Cuộc Đời Tôn Giả Xá Lợi Phất Tác giả: nyanaponika thera dịch giả: nguyễN ĐIỀU



tải về 0.64 Mb.
trang11/13
Chuyển đổi dữ liệu04.01.2018
Kích0.64 Mb.
#35694
1   ...   5   6   7   8   9   10   11   12   13

PHÁP SỐ 5: SỰ CHẤM DỨT TỘI LỖI

Trong số bốn hạng người:


Kẻ gây tội và biết rằng đó là tội.
Kẻ có tội mà thành tâm ăn năn quyết lòng chừa bỏ.
Kẻ không làm tội và ghê sợ tội lỗi.
Và kẻ không tội lỗi mà luôn luôn tinh tấn tiêu diệt những nguồn gốc gây ra tội lỗi.
Nếu phạm tội mà biết rằng đó là tội hoặc khi mình dễ duôi phạm nhằm tội lỗi rồi sau đó tự ăn năn, vẫn còn có thể giác ngộ, hơn là làm tội mà không biết tội hay có tội mà không ý thức được nó.
Ðại đức Sàrìputta đã giảng giải rõ ràng tại sao Phật giáo lại phân tích như vậy. Trong bài pháp này, Ngài còn chỉ rõ tầm quan trọng trong việc tự kiểm soát lấy tư tưởng và làm sao tạo cho nó sự phát triển.
---o0o---

PHÁP SỐ 9: SAMMADITïTïHI SUTTA

Nói về Chánh kiến (Sammàditïtïhi) xin xem cuốn “Chánh Kiến Trong Ðạo Phật”.


---o0o---

PHÁP SỐ 28: MAHA HATTHIPADA PAMA SUTTA

Ðó là bài pháp khá sâu sắc, nói về “Sự so sánh những bước chân voi” (Hatthipàda) đã được nhắc đến trong đoạn trước.


---o0o---

PHÁP SỐ 45: MAHA DEVALLA SUTTA

Bài pháp thuộc loại thâm thúy này nhắc lại sự Minh giảng của Ðại đức Sàrìputta trước một số câu hỏi do Ðại đức Mahà Kotthika đặt ra. Ðại đức ấy cũng là một trong những người đã đạt được Tuệ phân biệt.


Trưởng lão Sàrìputta đã tạo cho cuộc đối đáp trở nên vô cùng tuyệt diệu với những câu hỏi sáng sủa và những đoạn trả lời thâm thúy, sâu xa đã làm cho thính giả lẫn người luận đạo chấp nhận một cách thích thú mọi khía cạnh trong chiều sâu của trí tuệ. (Dĩ nhiên là bắt đầu bằng Chánh kiến và kết thúc bằng Chánh định.)
---o0o---

PHÁP SỐ 69: GULISSANI SUTTA

Ðây là bài pháp thuyết cho ông Gulissàni nói về phương diện trông nom cũng như thực hành Pháp bảo của các Tăng sĩ trú ngụ trong rừng. Ðại đức Mahà Moggallàna (Mục-kiền-liên) đã đặt nhiều câu hỏi để bàn luận. Ðức Trưởng lão còn xác nhận rằng “Không phải riêng những Sa-môn ẩn tu trong rừng mà ngay cả các Tăng sĩ ngụ trong những vùng phụ cận thành phố cũng phải thực hành cùng một phận sự mà Pháp bảo đã dạy rõ”.


---o0o---

PHÁP SỐ 79: DHANANJANI SUTTA

Ðại đức Sàrìputta giảng giải cho ông Bà-la-môn Dhànanõjàni nhiều phận sự khác nhau của một người Cư sĩ, là không phải chỉ lo sám hối những ý nghĩ hay hành động sai lầm. Cũng không phải cứ lo làm sao tránh khỏi những hậu quả đau khổ của những tội lỗi đã tạo từ trước sẽ đem đến trong tương lai.


Khi chưa lâm chung, còn nằm trên giường bệnh được nghe bài pháp ấy, ông đã tỉnh ngộ trút hết những phiền toái trong tâm, rồi một lòng tin nơi Ðại đức Sàrìputta, niệm tưởng đến ân đức của những bậc Phạm hạnh. (Như đã nói ở đoạn trước, trang 102).
---o0o---

PHÁP SỐ 114: ASEVITABBA SUTTA

Pháp nói về điều nên thực hành hay chẳng nên thực hành (Sevitabba: Nên. Asevitabba: Chẳng nên).


Ðại đức Sàrìputta nghiên cứu kỹ lưỡng những lời dạy tóm tắt của Ðức Phật về các pháp nên thực hành, nên nuôi nấng hay phát triển. Và những pháp nào không nên thực hành như thế. Pháp này được trình bày một cách có liên hệ với những hành động, lời nói và ý nghĩ của con người luôn luôn bị ảnh hưởng bởi những đối cảnh của Lục căn.
---o0o---

PHÁP SỐ 143: ANATHAPINDIKA SUTTA

Pháp thuyết cho ông bá hộ Cấp-cô-độc (Anàthapindika): Ðại đức Sàrìputta đã đến bên giường bệnh để giảng giải cho ông bá hộ Cấp-cô-độc nghe về sự gìn giữ tâm hồn, không cho dính mắc vào những âu lo cố hữu.


Ngài hướng dẫn bệnh nhân lần lượt từ căn thức một và dạy ông theo lối kiểm soát: “Này người thợ sanh diệt. Ta không còn âu lo ở con mắt, không còn âu lo ở lỗ tai, không còn âu lo ở cái lưỡi, không còn âu lo ở lỗ mũi, không còn âu lo ở làn da xúc cảm nữa. Vì ngươi đã không bao giờ ngừng nghỉ việc tạo ra xác thân ô uế này. Nó đã chứa trong đó sáu cái nguy hiểm mà giờ đây ta đã biết rồi. Chúng đã được sáu đối tượng là hình sắc, âm thanh, mùi thơm, vị ngọt và sự xúc tiếp vừa lòng nuôi nấng. Sáu sự cấu hợp ấy đã tạo ra sáu cảm nhận đầy vô thường, đầy phiền não”.
Ông cứ tiếp tục quán xét như vậy, ghi nhớ theo thứ tự từ Lục thức, Lục nhập (hay còn gọi là Lục thọ), rồi đến những biến thức trong thiền tâm. Những hình thức gồm sự tan rã từ một thế giới này sanh ra một thế giới khác. Và tất cả các cảnh giới cũng thế. Nghĩa là thoát ly khỏi những màng lưới ràng buộc của Danh và Sắc.
Tóm lại, chỉ có phép quán xét để an tịnh thì mới nên thực hành cho thuần thục, thấm nhuần bởi khi một người sắp chết, sự bắt đầu cho một kiếp sống tiếp theo chính là ở chỗ tâm trí an trụ, các thức sẽ duyên theo đó mà tiến sanh.
---o0o---

PHÁP CỦA ÐẠI ÐỨC SRPUTTA TRONG DGHA NIKYA




PHÁP SỐ 28: SAMPASA DANIYA SUTTA

Ân đức trọn lành là nguồn phát sanh niềm tin tưởng. Ðại đức Sàrìputta đã ca ngợi một cách hùng hồn ân đức của chư Phật trước sự hiện diện của Ðức Bổn Sư, khi đó Ngài đang thuyết về những phẩm tính vô song (Anuttariya) của những bậc Toàn giác. Ðó là sự phát biểu đúng lúc để nói lên lòng tin tưởng tuyệt đối của Ðại đức Sàrìputta đối với Ðức Phật. Ðây có thể xem như một sự bổ túc cho bài pháp được Ðức Phật mệnh danh là “Tiếng gầm con sư tử” (Sìhanada) của Ðại đức Sàrìputta. Nội dung của nó hoàn toàn trùng hợp với phần đầu của một đoạn giảng giải về giáo lý giải thoát đã được ghi trong Kinh Mahà Parinibbàna.


---o0o---

PHÁP SỐ 33: SANGITI SUTTA

Ðây là một bài pháp do Ðại đức Sàriputta nghe Ðức Phật thuyết rồi lập lại một cách thuộc lòng trong Kinh Sangti Sutta.



PHÁP SỐ 39

Một bài pháp gồm 10 chi, cắt nghĩa rộng rãi, đã được nói một cách tóm tắt ở đoạn trước (Pháp này nằm trong Kinh Dasutara Sutta).


---o0o---

TRONG ANGUTTARA NIKYA


Những số La mã sau đây là số đánh trên các cuốn sách (Nipàta) và những “số thường” là số những bài Kinh. Sự phân chia các Kinh phần trong Anguttara Nikàya chỉ danh số như vậy.
II. 37. SAMACITTA SUTTA
Pháp này nói về sự Nhập lưu (kể từ Tu-đà-hoàn trở lên). Và các Thánh chỉ tái sanh lại một lần mà thôi. Pháp ấy còn nêu rõ điều kiện tái sanh của chư Thánh A-na-hàm nữa.
III. 21
Pháp phân biệt những đấng Cao thượng (Aniya Puggala). Thân biệt chứng là hậu quả của Chánh kiến hoàn toàn (Ditthipatto) và được giải thoát là nhờ Ðức tin vững chắc (Saddhà Vimutto).
IV. 79
Ðại đức Sàrìputta bạch hỏi Ðức Phật tại sao lòng can đảm của một số người lại bị chướng ngại pháp đánh bại. Có một số người khác nhờ lòng can đảm ấy đã chiến thắng được chướng ngại pháp, và những thành quả đôi khi còn vượt khỏi sự mong muốn của họ. Ðức Phật trả lời rằng: “Sức mạnh chính trong lòng can đảm là có tâm đại lượng”. Nếu thiếu đức tánh đó thì lòng can đảm không thể bền bỉ để vượt qua mọi ác pháp. Ðó là điều mà chư Phật đã chỉ rõ và hằng được các hàng Ðạo sĩ hay Bà-la-môn thực hành từ lâu.
IV. 156
Pháp này nói về bốn điều Thái quá và bốn Trực giác tánh. Bốn điều Thái quá thì làm nguyên nhân của sự biến mất những trạng thái tinh thần lành mạnh. Còn bốn Trực giác tánh thì khiến cho hành giả biết được cách chắc chắn là họ sắp mất thiện tâm. Ðức Thế Tôn gọi bốn điều Thái quá là pháp Hư hỏng và bốn Trực giác tánh là nền tảng của Trí tuệ. Vậy bốn điều Thái quá ấy là gì?
– Là tham quá độ. Oán giận quá độ. Dối trá quá độ. Ngu dốt (hay Vô minh) quá độ. Người mắc phải bốn điều thái quá ấy rồi thì khó đạt đến quả Giác ngộ.
Ngược lại nếu một người có bốn Trực giác tính thì khi những ác pháp như tham, sân, si, dối trá phát sanh họ lập tức cảnh giác không để cho chúng lộng hành thái quá. Rồi từ đó họ tinh tấn giũa mòn chúng lần lần để trở lại làm chủ được lý trí và phát triển trí tuệ. Họ chắc chắn sẽ chứng quả Giải thoát.
IV. 167
Nói về sự không dễ duôi, không lười biếng và hạnh tinh tấn. Ðó là những pháp phát triển vững chắc trên con đường giải thoát.
IX. 171
Ðại đức Sàrìputta phân tích về một lời dạy tóm tắt của Ðức Phật bao gồm cả những trạng thái Chấp ngã (Attabhàva) và đặt một câu hỏi bổ túc. Ðức Phật đã giảng giải rành câu hỏi đó và được Ðại đức Sàrìputta tái thuyết lại trong Kinh Samacitta Sutta.
IX. 172
Ðại đức Sàrìputta nói rõ về sự ngài đã đạt đến bốn Tuệ phân biệt (Patisambhidànõàna) hai tuần lễ sau khi ngài được xuất gia (nghĩa là cùng lúc ngài đắc quả A-la-hán). Ngài công bố như vậy cốt để Ðức Phật xác nhận.
Phần Pháp luận với ngài Mahà Kotthika về những giới hạn của hai pháp có thể cắt nghĩa được là pháp Ngoại trần và pháp Nội thức (Phassayatana). Sâu xa hơn nữa là nói về thế gian có đặc tính phân tán và sau khi phân tán, hình thức của cõi người sẽ biến thể ra sao. Theo đó, Ngũ trần dù nằm trong trạng thái vi tế... (Tiểu thế giới) hay trong khung cảnh hoàn vũ (Ðại thế giới) đều luôn luôn vô thường. Khi Ngũ trần vô thường thì Ngũ căn cũng không thể nào vững bền được. Kết quả, Lục thức, nhất là Ý thức là những cái hoàn toàn giả tạo. Ðại đức Sàrìputta nhắc lại lời Phật dạy: “Ai có Chánh kiến thì nhận thức được như thế và sẽ chắc chắn giải thoát”.
IV. 175
Nói về sự cần thiết trong việc kiểm soát được cả hai cảm thức: Cảm thức ngoại cảnh và cảm thức nội tâm. Ðồng thời với khả năng suy luận một cách hợp lý (Vijjàcarana) sẽ giúp cho hành giả chấm dứt được một số tà ý hay phiền não.
IV. 179
Pháp đề cập về những động lực hỗ trợ để đạt đến Niết-bàn, và những chướng ngại cản trở sự tiến tới mục tiêu ấy.
V. 165
Nói về năm nguyên nhân tại sao người đời thường chất vấn một vị Sa-môn với một ý nghĩ khinh thường rằng: “Nếu ông ấy trả lời câu hỏi một cách đúng đắn thì tốt, bằng không ta sẽ dạy lại cho ông ta cách giải đáp”. Ðây chính là một ý định tội lỗi do vô minh ngã mạn gây ra. Ác tánh đó chỉ có ở hạng người phàm tục chứ không bao giờ phát sanh trong tâm một vị Thánh hay Bồ-tát.
V. 167
Pháp nói về phương pháp để thanh lọc các hàng Tăng lữ trong Giáo hội.
VI. 14, 15
Nói về hai nguyên nhân hằng gây ra hậu quả trong giờ phút lâm chung là trạng thái tâm tánh êm dịu hay bứt rứt. Ý nói cái chết diễn ra một cách bình thản hay đau khổ.
VII. 41
Ðại đức Sàrìputta giảng rằng một Sa-môn khi đã có những sức mạnh siêu phàm. Nếu vị ấy vui mừng tán dương sức mạnh đó vững chắc như tảng đá, tinh túy như một chất nước lấy ra từ những đóa hoa, có sức thiêu đốt như lửa, bàng bạc mọi nơi như không khí. Hoặc giả Sa-môn ấy, cứ xem thường nó, coi như không có gì cả thì năng lực siêu phàm ấy vẫn có thể hỗ trợ hành giả một cách hữu hiệu như nhau.
VII. 66
Nói về cử chỉ tôn kính lễ bái, Ðại đức Sàrìputta thuyết: “Những hành vi này có thể giúp cho người Phật tử quen đi một số động tác phạm hạnh. Nhất là thói quen ấy lại hướng về đức Phật, đức Pháp và đức Tăng. Ngoài ra; cũng có thể hướng về tư tưởng độ thế hay mong muốn lợi tha (Patisanthàra)”.
IX. 6
Nói về phương pháp tìm hiểu tánh tình dân chúng của một địa phương xuyên qua y phục, vật thực, chỗ ở, làng xóm, thành thị hay xứ sở v.v... Một Sa-môn trước khi truyền bá giáo lý giải thoát vào một vùng mới cần phải hiểu rõ như thế. Nghĩa là sứ giả của Như Lai khi ở trong một quốc độ nào phải thấy quốc độ ấy thích hợp với mình.
IX. 11
Một tiếng “Gầm sư tử” thứ hai của Ðại đức Sàrìputta được trình bày, trước sự chứng minh của Ðức Phật ngay khi có một Tỳ-kheo cáo oan về Ngài. Khi ấy Ðại đức Sàrìputta chỉ mỉm cười, rồi công bố cho mọi người biết những pháp giải thoát khỏi sự oán giận là hai đặc tính không cố chấp trong bản ngã và tâm chẳng bao giờ muốn làm hại kẻ khác của một số đại Sa-môn.
IX. 13
Ðây là bài luận đạo của ngài với Ðại đức Mahà Kotthika về mục đích của đời sống Thánh Tăng.
IX. 14
Ðại đức Sàrìputta chất vấn Ðại đức Sàmiddhi về những yếu pháp giải thoát, rồi cống hiến thêm một số chứng minh của mình để bổ túc.
IX. 16
Một đoạn trình bày về tính ngay thẳng tự nhiên của Ðại đức Sàrìputta dù cho đối với những kẻ đối lập cũng vậy. Ngài đã cải chính một câu nói của Ðề-bà-đạt-đa (Devadatta)... Vì ngài cho rằng câu nói ấy có thể bị vị Tỳ-kheo đến thuật lại với ngài thêm bớt. Sau đó đức Trưởng lão đã thuyết cho vị Tỳ-kheo ấy nghe về một tư tưởng vững chắc đã được phát triển đầy đủ. Tư tưởng ấy không thể bị lung lay bởi bất cứ ác ý nào hết.
IX. 84
Ðề cập về Niết-bàn (Nibbàna), một cứu cánh được diễn tả bằng những từ ngữ như Vô sanh, Bất diệt, Tịnh lạc, Chẳng cấu hợp, Không điều kiện v.v... Tất cả đều vượt khỏi cảm thức của con người.
X. 7
Ðại đức Sàrìputta mô tả về những trạng thức thiền định của ngài. Cuối cùng bài mô tả ấy ngài đã nói rõ điểm hội tụ của những trạng thái ấy là Niết-bàn, là sự chấm dứt sanh diệt.
X. 65
Bài pháp có tựa “Tái sanh là một nỗi khổ và không tái sanh là một hạnh phúc”.
X. 66
Nghe được giáo lý của Ðức Phật, làm được lời Phật dạy là hạnh phúc. Không thỏa thích trong việc nghe giáo lý và không thỏa thích trong sự thực hành Phật giáo là một điều bất hạnh và thoái hóa.
X. 67. 68
Những nguyên nhân làm hăng hái hay thối chí trong việc phát triển thiện tánh.
X. 90
Nói về mười sức mạnh để giải thoát những ác pháp ngấm ngầm trong tâm mà một vị A-la-hán lúc còn phàm đã nhờ nó mà đạt tới Thánh quả. Mười sức mạnh này chỉ hiển hiện khi hành giả đã vững chắc trong Thiền định, nhất là trong Minh sát tuệ. Ðại đức Sàrìputta phân tích rõ: Sự thanh lọc nội tâm không phải chỉ mang lại sự yên ổn, mà còn đạt được trạng thái trong sáng nữa.
---o0o---


tải về 0.64 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   ...   5   6   7   8   9   10   11   12   13




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương