HÀ NỘI, 2015 BỘ giáo dục và ĐÀo tạo ngân hàng nhà NƯỚc việt nam


Giải pháp xây dựng và tạo lập hệ thống tài chính ổn định và thị trường tài chính phát triển



tải về 1.63 Mb.
trang15/17
Chuyển đổi dữ liệu10.08.2016
Kích1.63 Mb.
#15427
1   ...   9   10   11   12   13   14   15   16   17

3.3.3. Giải pháp xây dựng và tạo lập hệ thống tài chính ổn định và thị trường tài chính phát triển

3.3.3.1. Nâng cao tính linh hoạt và hiệu quả chính sách tiền tệ


Để thực hiện cơ chế điều hành chính sách tiền tệ theo khuôn khổ CSLPMT tại Việt Nam trong thời gian tới, công tác điều hành CSTTcủa NHNN phải đảm bảo được tính linh hoạt và hiệu quả, theo đó:

Một là, thực hiện đồng bộ các giải pháp nhằm đảm bảo một môi trường vận hành CSTT một cách thuận lợi, nâng cao vai trò của các công cụ CSTT gián tiếp. Theo đó, nhiều chính sách cần được thực hiện và phối hợp một cách hiệu quả, tạo được hiệu ứng hỗ trợ mạnh mẽ, cụ thể như sau:

- Các giải pháp tiết giảm tình trạng đô la hóa và vàng hóa, ổn định thị trường ngoại hối cần được NHNN thực hiện nhịp nhàng cùng với các giải pháp điều hành chính sách tỷ giá chủ động, mang tính dẫn dắt thị trường; chính sách đấu thầu vàng đảm bảo sự ổn định của thị trường;chính sách tỷ giá cần được NHNN điều hành linh hoạt hơn đảm bảo được xu hướng ổn định để góp phần kiểm soát lạm phát, khuyến khích xuất khẩu, kiểm soát nhập khẩu, tăng dự trữ ngoại hối;

- Các giải pháp giải phóng kênh tín dụng cần được NHNN thực hiện mạnh mẽ thông qua các chương trình tái cấu trúc, giải quyết nợ xấu tồn đọng, hoàn thiện cơ chế quản trị rủi ro tín dụng, rủi ro thị trường, thông qua các chương trình tọa đàm xúc tiến đầu tư theo vùng lãnh thổ, theo ngành nghề.

- Các giải pháp cần nhằm tăng cường vai trò của thị trường tiền tệ, đặc biệt là thị trường liên ngân hàng trong việc truyền tải những thay đổi trong điều hành CSTT của NHNN tới các điều kiện tiền tệ (mức cung tiền và lãi suất thị trường) đối với nền kinh tế; cung cấp các chỉ báo về tình hình vốn khả dụng của hệ thống các TCTD;

- Các biện pháp điều hành lãi suất với những bước đi thích hợp, đảm bảo giảm nhanh chóng và hiệu quả mặt bằng lãi suất, phù hợp với diễn biến kinh tế vĩ mô, từng bước hình thành đường cong lãi suất, hỗ trợ đắc lực cho mục tiêu ổn định tỷ giá và thị trường ngoại hối;

- Các giải pháp thiết lập kỷ luật thị trường tiền tệ cần được thực hiện nghiêm túc trên cơ sở điều hành CSTT gắn kết chặt chẽ với công tác thanh tra, giám sát, đảm bảo thực thi nghiêm các chính sách của NHNN, qua đó giúp cơ chế truyền tải CSTT được vận hành tốt hơn.



Hai là, phối hợp các công cụ điều hành một cách linh hoạt, hiệu quả, từng bước tạo lập các điều kiện cần thiết để chuyển sang cơ chế điều hành gián tiếp khi thuận lợi, cụ thể như sau

- Phối hợp giữa điều hành lãi suất và tỷ giá hướng tới đảm bảo lợi ích nắm giữ đồng nội tệ, khuyến khích các doanh nghiệp xuất khẩu bán lại ngoại tệ cho các TCTD, ổn định kỳ vọng lạm phát và ổn định tỷ giá theo cam kết điều hành hàng năm;

- Tăng cường vai trò của công cụ thị trường mở, phối hợp nhịp nhàng với các kênh của thị trường tiền tệ để điều tiết lượng tiền cung ứng. Theo đó, Nghiệp vụ OMO cần được điều hành linh hoạt, thận trọng thông qua hoạt động mua các giấy tờ có giá và bán tín phiếu NHNN với kỳ hạn và lãi suất được điều chỉnh phù hợp với diễn biến của thị trường để hỗ trợ thanh khoản và điều hòa vốn khả dụng cho các TCTD;

- Phối hợp và điều chỉnh các mức lãi suất chỉ đạo một cách chủ động, truyền dẫn hiệu quả tín hiệu điều hành của NHNN để định hướng thị trường. Theo đó, NHNN cần điều hành lãi suất phù hợp với diễn biến kinh tế vĩ mô và mối quan hệ của lãi suất với cung tiền, lạm phát, tăng trưởng kinh tế và diễn biến của thị trường tiền tệ.


3.3.3.2. Nâng cao năng lực cạnh tranh của các Ngân hàng thương mại nói riêng và hệ thống ngân hàng Việt Nam nói chung


Với đặc điểm cấu trúc hệ thống tài chính dựa vào ngân hàng, kênh cung ứng vốn chủ yếu cho nền kinh tế là từ hệ thống các TCTD nên hiệu quả kênh dẫn truyền lãi suất cơ bản được quyết định bởi hoạt động của hệ thống ngân hàng. Mức độ cạnh tranh của hệ thống ngân hàng trước hết quyết định khả năng di chuyển vốn dễ dàng giữa các tổ chức này và vì thế sẽ tạo cơ chế lan tỏa ảnh hưởng của lãi suất mục tiêu trong điều hành CSTT tới mặt bằng lãi suất thị trường. Bên cạnh đó, năng lực cạnh tranh của hệ thống ngân hàng cũng quyết định mức nhạy cảm của cung tín dụng đối với sự biến động của lãi suất. Nâng cao năng lực cạnh tranh của hệ thống ngân hàng cần thực hiện những điểm sau:

Một là, nâng cao mức vốn đồng thời giảm thiểu sự chênh lệch về vốn quá lớn trong hệ thống TCTD.

Tính đến nay, tất cả các ngân hàng thương mại đã đáp ứng đầy đủ yêu cầu về vốn điều lệ. Tổng số vốn đăng ký của 39 ngân hàng thương mại Việt Nam là 298.383 tỷ VND, với quy mô trung bình là 7.651 tỷ VND một ngân hàng. Tuy nhiên, NHNo&PTNT giữ vị trí thứ nhất với số vốn điều lệ trị giá 32.661 tỷ VND thì vẫn ở mức vô cùng khiêm tốn khi so sánh được với các ngân hàng trong khu vực (Forbes 2012).

Một đặc điểm cần chú ý là các NHTMNN đều có mức vốn tương đối lớn, trên 20 tỷ đồng. Trong 34 NHTMCP, chỉ có bốn ngân hàng có số vốn trên 10.000 tỷ VND. Như vậy độ lệch chuẩn của vốn điều lệ của các ngân hàng là khá lớn, giá trị trung bình lớn hơn rất nhiều so với trung vị cho thấy hệ thống ngân hàng đang phân phối lệch về phía các ngân hàng nhỏ.



Như vậy, có thể thấy việc tăng vốn điều lệ của các NHTM Việt Nam, đặc biệt là các NHTMCP trong thời gian qua chủ yếu là nhằm đạt được mức vốn theo quy định của NHNN mà chưa quan tâm tới việc hoạch định lộ trình tăng vốn phù hợp với quy mô phát triển. Điều này đã tạo ra sự tăng trưởng không tương xứng giữa quy mô vốn chủ sở hữu với trình độ quản trị, nguồn nhân lực của các ngân hàng và đây là một trong những nguyên nhân chính dẫn đến việc triển không bền vững của các NHTM. Do đó, giải pháp trước mắt cần có lộ trình tăng vốn cụ thể cho hệ thống NHTMCP và sau đó là các NHTMNN. Hơn nữa, phần lớn các NHTMCP có quy mô vốn cũng như thị phần tín dụng nhỏ nên hệ số CAR vẫn ở trong giới hạn cho phép nhưng tiềm lực cạnh tranh là vô cùng hạn chế nên giải pháp tối ưu cho các ngân hàng này không phải là lộ trình tăng vốn mà là các chính sách nhằm hợp nhất, tạo lập các ngân hàng lớn, đủ sức cạnh tranh trên thị trường.

Hai là, giải quyết vấn đề nợ xấu

Nếu tỷ lệ nợ xấu càng lớn thì năng lực tài chính, và do đó khả năng cạnh tranh của ngân hàng sẽ giảm [3] Việc bán nợ xấu cho VAMC được xem là giải pháp cứu cánh, nhưng nếu sau 5 năm, nếu các khoản nợ xấu đó không được xử lý triệt để, ngân hàng khó có thể trút được gánh nợ. Trong khi việc trích lập dự phòng 20% cho trái phiếu đặc biệt sau khi bán nợ cho VAMC cũng chưa hẳn được các ngân hàng thực hiện một cách đầy đủ, nhất là với những ngân hàng yếu kém, lợi nhuận sụt giảm, thậm chí lợi nhuận âm sẽ không còn khả năng trích lập dự phòng. Như vậy, vòng luẩn quẩn nợ xấu sẽ lặp lại và xấu hơn. Ngoài ra, VAMC cũng cần phải có thị trường mua - bán nợ, cũng như cần có sự tham gia của các nhà đầu tư nước ngoài. Tuy nhiên, việc này không hề đơn giản, bởi việc mua - bán nợ đằng sau đó thực chất là bất động sản (phần lớn các tài sản thế chấp hiện nay là bất động sản), trong khi thủ tục cho phép người nước ngoài được sở hữu bất động sản là rất phức tạp. Do đó, thị trường mua - bán nợ khó có thể hình thành như kỳ vọng. Vì vậy, các giải pháp cơ bản giải quyết nợ xấu trong thời gian tới cần tập trung vào các khía cạnh sau:



  • Xây dựng hành lang pháp lý thông thoáng, tạo điều kiện cho giao dịch chuyển nhượng các khoản nợ xấu từ các ngân hàng diễn ra nhanh chóng. Cần loại bỏ những quy định gây trở ngại cho việc chuyển giao nợ xấu. Bên cạnh đó cần giám sát hợp nhất các ngân hàng, tránh trường hợp ngân hàng bán các khoản nợ xấu cho các công ty AMC thuộc sở hữu với mức giá cao hơn mức giá hợp lý đối với nợ xấu.

  • Tạo điều kiện để các nhà đầu tư trong nước và nước ngoài tham gia vào thị trường mua bán nợ xấu. Cần khắc phục các trở ngại về mặt pháp lý gây hạn chế việc chuyển nhượng hay cho thuê quyền sử dụng đất hoặc công trình xây dựng của nhà đầu tư nước ngoài và việc đầu tư nước ngoài trong doanh nghiệp. Có thể học hỏi kinh nghiệm của Hàn Quốc là thành lập quỹ đóng với vai trò là trung gian, thay mặt nhà đầu tư nước ngoài quản lý hoặc nắm giữ tài sản đó tại Việt Nam.

  • Tiếp tục hoàn thiện hoạt động công ty quản lý tài sản VAMC. Cần đưa ra quy chuẩn về hoạt động nhằm hoàn thiện và giúp VAMC thực hiện được chức năng quản lý tài sản của mình. Giám sát hoạt động xử lý các khoản nợ xấu đã được chuyển giao. Việc VAMC mua lại nợ xấu của các ngân hàng không làm giảm khối lượng nợ xấu thực chất trong hệ thống mà mới chỉ là chuyển nợ xấu từ nơi này sang nơi khác. Bên cạnh đó, để đạt được tỷ lệ thu hồi vốn tối đa, cần tạo điều kiện cho VAMC xử lý khoản nợ xấu phù hợp các điều kiện thị trường và tăng quy mô vốn điều lệ của VAMC.

  • Xem xét việc mua nợ xấu theo giá thị trường thay vì giá trị sổ sách như hiện nay. Khi VAMC ra đời, đã đưa ra 2 phương án là mua theo giá thị trường và mua theo giá sổ sách. Tuy nhiên, thời điểm đó, phương án mua theo giá sổ sách được lựa chọn, vì nếu mua theo giá thị trường thì phải xin ý kiến của Chính phủ cùng nhiều thủ tục hành chính, nên dễ dẫn đến chậm tiến độ. Với tình hình hiện nay, đề xuất Chính phủ cho VAMC mua nợ xấu theo giá thị trường nhằm đảm bảo khả năng bán lại được để thu hồi vốn. Như vậy, cần một tổ chức giám định độc lập để định giá khoản nợ, định giá tài sản đảm bảo để tạo niềm tin, tạo nền tảng chuẩn về giá cho nhà đầu tư, đặc biệt là các nhà đầu tư nước ngoài.

Ba là, nâng cao năng lực quản trị rủi ro của các ngân hàng

Năng lực quản trị rủi ro ngân hàng là yếu tố quyết định sự thành công hay thất bại trong kinh doanh của ngân hàng. Các ngân hàng thương mại (NHTM) với đặc thù là các tổ chức kinh doanh “tiền tệ”, có độ rủi ro cao và mức độ ảnh hưởng lớn thì vấn đề quản trị lại càng có ý nghĩa hơn. Một ngân hàng yếu kém trong quản trị sẽ không chỉ gây tổn thất cho chính ngân hàng đó, mà còn tạo nên những rủi ro nhất định mang tính dây chuyền cho các đơn vị khác và ngược lại.

Để nâng cao năng lực quản trị của hệ thống ngân hàng ngoài việc quản lý tốt tài sản nợ - tài sản có theo nguyên tắc của Uỷ ban Basel, xây dựng văn hoá quản trị lành mạnh, tạo môi trường thuận lợi cho việc áp dụng các nguyên tắc và thông lệ quản trị rủi ro, các NHTM cần chú trọng nâng cao chất lượng công tác kiểm soát nội bộ trên cơ sở áp dụng hệ thống công nghệ ngân hàng hiện đại, để phát hiện những tiềm ẩn rủi ro, có biện pháp ngăn chặn kịp thời.

3.3.3.3. Phát triển thị trường trái phiếu


Muốn phát triển thị trường trái phiếu đòi hỏi phải có một chiến lược nhất quán, phát triển thị trường sơ cấp cũng như thứ cấp, đồng thời hoàn thiện hệ thống khuôn khổ pháp lý và các dịch vụ trung gian tài chính nhằm đưa thị trường hướng tới chuẩn mực quốc tế.

Chiến lược phát triển thị trường chứng khoán của Ủy ban chứng khoán đã nêu rõ mục tiêu “phát triển thị trường trái phiếu trở thành một kênh huy động và phân bổ vốn quan trọng cho phát triển kinh tế. Chú trọng đặc biệt phát triển thị trường trái phiếu Chính phủ để huy động vốn cho Ngân sách nhà nước và đầu tư xây dựng cơ bản”

Trong hơn 9 năm vận hành TTCK Việt Nam, thị trường trái phiếu nói chung và thị trường TPCP đã được hình thành và phát triển. Tổng mức vốn hoá thị trường ước tính 13% GDP (khoảng 115.000 tỷ đồng) bước đầu đã góp phần tạo nên kênh dẫn vốn hiệu quả cho huy động vốn ngân sách để đầu tư trong điểm các công trình quốc gia. Tuy nhiên, so với tiềm năng và nhu cầu huy động của ngân sách, tỷ trọng huy động vốn qua kênh phát hành trái phiếu so với các thị trường khu vực còn rất hạn chế.

Nhu cầu phát hành TPCP nhằm mục đích huy động vốn cho Ngân sách nhà nước để phát triển và đầu tư xây dựng cơ bản, cũng như để sử dụng thực hiện các chính sách kinh tế vĩ mô thông qua Trái phiếu Chính phủ sẽ ngày càng tăng trong thập kỷ sắp tới. Đây không chỉ là một kênh dẫn vốn hữu hiệu cho nền kinh tế mà còn tạo ra sự đa dạng hoá các công cụ đầu tư trên thị trường vốn, cho phép các nhà đầu tư có thêm lựa chọn đầu tư ít rủi ro hơn. Thị trường TPCP còn là nền tảng cơ bản cho sự phát triển của thị trường trái phiếu công ty thông qua việc cung cấp cơ sở định giá chuẩn tin cậy cho các công cụ khác nhờ vậy thúc đẩy sự phát triển của thị trường tài chính nói chung. Thị trường TPCP còn giúp tăng cường sự độc lập trong điều hành chính sách tiền tệ của NHNN qua các nghiệp vụ thị trường mở, mua bán TPCP và tác động trực tiếp đến lượng cung tiền và các biến số kinh tế vĩ mô. Phát triển thị trường trái phiếu, đặc biệt là TPCP phải được coi là một trong những ưu tiên hàng đầu trong chiến lược phát triển thị trường chứng khoán Việt Nam từ nay đến 2020. Những giải pháp cơ bản bao gồm:



Một là, hoàn thiện cấu trúc thị trường TPCP

  • Tăng tỷ trọng trái phiếu trung và dài hạn trong cơ cấu thị trường với mục tiêu kéo dài kỳ hạn vay qua phát hành TPCP trong nước giai đoạn 2011 - 2015 trung bình khoảng từ 4 - 6 năm; giai đoạn 2016 - 2020 lên khoảng từ 6 - 8 năm. Để thực hiện được điều này, cần có sự ổn định về kinh tế vĩ mô, giúp các nhà đầu tư có niềm tin vào trái phiếu có kỳ hạn dài. Giải pháp ban đầu có thể là phát hành thí điểm trái phiếu có kỳ hạn dài lên tới 30 năm, hướng tới các nhà đầu tư là công ty bảo hiểm, quỹ hưu trí để thị trường làm quen với loại trái phiếu này.

  • Phát triển thị trường mua bán lại với TPCP làm tài sản thế chấp.Đây cũng là giải pháp góp phần tăng khối lượng trái phiếu phát hành, thúc đẩy sự phát triển của thị trường trái phiếu sơ cấp. Bên cạnh đó có thể áp dụng phương thức giao dịch trái phiếu trước khi đấu thầu (When - issued) giống như tại một số thị trường phát triển như Nhật, Mỹ, Singapore nhằm giúp nhà đầu tư xác định được một mức giá hợp lý trước khi tham gia vào thị trường sơ cấp.

  • Phát triển mạnh mẽ hệ thống các nhà tạo lập thị trường, cơ cấu lại cơ sở hạ tầng cho thị trường trái phiếu với việc triển khai hệ thống thanh toán điện tử theo thời gian thực (Rentas), nhằm tăng tính hiệu quả của việc thanh toán và giảm rủi ro khi thanh toán.

  • Nghiên cứu và xây dựng hệ thống chỉ số đánh giá, giám sát sự thay đổi của thị trường vốn và thị trường trái phiếu để tạo điều kiện cho các thành viên tham gia có điều kiện theo dõi và dự đoán diễn biến thị trường, kịp thời điều chỉnh danh mục đầu tư. Đồng thời bổ sung thêm các tổ chức xếp hạng định mức tín nhiệm liên kết với nước ngoài hoạt động trên thị trường tài chính một cách chuyên nghiệp, minh bạch và hiệu quả.

Hai là, phát triển thị trường TPDN

Thị trường TPDN là một thị trường bộ phận quan trọng của thị trường trái phiếu với chức năng chính là một kênh huy động vốn "dự trữ" cho doanh nghiệp, tránh tình trạng quá phụ thuộc vào nguồn vốn tín dụng ngân hàng. Trong thời gian gần đây, mặc dù thị trường tín dụng đang được siết chặt lại, nhưng thị trường TPDN vẫn chưa có dấu hiệu khởi sắc.

Từ quá trình phát triển thị trường TPDN của các quốc gia như Malaysia (dư nợ TPDN chiếm 42% GDP) hay Hàn Quốc (dư nợ TPDN chiếm 75% GDP) có thể thấy một số điểm quan trọng mà Việt Nam cần tập trung nhằm phát triển thị trường này:

Minh bạch hóa thông tin về doanh nghiệp, các đợt phát hành, cách thức sử dụng vốn huy động thông qua một hệ thống thông tin trái phiếu (Tương tự hệ thống công bố thông tin trái phiếu BIDS - Bond Information Dissemination System của Malaysia)



  • Để thực hiện yêu cầu này, đòi hỏi trên thị trường phải có những tổ chức định mức tín nhiệm hay công ty giám sát độc lập.

  • Phát triển các sản phẩm phái sinh giúp nhà đầu tư có nhiều công cụ nhằm phòng ngừa rủi ro khi đầu tư vào thị trường TPDN, đặc biệt là các sản phẩm phái sinh tỷ giá – vốn là sản phẩm thu hút sự quan tâm của các nhà đầu tư nước ngoài.

Ba là, đa dạng hóa các nhà đầu tư

Hệ thống nhà đầu tư đa dạng là một yếu tố quan trọng trên thị trường, hoàn toàn phù hợp với mục tiêu phát triển cả thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp. Để phát triển và đa dạng hóa các nhà đầu tư, trước hết cần tăng cường tính chuyên nghiệp đối với các nhà đầu tư hiện có, sau đó là mở rộng thị trường tới các nhà đầu tư mới; Giảm dần sự phụ thuộc của thị trường vào khối nhà đầu tư là các NHTM, tăng tỷ trọng TPCP, trái phiếu được Chính phủ bảo lãnh do khối các công ty bảo hiểm, quỹ hưu trí, Công ty Quản lý quỹ nắm giữ.


3.3.3.4. Tăng cường khả năng tiếp cận vốn ngân hàng của các doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp vừa và nhỏ


Để các DN này tiếp cận được với nguồn vốn dễ dàng hơn, các giải pháp cần quan tâm bao gồm:

a. Minh bạch hóa thông tin doanh nghiệp và hỗ trợ các TCTD tiếp cận thông tin đầy đủ trước, trong và sau cho vay.

- Nâng cao năng lực của các cơ quan đầu mối về quản lý doanh nghiệp như: Cục đăng ký doanh nghiệp – Bộ kế hoạch đầu tư, Cơ quan thuế, hải quan - Bộ tài chính... trong việc cập nhật thường xuyên trạng thái hoạt động của doanh nghiệp và tăng cường chất lượng thống kê về DNNVV.

- NHNN, phối hợp với các cơ quan đầu mối quản lý doanh nghiệp, các hiệp hội doanh nghiệp nghiên cứu, xây dựng cơ sở dữ liệu về DNNVV trong đó thu thập các thông tin cơ bản về doanh nhiệp như tổng tài sản, quy mô vốn chủ sở hữu, doanh thu, lợi nhuận hàng năm, tình trạng hoạt động... để các TCTD có thể truy cập và sử dụng các dữ liệu thống kê về doanh nghiệp nói trên trong quá trình tìm kiếm khách hàng, thẩm định khoản vay và theo dõi sau cho vay.

- Thực hiện đúng lộ trình và có chất lượng Đề án phát triển trung tâm thông tin tín dụng quốc gia Việt Nam đến năm 2015, hướng tới năm 2020, được phê duyệt tại Quyết định số 1033/2014/QĐ-NHNN ngày 26 tháng 5 năm 2014; tạo điều kiện cho các tổ chức cung cấp thông tin tín dụng tư nhân gia nhập thị trường và hoạt động hiệu quả, góp phần đa dạng hóa các kênh cung cấp thông tin cho các TCTD, thúc đẩy nâng cao chất lượng thông tin và hạ giá thành.



b. Phát triển thị trường tín dụng dành cho DNNVV thông qua đa dạng hóa nhà cung cấp, tăng cường cạnh tranh trên thị trường nhằm nâng cao năng lực cho vay và hình thành các sản phẩm mới

Đa dạng hóa các nhà cung cấp

- Tiếp tục thực hiện các giải pháp tái cơ cấu các TCTD theo Đề án Cơ cấu lại hệ thống các tổ chức tín dụng giai đoạn 2011 - 2015" (Ban hành kèm theo Quyết định số 254/QĐ-TTg ngày 01/3/2012 của Thủ tướng Chính phủ) và xử lý nợ xấu theo Đề án xử lý nợ xấu của hệ thống các tổ chức tín dụng Ban hành kèm theo Quyết định số 843/2013/QĐ-TTg, nhằm nâng cao năng lực hoạt động cũng như năng lực cho vay của các TCTD, qua đó, thúc đẩy tăng trưởng tín dụng bền vững.

- Đẩy mạnh việc cơ cấu lại các công ty cho thuê tài chính, công ty tài chính bao thanh toán, nâng cao năng lực quản trị, điều hành, năng lực tài chính để mở rộng và nâng cao hiệu quả hoạt động, tạo ra những kênh cung cấp tín dụng mới và phù hợp cho các DNNVV.

- Định hướng một số NHTM có điều kiện phù hợp phát triển thành ngân hàng chuyên biệt cho đối tượng khách hàng là DNNVV. Các ngân hàng này có thể được hỗ trợ các kiến thức về cho vay DNNVV, áp dụng một số cơ chế ưu đãi về tiếp cận vốn và mở rộng mạng lưới.

- Hoàn thiện cơ chế quản lý và nâng cao năng lực hoạt động của các tổ chức tài chính vi mô, các quỹ tín dụng nhân dân, để khuyến khích các tổ chức này có thể vươn đến nhóm khách hàng là các doanh nghiệp siêu nhỏ, doanh nghiệp hộ gia đình.

Thúc đẩy sự cạnh tranh, năng động, đảm bảo động lực cho các TCTD mở rộng hoạt động đối với nhóm khách hàng là DNNVV

- Sửa đổi, bổ sung quy chế cho vay của các TCTD theo hướng giảm thiểu các quy định mang tính hành chính, giảm dần sự can thiệp trực tiếp đối với hoạt động cho vay của TCTD:

+ Các TCTD được phép chủ động xác định lãi suất đựa trên việc tính toán hợp lý các chi phí đầu vào đối với từng sản phẩm cho vay (Các nghiên cứu đã chỉ ra rằng các mô hình định giá dựa trên mức độ rủi ro cũng là công cụ quan trọng giúp ngân hàng thu lời từ việc phục vụ thị trường DNNVV. Thay vì né tránh rủi ro, các ngân hàng tìm cách đưa rủi ro vào mức giá của sản phẩm. Các DNNVV cũng cho thấy sẵn sàng trả các mức giá dựa trên rủi ro này vì họ coi trọng các dịch vụ được cung cấp hơn là mức lãi suất, và mức lãi suất từ các khoản vay phi chính thức trong thực tế cũng rất cao), phù hợp với rủi ro của khoản vay, gắn liền với trách nhiệm công bố công khai, minh bạch lãi suất và các loại phí ngoài lãi cho khách hàng vay. NHNN đóng vai trò kiểm tra tính hợp lý, công khai về lãi suất, và TCTD có trách nhiệm giải trình trước NHNN về tính hợp lý, công khai minh bạch đó.

+ Cho phép TCTD tự xác lập các quy trình tín dụng, các yêu cầu về hồ sơ, thủ tục vay vốn phù hợp yêu cầu và năng lực quản trị rủi ro của TCTD, đảm bảo khả năng quản trị rủi ro và duy trì các tỷ lệ an toàn theo quy định của NHNN.

+ Quy định rõ ràng về trách nhiệm của TCTD trong việc cung cấp đầy đủ thông tin, tư vấn và hỗ trợ khách hàng vay, nhằm đảm bảo các khách hàng vay có khả năng đưa ra quyết định tín dụng dựa trên cơ sở có đầy đủ thông tin.

- Hình thành cơ chế cho phép và khuyến khích TCTD xây dựng và công bố công khai cơ chế xử lý khi khách hàng vay gặp khó khăn về tài chính (trường hợp doanh nghiệp mất khả năng trả nợ tạm thời mà nếu có sự hỗ trợ của ngân hàng, doanh nghiệp sẽ vượt qua được khó khăn và quay trở lại hoạt động bình thường). Trong đó, cần quy định rõ các quy trình, thủ tục TCTD sẽ áp dụng khi khách hàng gặp khó khăn về tài chính và những hỗ trợ có thể được cung cấp từ phía ngân hàng.

- Hoàn thiện các quy định pháp lý về bảo vệ quyền lợi của các TCTD trong quan hệ cho vay, tăng cường các cơ chế hỗ trợ TCTD xử lý tài sản đảm bảo trong trường hợp khách hàng không trả được nợ.

Phát triển các sản phẩm mới phù hợp với đối tượng khách hàng là DNNVV

- Các TCTD cần nghiên cứu phát triển các sản phẩm phù hợp với nhu cầu của DNNVV, đặc biệt là các sản phẩm cho vay ngắn hạn có thủ tục đơn giản, thời hạn giải ngân nhanh; Các dịch vụ tư vấn lập kế hoạch/ phương án sản xuất kinh doanh, quản lý tài chính, quản lý dòng tiền; Phát triển các gói sản phẩm trong đó kết hợp nhiều sản phẩm khác nhau bao gồm các sản phẩm tín dụng và các sản phẩm phi tín dụng để cung cấp trọn gói cho doanh nghiệp; có thể thiết lập các phương thức kết hợp với các sản phẩm ngân hàng hiện tại như kết hợp dịch vụ cho DNNVV với các dịch vụ ngân hàng cá nhân của chủ sở hữu doanh nghiệp.

- NHNN phối hợp với các bộ chuyên ngành, hỗ trợ các ngân hàng thương mại trong việc phát triển hoạt động cho vay khép kín từ khâu vay thu mua, sản xuất đến khâu chế biến và xuất khẩu cho các nhóm DNNVV có liên kết với nhau theo cùng một chuỗi, tăng cường cung cấp thông tin và chủ trương phát triển ngành đó cho ngân hàng.

- Dựa trên cơ sở chất lượng thông tin doanh nghiệp được nâng lên và mối quan hệ ngân hàng – doanh nghiệp chặt chẽ, các TCTD nghiên cứu phát triển các sản phẩm tín dụng không yêu cầu tài sản đảm bảo đối với DNNVV.



c. Nâng cao chất lượng hệ thống chấm điểm tín dụng của các TCTD và năng lực thẩm định của cán bộ tín dụng, nhằm tăng cường chất lượng cho vay, giảm tỷ lệ nợ xấu, rút ngắn thời gian thẩm định tín dụng

- Khuyến khích các TCTD xây dựng hệ thống chấm điểm tín dụng riêng biệt cho các khách hàng là DNNVV, trong đó ưu tiên sử dụng các phương thức chấm điểm tự động như thẻ chấm điểm tín dụng (score card).

- NHNN hỗ trợ việc xây dựng hệ thống chấm điểm tín dụng của các TCTD thông qua việc triển khai nghiên cứu ban đầu để lượng hóa rủi ro trong thị trường cho vay các DNNVV ( Đối với từng NHTM, do cơ sở dữ liệu cho vay đối với DNNVV không nhiều, hầu hết các ngân hàng thiếu dữ liệu lịch sử để có thể tính toán, lượng hóa các rủi ro ban đầu đối với cho vay DNNVV) , dựa trên dữ liệu cho vay DNNVV của toàn ngành để xác định tỷ lệ vỡ nợ trung bình, các đặc trưng cơ bản ảnh hưởng đến mức độ rủi ro trong cho vay đối với DNNVV, từ đó làm thông tin đầu vào giúp các TCTD dự báo rủi ro, thiết lập mô hình chấm điểm tín dụng của riêng mình.

- Xây dựng và phát triển các chương trình đào tạo về quản lý rủi ro, phân tích quản trị rủi ro đối với cho vay DNNVV cho đội ngũ cán bộ về quản trị rủi ro tại các TCTD.

- Hỗ trợ cán bộ tín dụng ngân hàng nâng cao kiến thức về doanh nghiệp, các ngành kinh tế để có đánh giá chính xác hơn trong quá trình thẩm định tín dụng. NHNN đóng vai trò là cơ quan đầu mối, tiếp cận các nguồn thông tin từ các cơ quan quản lý chuyên ngành, tổng hợp, phân tích và cung cấp cho hệ thống các TCTD.

d. Tăng cường mối liên kết ngân hàng với doanh nghiệp, thúc đẩy các DNNVV chưa tiếp cận ngân hàng tìm kiếm các sản phẩm tín dụng phù hợp; hỗ trợ các TCTD tăng cường hiểu biết về DNNVV, mở rộng mạng lưới khách hàng

- Tiếp tục triển khai các hội nghị kết nối ngân hàng – doanh nghiệp trong phạm vi cả nước, nâng cao chất lượng hội nghị và tăng số lượng doanh nghiệp tham gia, đồng thời có công tác thống kê và đánh giá hiệu quả sau khi hội nghị diễn ra để tổng kết rút kinh nghiệm.

- Cập nhật, công khai, minh bạch thông tin về hoạt động, quy trình thủ tục hành chính, quy trình nghiệp vụ, sản phẩm dịch vụ của hệ thống ngân hàng

- Tạo các kênh tiếp cận thông tin về hoạt động ngân hàng cho DNNVV như: website cung cấp thông tin hỗ trợ doanh nghiệp tiếp cận tín dụng, các kênh tư vẫn miễn phí dành cho DNNVV, soạn thảo và phát hành các tài liệu hướng dẫn cho doanh nghiệp về tiếp cận vốn vay ngân hàng.

- Các TCTD tăng cường quảng bá, chủ động tiếp cận doanh nghiệp thông qua nhiều kênh khác nhau như: các hoạt động của hiệp hội DNNVV, các hoạt động động xúc tiến thương mại và hỗ trợ nâng cao năng lực cho DNNVV.

e. Nâng cao hiệu quả hoạt động bảo lãnh tín dụng đối với DNNVV

- Mở rộng và nâng cao năng lực tài chính cho các Quỹ bảo lãnh tín dụng DNNVV đã được thành lập và tạo nguồn vốn để hình thành các quỹ địa phương mới. Nghiên cứu khả năng huy động các nguồn vốn tư nhân để bổ sung cho các quỹ bảo lãnh tín dụng địa phương như chuyển đổi mô hình Quỹ bảo lãnh tín dụng thành công ty bảo lãnh tín dụng, cho phép các nhà đầu tư tư nhân được góp vốn vào các công ty bảo lãnh tín dụng, tham gia quản trị kinh doanh.

- Sửa đổi quy chế bảo lãnh của các Quỹ bảo lãnh tín dụng DNNVV: giảm thiểu các thủ tục hành chính và tăng cường sự tư vấn hỗ trợ cho doanh nghiệp trong hoạt động thẩm định các hồ sơ xin bảo lãnh tín dụng; khi thẩm định hồ sơ xin bảo lãnh phải dựa vào kết quả thẩm định hiệu quả phương án sản xuất, kinh doanh làm căn cứ quan trọng nhất cho quyết định bảo lãnh; Năng lực bảo lãnh của quỹ phải được chứng minh bằng cam kết chặt chẽ trong việc chi trả thực tế, đền bù tổn thất cho TCTD khi doanh nghiệp được bảo lãnh không trả được nợ; Để đảm bảo vốn vay được các doanh nghiệp sử dụng đúng mục đích, hiệu quả, quỹ bảo lãnh tín dụng cần phối hợp với TCTD cho doanh nghiệp vay tăng cường kiểm soát sau khi cho vay.

- Tăng cường phối hợp Bộ tài chính và NHNN trong việc nâng cao hiệu quả hoạt động của Quỹ bảo lãnh tín dụng cho DNNVV. Các cấp chính quyền địa phương hỗ trợ kết nối giữa Quỹ bảo lãnh tín dụng DNNVV và các TCTD tại địa phương.

- Khuyến khích thành lập các loại quỹ khác như Quỹ khởi nghiệp, Quỹ vườn ươm doanh nghiệp nhằm khuyến khích sự tham gia đầu tư vào các doanh nghiệp mới thành lập.

f. Nâng cao năng lực quản trị tài chính, lập báo cáo tài chính, xây dựng kế hoạch kinh doanh và quản lý dòng tiền cho DNNVV, giúp doanh nghiệp chủ động trong việc lập phương án/dự án kinh doanh phù hợp với các yêu cầu của TCTD

- Mở rộng các hoạt động tư vấn/hỗ trợ đào tạo nâng cao năng lực DNNVV. Tăng cường vai trò của các hiệp hội doanh nghiệp trong hoạt động hỗ trợ đào tạo.

- Bổ sung các nội dung về xây dựng kế hoạch kinh doanh và quản lý dòng tiền trong các nội dung đào tạo nâng cao năng lực cho DNNVV đang được triển khai.

- Xây dựng tài liệu hướng dẫn và phổ biến kiến thức về xây dựng hồ sơ vay vốn tại các TCTD để cung cấp cho các DNNVV.

- Thông qua hoạt động tuyên truyền, nâng cao hiểu biết của doanh nghiệp về trách nhiệm cung cấp đầy đủ thông tin cho TCTD khi tham gia các quan hệ tín dụng.

g. Các giải pháp khác

- NHNN với việc điều hành lãi suất cần tạo niềm tin cho thị trường về một sự ổn định chính sách trong trung hạn, thực hiện tốt chính sách tiền tệ - tỷ giá, để các TCTD có thể cung cấp các khoản vay lãi suất ổn định trong trung và dài hạn cho các doanh nghiệp; tiếp tục duy trì mặt bằng lãi suất ở mức thấp và từng bước hạ lãi suất thêm nữa phù hợp với tình hình kinh tế vĩ mô và điều kiện của hệ thống các TCTD.

- Hoàn thiện hệ thống đăng ký tài sản để tăng cường khả năng thế chấp cho DNNVV, tập trung vào việc triển khai đồng bộ với việc cấp giấy chứng nhận sử dụng nhà đất.

- Hình thành tổ chức đầu mối triển khai thực hiện chính sách trợ giúp phát triển DNNVV, thay đổi tư duy trong thực hiện chính sách trợ giúp phát triển doanh nghiệp từ phân tán, cắt khúc sang đồng bộ và có trọng tâm, trọng điểm. Hệ thống ngân hàng cần được cung cấp thông tin thường xuyên, kịp thời về chính sách trợ giúp để có thể xây dựng các sản phẩm dịch vụ phù hợp, góp phần tăng cường hiệu quả của các chương trình hỗ trợ.



Каталог: upload -> 4989
upload -> 1. Most doctors and nurses have to work on a once or twice a week at the hospital
upload -> TrầnTrang EnglishTheory Phonetics
upload -> BỘ khoa học và CÔng nghệ TÀi liệu hưỚng dẫN
upload -> TÀi liệu hưỚng dẫn sử DỤng dịch vụ HỘi nghị truyền hình trực tuyếN
upload -> BỘ thông tin truyềN thông thuyết minh đỀ TÀi xây dựng quy chuẩn kỹ thuật thiết bị giải mã truyền hình số MẶT ĐẤt set – top box (stb)
upload -> CHỦ TỊch nưỚC
upload -> CHỦ TỊch nưỚC
upload -> Kính gửi Qu‎ý doanh nghiệp
upload -> VIỆn chăn nuôi trịnh hồng sơn khả NĂng sản xuất và giá trị giống của dòng lợN ĐỰc vcn03 luậN Án tiến sĩ NÔng nghiệp hà NỘI 2014
4989 -> Số: 1648/QĐ-hvnh-sđH

tải về 1.63 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   ...   9   10   11   12   13   14   15   16   17




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương