại chỗ chiếc B.52 ở xã Vạn Thắng ( Ba Vì, Hà Tây cũ).

Như vậy, chỉ trong chưa đầy 20 phút, sự phối hợp tuyệt đẹp của không quân với bộ đội tên lửa Hà Nội đã bắn rơi 4 máy bay B.52, trong có 2 chiếc rơi tại chỗ.

Vào lúc 4h30' rạng sáng ngày 21/1, 45 lần chiếc B.52 Mỹ lại tiếp tục nối đuôi nhau men theo sườn dãy Tam Đảo vào đánh khu vực Gia Lâm - Yên Viên. Do ta phán đoán chính xác đường bay của đối phương, lại có khí thế chiến thắng của các đợt chiến đấu trước trong đêm, các đơn vị tên lửa bảo vệ Hà Nội rất bình tĩnh tự tin bước vào trận đánh mới.

"Có thế nào ta đánh thế đấy"

Sau ba ngày bị đánh phá, việc vận chuyển đạn bị ùn tắc, đặc biệt đường giao thông vào Hà Nội phải qua hai con sông lớn là sông Hồng và sông Đuống càng thêm khó khăn. Mặc dù đã lập bến phà, cầu phao song vẫn gây ra ùn tắc. Chính vì thế mà trong đợt đánh phá lần này có đơn vị không tiếp tục chiến đấu liên tục được do đạn chưa chở đến kịp, có đơn vị có số đạn chỉ còn ở dưới mức quy định tối thiểu.

Tuy nhiên, các chiến sỹ đều động viên nhau: có thế nào ta đánh thế ấy, đã đánh là phải thắng. Trường hợp Tiểu đoàn 57 đứng chân ở trận địa Đại Đồng là một ví dụ. Đứng trước tình thế chỉ còn hai quả đạn trên bệ phóng, Nguyễn Văn Phiệt (Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 57) đã hô vang: "Hồi kháng chiến chống Pháp, bộ đội ta có câu: "Một viên đạn là một quân thù". Bây giờ ta cũng thực hiện câu nói đó: Một quả đạn là một B.52".

Đúng 5h9', Tiểu đoàn 57 thực hiện ngay khẩu hiệu của mình đề ra, bắt được mục tiêu, phóng một quả vào tốp 318. Tiếp theo tiểu đoàn 77 còn lại hai quả đạn, cũng phóng một quả vào tốp 318. Hai chiếc B.52 bị hạ gục.

Hai phút sau, lúc 5h11', Tiểu đoàn 57 phóng nốt quả đạn còn lại của mình vào tốp B.52 mang số hiệu 532. Một chiếc trong tốp này bốc cháy sáng rực cả một góc trời rồi đâm đầu xuống chợ Thá, núi Đôi (Vĩnh Phúc).

Tin chiến thắng tới tấp báo về sở chỉ huy. Tất cả Bộ Tư lệnh Quân chủng được sống lại cái không khí tưng bừng mừng vui của đêm đầu tiên bước vào chiến dịch. Có thể xem đây là một trận tiêu diệt lớn, một trận then chốt. Đêm thứ ba, với số đạn ít hơn hẳn hai đêm trước, các đơn vị tên lửa phòng không bảo vệ Hà Nội đã hạ được 7 chiếc B.52 của Mỹ. Có đến 5 chiếc rơi tại chỗ, bắt sống 12 phi công Mỹ.

Đặc biệt xuất sắc là các trận đánh xảy ra từ 5h09' đến 5h14' ngày 21/12: chỉ trong vòng 5 phút các Tiểu đoàn 57, 77, 79 đã liên tiếp bắn rơi 4 chiiecs B.52 trong đó có 3 chiếc rơi tại chỗ, một kỷ lục về hiệu suất chiến đấu.

Riêng Tiểu đoàn 57 (Trung đoàn 261), với hai quả đạn trong vòng 2 phút, liên tiếp bắn rơi 2 chiếc B.52, thực hiện đúng khẩu hiệu mình đề ra "một quả đạn tên lửa bắn rơi một B.52". Tiểu đoàn trưởng Nguyễn Văn Phiệt, sỹ quan điều khiển Nguyễn Văn Kiên, kíp trắc thủ: Thi, Lịch, Đài trở thành kíp chiến đấu nổi tiếng của bộ đội tên lửa phòng không.



Ráp sát thủ diệt B.52

Đã vào cái tuổi "xưa nay hiếm", sức khỏe cũng đã giảm sút nhiều; thế nhưng khi nhắc về những kỷ niệm sâu sắc của một thời trận mạc, gương mặt Trung tướng Lương Hữu Sắt (nguyên Nguyên Phó chủ nhiệm Tổng cục Kỹ thuật - Bộ Quốc phòng) bừng sáng khi kể việc bảo đảm đạn cho tên lửa đánh máy bay Mỹ trong chiến dịch "Điện Biên Phủ trên không".

Ngày ấy, ông được cấp trên giao nhiệm vụ cùng với đội ngũ cán bộ Cục kỹ thuật Quân chủng tổ chức bảo đảm vũ khí trang bị cho các đơn vị hỏa lực của PK- KQ đánh máy bay Mỹ, trong đó có việc bảo đảm đạn cho các đơn vị tên lửa. Đầu năm 1972, khi mở chiến dịch Trị Thiên, trên đã lệnh cho Cục Kỹ thuật chuyển 700 quả đạn vào chiến trường. Thế nhưng do đường xa hiểm trở, đối phương lại đánh phá ác liệt nên ròng rã suốt 4 tháng trời mới chỉ chuyển được 400 quả đạn.

Tháng 4/1972, Mỹ ném bom ra miền Bắc, việc vận chuyển đạn phải ngừng lại. Trung đoàn 257, 275, rồi cả các đơn vị của Sư đoàn 361, 363 cũng lần lượt di chuyển ra Bắc, nhưng không chuyển đạn ra được. Tình hình đạn đạn tên lửa ở miền Bắc lúc ấy khá khó khăn. Cục Kỹ thuật phải tính toán giải quyết khó khăn này bằng cách phục hồi 300 quả đạn hỏng đang nằm ở kho Sóc Sơn (Quảng Ninh) từ năm 1967.

Quân chủng tổ chức 2 dây chuyền sản xuất đạn; chỉ thị cho Sư đoàn 361 và 363 tổ chức tiếp 2 dây chuyền nữa. Cán bộ, chiến sỹ lăn lưng ra làm việc không quản ngày đêm mới khôi phục được 300 quả đạn để cấp phát cho các đơn vị. Tháng 8/1972, số đạn Liên Xô hỗ trợ cho ta mới đến ga Đồng Đăng. Quân chủng giao cho Cục Kỹ thuật lập trạm tiếp nhận ở Lạng Sơn.

Để số đạn tên lửa kia về được mỗi trận địa; công đầu thuộc về cán bộ, chiến sỹ các tiều đoàn kỹ thuật. Đạn tên lửa được tháo rời từng bộ phận, đóng vào các hòm khác nhau: hòm đầu đạn, hòm đuôi, hòm cánh, hòm nhiên liệu... đến ga tàu phải dùng cần cẩu cẩu xuống. Khi vận chuyển, phải sử dụng xe chuyên dụng chở những thùng đựng đạn đến nơi cất giấu an toàn cách đó vài chục cây số, mà phải di chuyển trong đêm để tránh con mắt cú vọ của kẻ thù.

Ngay cả việc vận chuyển đạn tên lửa về trận địa Hải Phòng hay Hà Nội cũng gặp muôn vàn khó khăn, đòi hỏi sự tỉ mỉ, cẩn trọng rất cao. Chỉ cần sai sót nhỏ sẽ dẫn đến sự thiếu đồng bộ, bởi, mỗi hòm là một bộ phận của quả đạn, tài liệu lại không đi kèm. Tuy vậy, tình trạng lạc hòm hay "nhầm lý lịch" đã không xảy ra. Cứ ròng rã tuần tự như thế, đến tháng 11/1972, 1.000 quả đạn tên lửa đã được chuyển an toàn từ nước bạn về Việt Nam.

Khi bước vào chiến dịch 12 ngày đêm, các đơn vị tên lửa trên miền Bắc cũng có một số đạn dự trữ, nhưng không đáng kể. Để phục vụ cho các trận địa tên lửa của Hà Nội và thành phố Hải Phòng có hai tiểu đoàn, hai dây chuyền sản xuất đạn. Họ được bổ sung thêm quân liên tục thay nhau sản xuất cả ngày lẫn đêm để kịp có đạn cho bộ đội chiến đấu.

Tuy nhiên, mới chỉ qua hai đêm đầu tiên của chiến dịch, nguy cơ thiếu đạn tên lửa đã xảy ra. Ngay cả khi Bộ tư lệnh Quân chủng PK-KQ chủ trương dành tên lửa chỉ đánh B.52, thì hầu như đêm nào cũng có những tiểu đoàn phải đánh đến quả đạn cuối cùng. Bởi lẽ, mỗi một mục tiêu B.52 có khi ta phải bắn vài ba quả.

Đêm 18/12, ta bắn rơi 3 chiếc B.52; đêm 19, ta bắn rơi 2 chiếc B.52; đêm 20, số B.52 bị hạ gục đã lên tới 7 chiếc. Để khắc phục tình trạng thiếu đạn tên lửa, Tư lệnh Quân chủng trực tiếp giao nhiệm vụ cho tướng Sắt phải chỉ đạo tìm phương án tháo gỡ. Lúc bấy giờ chỉ có Tiểu đoàn kỹ thuật 95 đang sản xuất đạn phía bắc sông Hồng và Tiểu đoàn 80 sản xuất đạn ở Phùng. Tướng Sắt đề nghị điều tiểu đoàn kỹ thuật của Trung đoàn 274 tăng cường cho dây chuyền sản xuất tên lửa của Tiểu đoàn 80; điều đội lắp ráp đạn của xưởng A31 xuống tăng cường tiếp cho Tiểu đoàn 80.

Với khẩu hiệu "Tất cả cho chiến đấu!", "Tất cả cho sản xuất đạn tên lửa", cả guồng máy lắp ráp đạn tên lửa được vận hành hết công suất. Sản lượng tăng gấp đôi. Thêm vào đó, trước đây vì bố trí các bãi lắp ráp đạn tên lửa ở xa nhau là để giảm tổn thất nếu bị Mỹ ném bom, nay tốc độ lắp ráp này không thể nào đáp ứng nổi. Qua nhiều ngày đêm cùng anh em trong đơn vị tìm tòi, Tiểu đoàn trưởng kỹ thuật Dương Quảng Châu đã đề ra sáng kiến mới: nạp nhiên liệu sẵn, lắp ráp đạn ngay trên xe kéo đạn và hợp lý hóa một số động tác kỹ thuật, vì thế mà năng suất lắp ráp đạn trong một ngày đêm tăng lên gấp đôi.

Nhờ vậy, tình trạng lắp ráp đạn không theo kịp yêu cầu chiến đấu đã cơ bản được giải quyết. Khi Mỹ đưa B.52 ồ ạt vào ném bom Hà Nội, miền Bắc đã có đủ cơ số đạn tên lửa để nghênh tiếp chúng. Điển hình là đêm 26/12, Mỹ sử dụng 105 lần chiếc B.52 đánh liên tục, tập trung vào nhiều mục tiêu quan trọng ở Hà Nội, Hải Phòng và Thái Nguyên; có 8 máy bay B.52 bị lưới lửa phòng không của miền Bắc bắn hạ.





Kỳ 8: Ngày phán xét



Chiến dịch Linebacker 2 không thể vắt ra được những nhượng bộ quyết định nào của Bắc Việt Nam”, G.S Guenter Lewy viết trong cuốn “Mỹ ở Việt Nam” (xuất bản năm 1978).

Siêu pháo đài bay bất khả xâm phạm?

Một cuộc xuất kích của bất kỳ chiếc B.52 nào cũng được tổ chức đặc biệt chặt chẽ. Là một trong 3 thứ vũ khí chiến lược của quân đội Mỹ, mỗi chiếc trị giá 8 triệu USD lúc bấy giờ, siêu pháo đài bay B.52 liên tục được nâng cấp các phiên bản B.52D, B.52G… mỗi tốp bay thường gồm 3 chiếc.

B.52 một thời được xem là niềm tự hào của các nhân viên công ty Boeing cũng như các chuyên viên kỹ thuật quân sự Mỹ.

Tuy nhiên đối với những người có thân nhân bị nạn trong các vụ ném bom rải thảm ở Việt Nam thì B.52 là một biểu tượng của tội ác.

Một chiếc B.52 có sải cánh 56,39m, dài 40,05m, cao 12,4m, trang bị 8 động cơ, khối lượng cất cánh tối đa 221,35 tấn, tầm bay của B.52G tới 12.000m, B.52H tới 16.000m so với mặt đất, trần bay ở độ cao 15 km so với mặt biển, một kíp bay gồm có 6 người, có thể mang tới 30 tấn bom.

Đại úy không quân Mỹ Robert E. Wolff, trong một bài đăng trên tạp chí “Không quân Mỹ” (Air Force Magazine) tháng 9/1979 tiết lộ về quy luật hành quân ném bom của một phi đội B.52 trong chiến dịch Linebacker 2 tại Bắc Việt Nam năm 1972: “Cuộc tập kích bằng B.52 kéo dài 11 ngày vào tháng 12/1972 đánh phá miền Bắc Việt Nam đã từng gây ra nhiều tranh luận là một trong những trường hợp sử dụng tập trung hỏa lực không quân ở mức độ cao nhất trong lịch sử chiến tranh, chống lại một hệ thống phòng không mạnh nhất thế giới…

Thoạt tiên, nó (chiến dịch Linebacker 2-NV) được hoạch định dưới hình thức một cuộc tập kích bằng B.52 kéo dài 3 ngày vào khu vực Hà Nội, Hải Phòng, nhưng sau đó được mở rộng thành cuộc chiến tranh 11 ngày…

Dẫn đầu lực lượng không quân chiến thuật là các máy bay EB66 được sử dụng như một dàn máy gây nhiễu, áp dụng các biện pháp điện tử chống điện tử tầm xa. Trong cuộc hành quân này, các máy bay EB66 bay lượn ở phía Nam khu vực mục tiêu, gây nhiễu hệ thống phòng không của Hà Nội.

Các máy bay F111 dẫn đầu lực lượng tấn công thực sự và lãnh đạo một nhiệm vụ có mức độ ưu tiên cao nhất. Máy bay F111 bay rất thấp với tốc độ nhanh bám sát địa hình để đánh sân bay và các vị trí SAM của đối phương.

“Lần đầu tiên trong một cuộc chiến tranh, chúng ta - Mỹ thực hiện một nỗ lực quyết định nhằm triệt hạ các hệ thống phòng không tuyệt hảo của Hà Nội”, Robert E. Wolff viết.

Viên đại úy không quân mô tả, theo sau các F111 là các máy bay F4 rải một hành lang gồm những mảnh kim loại nhiễu xạ làm mờ các màn hiện sóng ra-đa của đối phương. Bức màn nhiễu xạ này sẽ khiến những nhân viên điều khiển ra-đa đối phương rất khó khăn phân biệt được một B.52 với nhiều tín hiệu giả tạo thu nhận trên màn hiện sóng.

Nhiệm vụ nữa của F4 là cùng với máy bay F105 hộ tống các máy bay ném bom B.52 khổng lồ. Các máy bay chiến đấu càn quét khu vực mục tiêu trước khi lực lượng máy bay chiến lực B.52 đến nơi…

Các máy bay F105 “bàn tay sắt” trang bị tên lửa chống ra-đa chặm chùm tín hiệu hướng dẫn của tên lửa SAM-2 (loại tên lửa chống máy bay phổ biến của Việt Nam lúc ấy), ra-đa.

“Nhờ phối hợp hoạt dộng của các vị trí ra-đa với nhau, đối phương có thể làm giảm bớt hiệu năng của các tên lửa chống ra-đa của chúng ta – Mỹ. Tuy nhiên, sự có mặt của các máy bay F105 này đã làm giảm bớt mức độ chính xác của tên lửa đối phương rất nhiều’, Robert E. Wolff viết.

Dù sao đi nữa, bộ phận chủ công của các cuộc hành quân Linebacker 2 vẫn là các máy bay B.52. Sự hỗ trợ của các loại máy bay khác là rất quan trọng, nhưng các B.52 tự chúng cũng có mang rất nhiều trang bị có thể giúp chúng thâm nhập vào mục tiêu. Các thiết bị điện tử chống điện tử được đánh giá cao nhất vì chúng có thể làm vô hiệu hóa mối đe dọa của các tên lửa SAM. Nó còn được trang bị 4 súng máy bắn về phía sau để chống các máy bay MIG.

“Ngày đầu tiên chúng tôi biết được có một chiến dịch quan trọng đã được hoạch định là ngày 17/12/1972. Chúng tôi sẽ tiến công những mục tiêu ở những vùng được phòng thủ chặt chẽ nhất thế giới”, viên đại úy không quân nhớ lại trong hồi kí.

Với những trang thiết bị điện tử và lực lượng bảo vệ, gây nhiễu… được tổ chức chặt chẽ khi hành quân như thế, quân đội Mỹ tự hào đây là thứ vũ khí chiến lược bất khả xâm phạm.

Nhưng rốt cuộc, B.52 lần lượt rụng như sung trên bầu trời Hà Nội, còn Robert E. Wolff trở thành một trong những phi công tham chiến bị bắt tại miền Bắc Việt Nam khi siêu pháo đài bay B.52 do anh ta lái bị bắn rơi.



Hạ gục pháo đài bay

20h13’ ngày 18/12, cả vùng trời đêm phía Bắc Hà Nội bừng sáng vì một quả cầu lửa trên không vụt cháy. Tiểu đoàn tên lửa 59, Trung đoàn 261, Sư đoàn phòng không Hà Nội, với 3 quả tên lửa SAM 2, tại góc tà 340, bắn rơi tại chỗ một chiếc B.52G đang xâm nhập đánh phá Hà Nội mà chưa kịp cắt bom.

Chiếc B.52 đầu tiên bị tên lửa SAM bắn trúng trên bầu trời Hà Nội rơi xuống cánh đồng Chuôm, thuộc xã Phù Lỗ, huyện Kim Anh, tỉnh Vĩnh Phúc, cách trận địa bố trí tiểu đoàn tên lửa 59 vẻn vẹn có… 10km.

“Ngày 19/12/1972, giới quân sự Mỹ ở Sài Gòn báo cáo lại, có 3 B.52 và 2 máy bay ném bom bị rơi ngoài vĩ tuyến 20, 15 phi công bị mất tích. Hơn 100 máy bay B.52 và nhiều loại máy bay ném bom khác đã tham gia trong trận này”, thông tin từ cuốn Chiến tranh Việt Nam (Vietnam War, USA, Mallard, 1989).

“Ngày 21/12/1972, theo thông báo trong trận ngày 18/12/1972 có 8 máy bay B.52 bị thất lạc cùng với 43 phi công bị mất tích. Ngày 22/12, lại có 10 máy bay B.52, mỗi chiếc trị giá 8 triệu đô la bị mất tích từ 18/12, cùng với 55 phi công. Một con số tương đương với 13% số tù binh Mỹ được giữ tại Hà Nội trước khi ném bom”, cũng trong cuốn Chiến tranh Việt Nam ghi.

“Ngày 26/12/1972, máy bay Mỹ đã dội bom xuống Hà Nội trong suốt 40 phút và có ít nhất là 5 chiếc B.52 đã bị bắn rơi”, lại là cuốn sách Chiến tranh Việt Nam thống kê.

“Ngày 31/12/1972, chiến dịch ném bom căng thẳng nhất của Mỹ trong cuộc chiến tranh Việt Nam đã kết thúc. Bắc Việt cho dùng toàn bộ lực lượng tên lửa đất đối không gồm 1.200 quả để bắn trả máy bay B.52. 15 chiếc B.52 bị bắn rơi cùng với 93 phi công đã bị chết, mất tích hoặc bị bắt”, sách này tổng kết.

Còn hãng tin Mỹ UPI, ngày 31/12/1972 đưa bản tin ngắn gọn: “12 ngày ném bom trở lại vùng Hà Nội, Hải Phòng được coi là cuộc ném bom dữ dội nhất trong lịch sử chiến tranh, đã làm cho Mỹ bị thiệt hại nặng nề nhất về người và trang bị. Từ 18-30/12, 76 phi công Mỹ đã bị mất ở Bắc Việt, có lẽ là bị bắt. Nhiều người chết và bị thương”.

Đại úy không quân Mỹ Robert E. Wolff mà chúng tôi nhắc tới ở trên đã là một không nhiều các phi công Mỹ may mắn “bị bắn rơi” nhưng còn có thể trở về. Trong những ngày bị giam giữ tại Hilton Hỏa Lò, Robert có dịp nhớ lại các thông số đã được cập nhật trước khi bước lên chiếc pháo đài bay định mệnh: “Vùng Hà Nội, Hải Phòng được phòng thủ bằng 30 vị trí tên lửa SAM-2, với trên 200 bệ phóng. Tên lửa SAM-2 được thiết kế đặc biệt để bắn hạ máy bay ở độ cao mà chúng tôi dự định bay.

Ngoài hệ thống SAM nói trên còn có 145 máy bay chiến đấu, phần lớn là MIG-19 và MIG-21, là những máy bay có thừa khả năng gây trở ngại cho lực lượng máy bay B.52. Trong hệ thống phòng thủ này còn có pháo phòng không đủ loại, trong đó có một vài loại đáng ngại. Chúng tôi rời phòng thuyết trình với tâm trạng băn khoăn…”.

Thực ra thông tin tình báo của Mỹ về lực lượng không quân của Hà Nội khá chính xác (dù không tuyệt đối).

Trung tướng Nguyễn Đức Soát (Anh hùng LLVTND, nguyên Tư lệnh Quân chủng Phòng không- Không quân, nguyên Phó Tổng Tham mưu trưởng QĐND Việt Nam) xác nhận: “Năm 1972, khi bước vào cuộc đọ sức giai đoạn này, chúng ta có 4 trung đoàn không quân chiến đấu”.

Tổng số máy bay phía Hà Nội có lúc bấy giờ khoảng hơn 150 chiếc, nếu so với phía Mỹ có hơn 1.000 máy bay ở miền Nam Thái Lan, chưa kể thường xuyên có 3 tàu sân bay, cao điểm có lúc đến 4 tàu sân bay được bố trí ở vịnh Bắc Bộ và biển Đông, mỗi tàu sân bay chở theo 80-90 chiếc máy bay nữa, thì sự chênh lệch lực lượng là quá lớn.

Siêu pháo đài bay xuất trận trên bầu trời Hà Nội, với tỷ lệ rơi rụng ngày càng lớn. John T. Greenwood, khi viết “Máy bay B.52 trong vai trò chiến thuật” (Tạp chí Lịch sử quân sự, số 24, tháng 12/1972), thống kê: “Có 15 chiếc B.52 bị tên lửa đất đối không bắn rơi: 9 chiếc B.52H và 6 chiếc B.52G; 9 chiếc khác bị thương, 29 phi công và nhân viên phi hành đoàn tử trận. 33 bị bắt sống, về sau được trao trả và 26 được cứu thoát sau trận đánh. Cá pháo đài bay đã oanh tạc 34 mục tiêu, trút gần 49.000 trái bom, tổng cộng 15.000 tấn (13.606.000kg)”.

Tuy nhiên, Joseph Amter, trong “Lời phán quyết về Việt Nam” đưa ra một thống kê khác: ‘Khoảng 33-35 B.52, chở gần 100 phi công Mỹ đã bị bắn rơi trong 12 ngày. Con số chính thức được thừa nhận chỉ 15 máy bay bị mất tích hầu như chắc chắn là sai. Tài bắn chính xác mới phát hiện ra ở các tay súng Bắc Việt Nam làm cho Lầu Năm góc ngạc nhiên đến mức cuối tháng 12 Bộ tham mưu liên quân đòi chấm dứt ném bom”.

Thống kê từ phía Hà Nội đưa ra ủng hộ con số tính toán của Joseph Amter: Trong 12 ngày đêm chiến dịch “Điện Biên Phủ trên không”, miền Bắc Việt Nam bắn rơi 81 máy bay Mỹ, trong đó có 34 pháo đài B.52.

Còn tờ Dailly Mirro (Tấm gương Chủ nhật, ngày 24/12/1972) thì mỉa mai: “Nixon ra lệnh cho Kissinger nói dối quanh nhằm thắng cử trong khi đó Nixon chuẩn bị B.52 để ném bom. Nhưng với mức độ B.52 bị rơi như hiện này thì hơn 200 ngày nữa là miền Bắc Việt Nam sẽ bắn rơi hết. Nixon đã nói dối và lừa gạt ngay cả chính nhân dân của ông ta”.

1   ...   10   11   12   13   14   15   16   17   18




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương