Cuộc Đời Tôn Giả Xá Lợi Phất Tác giả: nyanaponika thera dịch giả: nguyễN ĐIỀU



tải về 0.64 Mb.
trang9/13
Chuyển đổi dữ liệu04.01.2018
Kích0.64 Mb.
#35694
1   ...   5   6   7   8   9   10   11   12   13

KINH CUNDA

(SATIPATTHANA SAMYUTTA 23)


Có một lần Ðức Thế Tôn nguï tại Kỳ Viên tinh xá của ông Trưởng giả Cấp-cô-độc (Anàtha-pindika) trong thành Xá-vệ (Sàvath).
Khi ấy, Ðại đức Sàrìputta lại ngụ trong làng Nàlaka, xứ Magadha (Ma-kiệt-đà) và đang bị bệnh hoạn dày vò thân thể trầm trọng. Vị sư đệ tên Cunda là người đã hầu cận ngài.
Sau khi Ðại đức Sàrìputta tịch diệt, ông Cunda vội nhặt tất cả những di vật như bình bát, y phục của Ðại đức Sàrìputta đem đến thành Sàvatthì, vào tận trong rừng Jeta công viên của ông bá hộ Cấp-cô-độc. Khi đến nơi, ông đi thẳng đến Ðại đức Ananda để thông báo trước tiên, và lúc chào kính xong, ông ta bèn bạch với Ðại đức Ananda rằng:
– Bạch Ðại đức! Trưởng lão Sàrìputta đã nhập diệt rồi, và đây là bình bát và y phục của ngài để lại.
Ðại đức Ananda liền buồn bã đề nghị:
– Này đạo hữu Cunda! Về việc này chúng ta nên đến yết kiến Ðức Thế Tôn. Biết đâu khi hầu Ngài, chúng ta sẽ chẳng được nghe Ðức Phật dạy dỗ nhiều điều hữu ích?
Ðại đức Cunda lập tức tán đồng: “Vâng, bạch ngài!”.
Sau đó, họ cùng đến ra mắt Ðức Thế Tôn. Khi đã đảnh lễ Ðức Bổn Sư xong, họ ngồi sang một bên và Ðại đức Ananda liền bạch với Ðức Thế Tôn rằng:
– Bạch Ðức Bổn Sư! Ðạo hữu Cunda thuật với đệ tử là Trưởng lão Sàrìputta đã nhập diệt và đây chính là bình bát và y phục của ngài.
Rồi Ðại đức Ananda buồn bã tiếp:
– Ôi Ðức Thế Tôn! Khi đệ tử nghe tin Ðại đức Sàrìputta đã nhập diệt, thân thể đệ tử trở nên bàng hoàng yếu ớt. Mọi vật chung quanh trở nên mờ hẳn đi, và đối với đệ tử chúng không còn là những vật hữu dụng nữa.
Ðức Phật dạy: “Này Ananda! Sao lại như vậy? Khi Sàrìputta nhập diệt, ông ấy đã lấy đi của ông phần phước đức hay phần an trụ nào không? Ông ấy đã chia của ông phần trí tuệ hay phần giải thoát nào không?
– Bạch Ðức Thế Tôn, không phải như thế. Khi Ðại đức Sàrìputta nhập diệt, ngài không lấy của đệ tử một phần phước đức, an trụ trí tuệ hoặc pháp giải thoát nào cả. Ngài cũng không lấy của đệ tử một phần hiểu biết và nhận rõ con đường giải thoát nữa. Nhưng bạch Phật! Ðại đức Sàrìputta là một vị cố vấn trí tuệ hoàn toàn của đệ tử. Ðại đức đã giảng giải Pháp bảo một cách trọn vẹn, chính ngài là đấng dẫn dắt các hàng Tỳ-kheo lên Thánh đạo. Chúng đệ tử cũng còn nhớ rõ sự huấn pháp của Ðại đức nó linh hoạt, hữu lạc và thực dụng làm sao.
– Này Ananda! Trước đây Như Lai chẳng dạy cho ông rồi hay sao? Tất cả bản chất của mọi vật gần gũi và yêu mến đối với ta, trước sau gì cũng phải chịu một sự chia lìa, và do đó đệ tử của Như Lai phải quán tâm về pháp ấy chứ? Những hình thức nào được sanh ra, được lớn lên, được đoàn tụ, hẳn đều là nguyên nhân của sự tan rã, sự bại hoại. Những trạng thái đó đến với ta không có báo trước như thế nào thì cũng sẽ bỏ đi, không cần ta như thế ấy!
– Thực ra, ta muốn bám víu cũng không bao giờ được. Này Ananda! Ví như một cành cây đến lúc không chịu nổi sức nặng của nó, tự nó phải gãy đổ, dù cho thân cây có cứng rắn đến đâu. Sàrìputta cũng vậy, ông sẽ nhập diệt, tức là ông đã rời khỏi cộng đồng Tăng lữ dù cho cộng đồng ấy có vĩ đại, có mạnh mẽ đến đâu. Này Ananda! Như Lai xin lập lại cho ông ghi nhớ rằng: Mọi pháp hành thực tiễn hay không thực tiễn, mọi hình thức vi tế hay thể khối sanh có mặt trên cõi đời này, tập hợp, phát triển rồi thì phải tiêu hoại. Chúng đã đến như thế nào thì sẽ đi như thế đó. Ðây chính là pháp vô thường vậy!
– Này Ananda! Do đó ông hãy tạo cho mình một hòn đảo rắn chắc để khỏi chìm đắm trong bể khổ. Ông nên từ bỏ những trạng vật vô thường. Ngay cả thể xác của ông, ông cũng nên cảnh giác để diệt trừ những pháp dễ duôi trên con đường xây đời vĩnh cửu. Phật giáo sẽ là hòn đảo rắn chắc, sẽ là động lực thoát khỏi sự vô thường, sẽ là bước chân liên tục để đưa ông vào cảnh giới bất tử.
Chú giải còn ghi rõ một đoạn thuật sự như thế này:
Khi ấy, Ðức Bổn Sư đưa thẳng cánh tay của Ngài để nhận lấy vuông vải lọc chứa di hài của Ðại đức Sàrìputta do Tỳ-kheo Cunda đặt vào tận bàn tay của Ngài và nói:
– Này chư Tỳ-kheo! Ðây là những di vật có màu sắc ngọc trai của một Tỳ-kheo mà trước đây không lâu đã xin phép Như Lai để nhập diệt. Ông là người đã tu tập để hoàn toàn trong một thời gian vô lượng và trải qua hằng trăm ngàn đời kiếp. Công đức ấy đã tạo ông thành một bậc Sa-môn vô cùng xứng đáng. Ông là người đã đạt được quả vị gần nhất của Như Lai. Và chỉ có ông mới được như thế. Trừ Như Lai ra không ai có thể bì kịp trí tuệ của ông, vì trí tuệ ấy đã được tạo ra do công trình hàng vạn kiếp. Sự vĩ đại của trí tuệ ông có thể ví như ánh sáng mặt trời, lúc nào cũng nhanh chóng tinh anh và tiềm tàng vô cùng tận. Vị Tỳ-kheo ấy bao giờ cũng tri túc, không ham thích dù chỉ là sự ham thích của những bậc Thánh nhơn, không ưa tạo hợp, đầy nghị lực và là người dẫn dắt khả kính của nhiều bạn đồng đạo, bởi luôn luôn biết tẩy trừ những điều tội lỗi của kẻ khác. Ông là người đã đi vào trong cuộc sống không gia đình, chối bỏ những của cải ham chuộng của thế gian mà ông có thể hưởng được như một người thừa tự. Gia tài bá hộ của cha mẹ ông không phải chỉ to lớn gần đây, mà thực sự đã giàu có qua hằng năm trăm đời. Ông chính là một Sa-môn đích thực và trong vô lượng kiếp qua ông đã thực hành pháp Ba-la-mật của Như Lai. Ông đã song hành và kiên nhẫn như quả đất. Với ông, tất cả đều vô hại, nhưng với ác pháp ông ví như một con vật chúa đoàn có đôi sừng bén nhọn, sẵn sàng ngăn chận những kẻ xấu có thể gây nguy hại cho đồng loại của mình. Ôi cao quý thay! Một Tỳ-kheo trong Phật giáo bao giờ cũng có một tư tưởng khiêm nhượng, người con trai cứu thế chính là ông vậy.
– Này chư Tỳ-kheo! Các ông hãy xem đây! Di hài của Ðại đức Sàrìputta, một vị Thánh Tăng đầy trí tuệ, đầy quảng đại, trong sáng, linh hoạt, sắc bén và tiềm tàng. Sự tri túc, ít ham muốn của ông với đức tánh thích ẩn dật, không ưa động hợp và đầy nghị lực đã làm cho ông trở nên một vị cố vấn lỗi lạc đối với những đồng đạo, khi họ còn tiến bước trên con đường giải thoát.
Tiếp theo, Ðức Phật còn đọc những câu kệ sau đây để ca ngợi vị đệ tử vĩ đại của Ngài:
– Trong một trăm ngàn kiếp sống qua, người đã năm lần thoát ly xiềng xích gia đình đem thân hành đạo thiện. Người luôn luôn giữ tâm mát mẻ đối với những kẻ xung quanh, tình thương bao giờ cũng tỏa rộng. Căn thức được kềm chế rồi thì linh hồn trở nên cao thượng và ngày nay cũng như mãi mãi về sau này đều được mọi người tôn kính. Dù ông Sàrìputta đã nhập diệt, tấm gương sáng chói biểu lộ sức mạnh kiên nhẫn của ông, người sau chỉ còn biết ví như quả đất. Trong trí tuệ của ông chỉ có một con đường duy nhất, con đường phát tiết lòng từ bi, thiện cảm và mát mẻ một cách êm ả. Quả địa cầu này đã bền vững song song với ông giờ đây vẫn còn nâng đỡ con người đáng tôn kính ấy. Chư Tỳ-kheo! Hãy hướng về con đường Sàrìputta mà đi, mặc dù giờ đây ông đã nhập diệt.
– Người ấy thuở thiếu thời đã xa hẳn gia đình chỉ biết giữ trong tâm hồn mình một sự ôn hòa khiêm nhượng, tìm kiếm một thành trì kiên cố và bình thản bước mãi trên một lộ trình duy nhất. Sống cuộc đời khất sĩ, từ nơi này đến nơi khác, không màng danh lợi, không phải để cái tên Sàrìputta được người sau tôn thờ, mà là để soi sáng đồng loại đang vướng mắc trong vòng đau khổ. Nếu có ai mà suốt đời dù sống giữa đô thị náo nhiệt hay trong rừng sâu thăm thẳm cũng chẳng làm phương hại đến một chúng sanh thì người đó chính là Sàrìputta. Chư Phật đã ví ông như một con vật chúa đoàn uy vũ, suốt đời chỉ biết thương hàng đồng loại. Người đã thắng tất cả, hoàn toàn làm chủ lấy mình dù đã tịch diệt, người sau có tôn thờ đến đâu cũng không xứng đáng được.
Sau khi Ðức Thế Tôn đã ca ngợi hạnh phúc vô lượng của Ðại đức Sàrìputta như thế, Ngài bèn cho xây một Bảo tháp để tôn thờ di hài ấy.
Tiếp đó, Phật ngỏ ý với Ðại đức Ananda. Ngài muốn đi đến thành Ràjagaha (Vương Xá).
Ðại đức Ananda bèn thông báo cho chư Tỳ-kheo hay để chuẩn bị hành trình với Ðức Thế Tôn. Khi Ðức Phật vừa đến nơi thì Mahà Mog-gallàna Trưởng lão cũng đã nhập diệt.
Ðức Phật, một lần nữa, lại nhận những di hài như trước và dạy các hàng Phật tử lập Bảo tháp phụng thờ. Xong xuôi Ngài khởi hành từ thành Ràjagaha, qua nhiều đoạn đường, đi về hướng sông Ganga để đến xứ Ukkacela. Nơi đó Phật dẫn chư Tỳ-kheo đến bờ sông Ganga để thuyết một bài pháp nói về sự an nghỉ Niết-bàn của hai Ðại đức Sàrìputta và Mahà Moggallàna mà chư Thánh Tăng sau này gọi là Ukkacela Sutta.
*



tải về 0.64 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   ...   5   6   7   8   9   10   11   12   13




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương