Cuộc Đời Tôn Giả Xá Lợi Phất Tác giả: nyanaponika thera dịch giả: nguyễN ĐIỀU


PHẦN THỨ HAI - TRÍ DUYÊN VIÊN MÃN TÌNH BẰNG HỮU



tải về 0.64 Mb.
trang2/13
Chuyển đổi dữ liệu04.01.2018
Kích0.64 Mb.
#35694
1   2   3   4   5   6   7   8   9   ...   13

PHẦN THỨ HAI - TRÍ DUYÊN VIÊN MÃN TÌNH BẰNG HỮU

Nếu Ðại đức Sàrìputta nổi tiếng về đức tánh biết ơn sâu dày, thì tình bằng hữu của ngài đậm đà cũng không kém. Với Ðại đức Mahà Moggallàna, một người bạn cũng là một đồng chí trong thuở thiếu thời của ngài. Ngài luôn luôn giữ chặt tình bằng hữu. Và những bằng chứng khác nữa là sau khi xuất gia, họ đã tìm đến nhau để đàm luận về Pháp bảo rất nhiều. Nhờ thế mà có lần khi Ðại đức Sàrìputta còn đang tiến triển trên con đường đạt đến đạo quả, sự luận pháp đã giúp cho ngài nhiều tia sáng hữu dụng đặc biệt. Ðiều đó đã được ghi lại trong Kinh Anguttara Nikàya Catukka Nipàta số 167.


Ðoạn ấy thuật rằng: Một lần nọ, Ðại đức Mahà Moggallàna đến gặp đạo huynh của ngài là Sàrìputta và nói: “Này sư huynh Sàrìputta. Có bốn con đường tiến hóa là:
1- Tiến hóa khó khăn mà chậm chạp thì trực tiếp hiểu biết.
2- Tiến hóa khó khăn mà nhanh chóng cũng được trực tiếp hiểu biết.
3- Tiến hóa dễ dàng mà chậm chạp thì được hiểu biết trực tiếp.
4- Tiến hóa dễ dàng mà nhanh chóng thì cũng được hiểu biết trực tiếp.
Thế thì cái nào trong bốn cách tiến hóa này đã cho tâm trí của đạo huynh thoát khỏi những điều xấu xa không còn dư sót?”.
– Này đệ Mahà Moggallàna. Chỉ có cách thứ tư là “Tiến hóa dễ dàng nhanh chóng và hiểu biết trực tiếp”.
Cắt nghĩa như đoạn trên chính là dập tắt các nhơ bẩn trong tâm rồi, chuẩn bị cho sự chấp nhận hay sáng suốt, đó là một việc làm không khó khăn lắm 6 nên được gọi là Dễ (Sukha Patipadà), ngược lại tức là Khó hay Khổ sở (Dukkha Patipadà). Nếu sau khi dập tắt hết các nhơ bẩn nơi nội tâm rồi, con đường hành đạo để tiến tới giác ngộ dù khó khăn đến đâu với Sa-môn loại này cũng trở thành dễ dàng và nhanh chóng. Do đó họ vẫn có thể chứng đạt một cách thiết thực và vững chắc.
Ở đây, sự hiểu biết trực tiếp (hay còn gọi là trạng thái nối liền với đạo quả) được gọi là nhanh chóng (Khippabhinõnõà) còn ngược lại là chậm chạp (Dandàbhinõnõà).
Trong kỳ luận đạo này, những câu nói của Ðại đức Sàrìputta ám chỉ đến sự đạt được quả vị A-la-hán của ngài. Tuy nhiên, khi nói đến ba đạo Thánh đầu tiên, vấn đề cắt nghĩa còn tùy theo các chú giải trong Kinh điển. Nhất là để luận về câu “Tiến hóa dễ dàng, chậm chạp thì được hiểu biết trực tiếp”.
Nhờ những cách đàm luận như thế, đôi bạn Sàrìputta và Mahà Moggallàna đã hiểu biết nhau và trao đổi cho nhau những kinh nghệm, những nhận định về Pháp bảo. Họ cũng thường lui tới hội họp để tham dự những vấn đề bàn cãi giữa Tăng chúng.
Có một dịp khác, nhằm khi họ hợp tác với nhau trong việc thức tỉnh những vị Tỳ-kheo đã lầm lạc nghe theo lời xúi dại của ông Devadatta (Ðề-bà-đạt-đa). Thái độ rất ý nghĩa của Ðại đức Sàrìputta là ngẫu nhiên khen ngợi một cách nhân từ những thật quả của ông Devadatta đã đạt được, khiến ông quá tự đắc với những thành công ấy mà lâm vào tình trạng chia rẽ Tăng chúng, gây một biến cố làm suy đồi Phật giáo ngay khi Ðức Thế Tôn còn tại tiền. Kết quả những Tỳ-kheo lầm lạc đã được tỉnh ngộ.
Căn cứ theo Clavagga, Sangha Bhedaka Khandhaka, Sanghabheda Kathà thì có một đoạn thuật lại rằng:
“Khi ấy, Ðức Phật bảo Ðại đức Sàrìputta vào công bố trong thành Ràjagaha là tất cả những hành vi và ngôn ngữ của ông Devadatta sẽ không còn liên hệ vì không được Ðức Phật, đức Pháp và đức Tăng nhìn nhận nữa...”
Ðại đức Sàrìputta nói:
– Trước đây đệ tử đã từng tán dương vài khả năng tu tập của ông Devadatta bây giờ đệ tử tuyên bố ngược lại sợ rằng sẽ gây hoang mang trong dân chúng chăng?
Ðức Phật bèn dạy:
– “Này Sàrìputta. Khi ông ca ngợi khả năng của ông Devadatta, ông có nói một cách thật thà không?”.
– Vâng. Bạch Ðức Thế Tôn.
– Thế thì bây giờ, này Sàrìputta. Ông cũng chỉ nói một sự thật về Devadatta (Ðề-bà-đạt-đa) mà thôi.
Do đó, sau khi được Tăng chúng công cử, Ðại đức Sàrìputta cùng với một số Tỳ-kheo đã vào thành Ràjagaha (Vương Xá) truyền rao như lời Phật dạy.
Ông Devadatta khi đó đã công khai chia rẽ Tăng chúng bằng cách tuyên bố là ông có thể hướng dẫn mọi hoạt động của chư Tăng một cách riêng rẽ. Ông bèn dắt năm trăm vị Tỳ-kheo trẻ tuổi lên núi Linh Thứu (Ðỉnh núi có nhiều giống kênh kênh chuyên ăn xác người chết ở) lập đoàn thể riêng.
Ðể gọi họ trở về, Ðức Phật đã sai hai Ðại đức Sàrìputta và Mahà Moggallàna đến đó. Trong khi ông Devadatta đang an nghỉ thì hai vị đại đệ tử Phật này liền giảng giải cho các vị Tỳ-kheo lầm lạc ấy nghe về Pháp bảo khiến họ đắc quả Nhập lưu (Tu-đà-hoàn) và đồng kéo nhau về với Ðức Bổn Sư.
Có một lần khác, khi Ðại đức Sàrìputta và Ðại đức Mahà Moggallàna đang cùng hợp tác hướng dẫn Tăng lữ thì khi đó có một số Tỳ-kheo do Ðại đức Assàji làm thầy (Không phải Trưởng laõo Assàji đã nói trên) và Ðại đức Punabbasu đang ngụ tại Ktagiri bỗng làm những điều đáng chê trách, mặc dù đã được các hàng huynh đệ khả kính khuyên nhủ nhiều lần, những vị Tỳ-kheo này vẫn không sửa đổi tư cách. Do đó, hai Ðại đức Sàrìputta và Mahà Moggallàna lại được phái đi để phân xử. Hai vị tôn túc này đã phải dùng đức kiên nhẫn vô biên mới giải quyết được vấn đề. Kết quả những vị Tỳ-kheo phạm lỗi vào chịu nghiêm phạt đúng theo giới luật. Nhất là họ phải sám hối với nhau về tội công kích cá nhân lẫn công kích Tăng-già. (Theo Culavagga Kammakkhadhaka Pabbàjaniya Kamma Pàràjika Pàli Sanghàdisesa Kanda Kuladusaka Sikkhàpada).
Thế nhưng chẳng có gì làm chia rẽ tình bằng hữu của Ðại đức Sàrìputta được. Và căn cứ theo chú giải của bộ Kinh Mahàgosinga Sutta thì cũng có một sợi dây cảm mến sâu đậm giữa ngài và Ðại đức Ananda, người luôn luôn hầu cận Ðức Phật. Sở dĩ như thế là vì Ðại đức Sàrìputta nghĩ rằng “Phận sự chăm nom Bổn Sư là việc lẽ ra chính mình phải lo mỗi ngày”. Còn sự cảm mến của Ðại đức Ananda đối với Ðại đức Sàrìputta là bởi Ðại đức được Ðức Phật tuyên bố ngài là một đệ tử ưu tú. Khi Ðại đức Ananda (A Nan) làm lễ xuất gia bậc thấp (Sa-di) cho một người học trò trẻ. Ngài đã dẫn ông ấy đến Ðại đức Sàrìputta để thọ giới bậc cao (Tỳ-kheo). Ðại đức Sàrìputta đã hoan hỷ đáp ứng lời yêu cầu của Ðại đức Ananda... Cứ như thế cả hai đã có tới năm trăm học trò chung.
Bất cứ khi nào Ðại đức Ananda được y phục tốt hay những vật dụng tốt khác, ngài thường đem biếu cho Ðại đức Sàrìputta, và ngược lại khi Ðại đức Sàrìputta có bất cứ những đồ dâng hiến đặc biệt nào phát sanh đến ngài, ngài cũng đem biếu lại Ðại đức Ananda. Một lần nọ, Ðại đức Ananda được một bộ y rất quý do một người Bà-la-môn dâng cúng. Sau khi được Ðức Phật cho phép ngài đã giữ bộ y đó đến mười ngày, cho Ðại đức Sàrìputta trở về vì ngài đang đi vắng. Trong Tiểu chú giải còn nói rằng:
“Các học giả Phật giáo sau này biết đâu sẽ chẳng bình phẩm: – Ðại đức Ananda vì chưa đắc đạo quả A-la-hán nên cảm tình cá nhân vẫn còn nhưng Ðại đức Sàrìputta là một vị A-la-hán tại sao cũng có những hành động tương tự?”.
Và Tiểu chú giải đã phân tích rõ:
“Sự kính mến của Ðại đức Sàrìputta nào phải giống như một tình cảm ràng buộc của người đời mà là một lòng thương do đức hạnh của Ðại đức Ananda. Trong Phật giáo gọi là Ðức cảm (Guna bhatti)”.
Có một lần, Ðức Phật dạy Ðại đức Ananda: “Này Ananda! Trong hàng tứ chúng có rất nhiều người cảm mến Ðại đức Sàrìputta. Còn ông, ông có bằng lòng vị Sa-môn ấy không?”.
Ðại đức Ananda cung kính trả lời:
– “Bạch Ðức Thế Tôn! Dường như tất cả mọi người đều bằng lòng Ðại đức Sàrìputta, chỉ trừ những kẻ còn ấu trĩ, hư hỏng, ngu muội hoặc ở trong một tinh thần bại hoại. Bạch Ðức Thế Tôn! Ðại đức Sàrìputta là một vị toàn học, có một trí tuệ vô biên, bạch Ðức Thế Tôn! Trí tuệ ấy còn quảng bác, trong sáng, nhanh nhẹn, sắc bén và tiềm ẩn chẳng khác nào ánh sáng phản chiếu ra từ một tảng pha lê. Ðại đức Sàrìputta là một người ít đòi hỏi, tri túc, vắng lặng, không thích đông đảo và giàu nghị lực. Ngài còn có tài biện luận, có nghệ thuật nghe để thanh lọc và thu thập. Thật là một bậc luôn luôn chỉ lo tự kiểm soát để loại trừ những gì là tội lỗi (căn cứ theo Kinh Devaputta. S. Susimasutta).
Trong Kinh Thera Gàthà (N. V-1034) chúng ta thấy Ðại đức Ananda diễn tả sự cảm mến của ngài khi Ðại đức Sàrìputta lên đường về quê để tịch diệt. Ngài kêu lên:
– Khi người bạn cao thượng Sàrìputta đã ra đi, cuộc đời này đối với tôi như chìm vào đêm tối.
Ngài cứ nhắc đi nhắc lại như thế phía sau đoàn người tiễn biệt mà chân không buồn bước, đến nỗi họ và ngay cả Ðại đức Sàrìputta đã bỏ ngài một khoảng rất xa. Sự mến tiếc đã làm cho những người xung quanh hầu như chỉ biết có ngài. Nét ưu buồn của Ðại đức Ananda khi Ðại đức Sàrìputta lên đường nhập diệt cũng được diễn tả rất cảm động trong Kinh Cunda Sutta.
Ðại đức Sàrìputta là một người bạn thật, có ngôn ngữ rất trong sáng và đầy đủ. Ngài thông hiểu nhiều phương pháp để khai triển những cái đẹp, những cái cao thượng ở những người xung quanh. Và trong khi làm như thế ngài đã không chần chờ, đôi khi còn tích cực một cách thẳng thắn xây dựng bất cứ ai có dịp thân cận với mình. Chính Ðức Bổn Sư cũng nói: “Chỉ có những người như vậy mới dám vạch rõ những lỗi lầm của bạn”.
Nhờ vậy mà ngài Sàrìputta đã từng giúp Ðại đức Anuruddha (A-nậu-lâu-đà) bẻ gãy hết những chướng ngại sau cùng để tiến tới phẩm vị A-la-hán. Câu chuyện này được ghi lại trong Kinh Tikanipàta soá 128 thuộc bộ Anguttara Nikàya.
Kinh ấy thuật như sau:
“Có một lần nọ, Ðại đức Anuruddha đến gặp Ðại đức Sàrìputta. Sau khi chào hỏi và an tọa hợp lễ rồi, ngài bèn hỏi Ðại đức Sàrìputta:
– Này đạo huynh Sàrìputta! Với đôi mắt tinh tường nhờ thanh tịnh, với một sự nhận xét không còn phàm tình, tôi có thể nhìn thấy dòng đời muôn mặt. Sự vững chắc và nghị lực của tôi thật là bất tuyệt. Tôi lúc nào cũng ghi nhớ và không bị nhầm lẫn. Thể xác yên tịnh và không bị xáo trộn. Tâm trí của tôi được tập trung vào một điểm (đề mục). Thế mà thần thức tôi dường như không được thoát khỏi những nguyên nhân bại hoại, nhất là không được tự do lạc trụ, ngược lại còn bị vướng mắc.
Ðại đức Sàrìputta trả lời:
– “Này ngài Anuruddha. Chính vì ngài đã nghĩ như vậy về đôi mắt tinh tường, về sự nhận xét thoát tục, về trình độ vững chắc, về trạng thái không nhầm lẫn của mình v.v... mà ngài tự động dính mắc. Ðó là pháp ngã mạn còn ẩn phá trong ngài. Rồi ngài càng biết rằng mình đang có những khả năng ấy mà vẫn không được tự tại là ngài càng thắc mắc, và còn thắc mắc là không có tiến hóa. Sự tự phụ, một hình tướng của ngã mạn (Màna) và hoạt ý thắc mắc (Uddhacca) là hai trong ba chiếc xiềng (Samyo-jana) hằng đeo dính theo hành giả cho đến phẩm A-la-hán mới bị bẻ gãy.
– Này ngài Anuruddha! Thực ra, đó là một điều tốt đẹp nếu ngài từ bỏ những tư tưởng tự phụ này, ấy chính là ngài đang vững tiến trên con đường giải thoát.
Sau đó, Ðại đức Anuruddha đã xa lìa ba trạng thái chướng ngại ấy, chẳng màng nghĩ đến chúng nữa và ngài đã thấy được yếu tố bất tử. Từ ấy, Ðại đức Anuruddha tìm sống riêng rẽ tách rời khỏi mọi sinh hoạt bận rộn, chăm chú hăng hái với một tư tưởng quyết định: “Trước khi đạt được đời sống thực sự này, ngài phải hiểu và kinh nghiệm được nó. Ðối với ngài mục tiêu cao nhất là kiếp sống cao thượng đó”. Là thể hiện đầy đủ ý nghĩa: “Những đứa con trọn đời đi khỏi gia đình để góp mặt vào một đại gia đình”. Ngài lại còn biết rằng: “Còn lười biếng là còn tái sanh. Bất tử là phải vĩnh cửu. Giải thoát là không còn dính mắc vào bất cứ cái gì nằm trong vòng sanh diệt này”. Vì thế Ðại đức Anuruddha đã trở thành một trong những vị Thánh A-la-hán.
Ðại đức Sàrìputta đã gây quảng kiến cho đồng đạo và đã được khám phá ra nhiều thiện pháp mới lạ: Mỗi người có một bẩm tánh trong khả năng tiến hóa. Những bẩm tánh ấy có khi giống nhau, có khi khác nhau, có khi biến thành thiện pháp, có khi biến thành ác pháp. Theo Kinh Mahà Gosinga Sutta thuộc Majjhima Nikàya số 32 thì một buổi chiều kia, khi các Trưởng lão Mahà Moggallàna, Mahà Kassapa, ngài Anuruddha, ngài Revata và ngài Ananda đồng đến Ðại đức Sàrìputta để nghe pháp. Ðại đức Sàrìputta đã tiếp họ và nói:

– Thaät hân hạnh cho rừng cây Sàlagosinga này. Ðêm nay có trăng. Tất cả những cây Sàla trổ đầy hoa và tỏa hương thơm như mùi hương từ cung trời bay xuống, thoang thoảng đâu đây. Này đạo huynh Ananda! Theo ngài thì vị nào sẽ làm cho rừng Sàla Gosinga này rực rỡ hơn lên?


Cùng câu hỏi đó, ngài cũng đem hỏi những vị kia, và mỗi vị đã trả lời khác nhau tùy theo cá tính của họ. Sau cùng Ðại đức Sàrìputta nói lên câu trả lời của riêng ngài như sau:
– Chỉ có vị Tỳ-kheo nào đã kiểm soát được tư tưởng mình, không còn lệ thuộc dưới sự sai khiến của phóng tâm nữa. Bất cứ ý nghĩ nào có tính cách lâu bền và đạt được đạo quả mà ngài hằng ao ước để nghiền ngẫm về buổi sáng, ngài có thể suy gẫm đúng trong khoảng thời gian ấy. Bất cứ kiến thức nào có tính chất lâu bền hay đạt được quả vị mà ngài hằng mong muốn để nuôi dưỡng chơn tâm vào buổi trưa ngài cũng có thể gìn giữ được vào lúc đó. Và bất cứ nhận thức nào bền vững hữu đạt mà ngài ưa thích để nhiếp giữ đề mục vào buổi tối, ngài cũng có thể làm được trong thời gian đó.
Vì thế như một chiếc tủ đựng quần áo, đựng đồ trang sức của một ông vua hay một quan đại thần, dù có chứa đầy những loại phục sức nhiều màu sắc đi nữa, khi được sử dụng nhà vua hay một quan công thần sống có thứ tự cũng ăn mặc hợp thời, hợp cách theo từng mỗi tình cảnh, mỗi thời gian của nó. Những hạng vua chúa hay vương thần hằng giữ đúng phong ngoại của mình như thế thường được mọi người chiêm ngưỡng và có mãi vẻ uy nghi.
Với một Sa-môn, khi đã kiểm soát được tâm tánh rồi, không còn bị lệ thuộc dưới sự thống trị của ái dục nữa, thì mọi hành vi, cử chỉ cũng điều độ như thế. Nghĩa là tâm nào phải bền vững, tâm nào tự phát sanh mọi biến chuyển được nhiếp nhận một cách thuần thục, thoải mái, không dư sót, đúng thời điểm chắc chắn.
– Này đạo huynh Moggallàna. Một Sa-môn như thế thì chỉ có ngài, vị có thể ban cho khu rừng Sàla Gosinga này sự trong sáng đó.
Sau đó, các ngài cùng đến Ðức Phật bạch lại mọi việc. Và Ðức Thế Tôn đã tán dương đồng ý hết thảy những lời đàm luận của họ.
Ngài còn tiếp:
– Các ông có thể nhận thấy trong lời nói của ông Sàrìputta: Với tất cả sức thông minh và địa vị của ông trong hàng Tăng lữ. Ông đã dẹp bỏ được những khuôn mẫu độc tôn của kẻ thường cố gắng đặt kiến thức của mình lên trên những kẻ khác. Làm thế nào mà ông đã hiểu một cách dễ dàng phương pháp tiêm nhiễm những ý thức riêng của ông vào những bậc đồng đạo trong một nghệ thuật tự nhiên và huyền dịu đem đến cho họ một sự thấm nhuần lồng trong một khung cảnh vui tươi như vậy.
– Ðây quả thực là bản thức của ông đã phản ảnh ra, và đã lôi cuốn những người đồng đạo với ông hưởng ứng để đối đáp một cách tương tự.
Ngoài các vị Ðại đức vừa kể trên ra, Ðại đức Sàrìputta còn luận đạo với những vị Tôn giả khác nữa. Chẳng hạn như các ngài Kotthita, Upavàna, Samiddhi, Savittha, Bhumija và một số vị nữa.
Riêng Ðức Phật, theo Kinh điển chúng ta thấy Ngài rất thường đích thân nói chuyện với Ðại đức Sàrìputta. Và ngược lại có khá nhiều bài pháp mà Ðức Bổn Sư thuyết cho những đệ tử thông luật của Ngài nghe, đã được Ðại đức Sàrìputta dùng làm đề tài để học hỏi...
Có một lần, Ðại đức Sàrìputta đã lập lại những lời dạy mà Ðức Phật thuyết cho ngài Ananda nghe vào một dịp nọ: “Những đối xử làm cho đời sống trong sạch (Brahmacariyà) gọi là tình bằng hữu, tình đồng đạo và tình đoàn thể cao đẹp”. (theo Kinh Magga Samyutta Khandha - No. 2)
Không có gì hoàn hảo hơn là những thí dụ cắt nghĩa về giáo lý mà chính một đại đệ tử của một bậc Tôn sư đã thể hiện được.
---o0o---


tải về 0.64 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4   5   6   7   8   9   ...   13




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương