(liên quan HC DiGieorge)
19
arr[GRCh38]
16p11.2(32513444_33982391)x3
B
Theo dõi trở về bất thường tĩnh mạch phổi
Nhận xét:
Các CNVs gây bệnh và có khả năng gây bệnh đều có sự phù hợp với kết quả siêu âm
thai. Tỷ lệ CVNs gây bệnh ở các nhóm thai có bất thường tim mạch trên siêu âm
Biểu đồ 1: CNVs gây bệnh theo phân nhóm
siêu âm thai bất thường
Ở biểu đồ 1 cho thấy, CNVs gây bệnh ở
nhóm thai có kết hợp bất thường cơ quan khác,
chiếm tỷ lệ cao nhất 6/19 (31,6%), tiếp là nhóm
có bất thường cả tim và mạch chiếm tỷ lệ 18,5%
(5/27) và thấp nhất là nhóm chỉ có bất thường
tim đơn độc 1/13 (7,6%).
3.2.3. Kết quả CNVs và tuổi mẹ.
Có
52/62 thai phụ ở nhóm tuổi từ 18-35, ở nhóm
này phát hiện 15 thai có CNV trong đó có 10
thai có CNVs gây bệnh chiếm 19,2% (trong đó
có 2 trisomy18), 2 thai có CNV VOUS, 2 thai có
CNV lành tính/ khả năng lành tính. Có 10/62 thai
phụ >35 tuổi, phát hiện 5 thai có CNV, trong đó
3 thai phụ có CNV bệnh lý chiếm 30% (trong đó
có 1 trisomy18) và 2 thai phụ có thai CNV lành tính.
IV. BÀN LUẬN
Trong 62 thai CHD được siêu âm phát hiện,
tỷ lệ thai có bất thường NST là 21,0%. Trong đó
karyotype chỉ phát hiện được 4 thai (3 thai
trisomy 18, 1 thai 47, XY,+mar) chiếm tỷ lệ
6,5%, còn SNP array phát hiện được toàn bộ 13
thai có CNV bệnh lý (bao gồm cả 4 thai mà
karyotype phát hiện được). Như vậy SNP array
đã phát hiện thêm 14,5% so với phương pháp
lập karyotype. Nghiên cứu của chúng tôi phát
hiện 19 CNV, với các kích thước khác nhau từ
mất đoạn nhỏ nhất (gần 800 Kb) đến nhân đoạn
có kính thước lớn nhất lên đến trên 80.000 Kb,
xuất hiện ở các NST khác nhau, ở các vị trí khác
nhau như vùng đầu mút, hay vùng gần tâm
động, hay ở vùng gen quan trọng (critical
region). Nghiên cứu của Duc-Quang Nguyen và
cs cho thấy tỉ lệ CNV lành tính bắt gặp cao hơn ở
vùng tâm động hay vùng đầu mút của NST,
thường ít chứa gen quy định protein [7]. Tương
tự với nghiên cứu của chúng tôi, cả 4 trường hợp
CNV lành tính/có khả năng lành tính thì đều nằm
ở vị trí đầu mút, tâm động hay gần tâm động
của NST. Điều này cho thấy kích thước CNV chưa
thực sự đóng vai trò quyết định ý nghĩa lâm sàng
của CNV mà phụ thuộc vào vị trí và chức năng
của các gen chứa trong vùng đó. Tuy nhiên kích
thước của CNV càng lớn thì càng có nhiều cơ hội
chứa những gen quan trọng. Trong nghiên cứu
của chúng tôi, thường kích thước của các biến
thể có ý nghĩa lâm sàng thuộc nhóm tăng đoạn
thường lớn hơn kích thước biến thể có ý nghĩa
lâm sàng của mất đoạn. Điều này chứng tỏ việc
mất các gen chức năng gây hậu quả nghiêm
trọng hơn so với tăng liều gen. Ở bảng 3 cũng
cho chúng ta thấy, bất thường hình thái trên siêu
âm khá phù hợp với kiểu hình tương ứng của các
biến thể gây bệnh được SNP array phát hiện.
Các bất thường này được siêu âm phát hiện vì
vậy có thể không phát hiện được hết các bất
thường do các CNV gây bệnh sinh ra. Nhưng nhờ
những dự liệu khổng lồ của Clinvar, Clingen,
Decipher, OMIM hay Varsome cho chúng ta thêm
thông tin về kiểu hình, hỗ trợ hiệu quả các bác sĩ
di truyền khi tư vấn cho thai phụ và gia đình,
giúp họ có những thông tin đáng tin cậy để dự
đoán, có kế hoạch cho việc chăm sóc và điều trị
cho các bé nếu họ vẫn tiếp tục thai kỳ.
Theo nghiên cứu của Yan Wang và cộng sự
thực hiên trên 602 thai phụ, tỉ lệ CNV gây bệnh
phát hiện nhờ microarray là 20,8% trong số đó
có 52% các bất thường số lượng NST; tỉ lệ phát
hiện CNV LP và VOUS lần lượt 1,3% và 6% [8].
Còn với nghiên cứu của chúng tôi, tỷ lệ CNV gây
bệnh được SNP array phát hiện là 21,0% trong
đó có 4,8% bất thường về số lượng NST (3
trisomy18), và 1 trường hợp karyotype là
47,XY,+mar, trường hợp này karyotype không
xác định được nguồn gốc của NST thêm vào,
nhưng kết quả SNP array lại có nhân 4 lần vùng
22q11.1q11.21 có kích thước 1.758.249 bp, như
vậy SNP array đã cho chúng ta thấy rõ nguồn
gốc của vùng tăng thêm và thuộc CNV gây bệnh,
kết quả siêu âm thai phù hợp với vùng này. Theo
nghiên cứu của chúng tôi, SNP array đã phát
Chia sẻ với bạn bè của bạn: |