Cuộc Đời Tôn Giả Xá Lợi Phất Tác giả: nyanaponika thera dịch giả: nguyễN ĐIỀU


ÐẠI ÐỨC SÀRÌPUTTA, NGƯỜI XỨNG ÐÁNG LĂN BÁNH XE PHÁP BẢO



tải về 0.64 Mb.
trang5/13
Chuyển đổi dữ liệu04.01.2018
Kích0.64 Mb.
#35694
1   2   3   4   5   6   7   8   9   ...   13

ÐẠI ÐỨC SÀRÌPUTTA, NGƯỜI XỨNG ÐÁNG LĂN BÁNH XE PHÁP BẢO

Những bài pháp của Ðại đức Sàrìputta và những mô tả của Ðức Phật hay của các vị Tôn túc khác về ngài đã chứng tỏ Ðại đức Sàrìputta đóng một vai trò hàng đầu trong việc chuyển lăn bánh xe pháp.


Chúng ta thấy điều này đã được chứng minh bằng hai thời pháp cổ điển trong Kinh Sammà-ditthi No 9, thuộc bộ Majjhima Nikàya (Trung A Hàm) và một phần trong Kinh nói về “Sự so sánh những bước chân voi”.
Ðoạn nói về “Sự so sánh những bước chân voi” này quả là một kiệt tác trị tâm bệnh một cách rất khoa học. Nó bắt đầu bằng sự nhắc lại bốn pháp Diệu đế. Tiếp theo nó phân tích từng sự thật về mỗi hoạt động của Ngũ uẩn, của bản chất con người, từ sự kết hợp thân thể tính đến sự kết hợp ý thức tính. Nó còn nói rõ sự cấu tạo của Tứ đại mà mỗi đại trong đó cái nào được gọi là Nội thể hay cái nào được gọi là Ngoại thể. Những bộ phận và những động tác thân thể nào được ý thức chỉ huy và những cái nào bị ngoại cảnh chi phối. Nó còn nói rõ cái mà người ta gọi là bản ngã vốn chỉ là nội tâm bám chặt vào ngoại cảnh. Khi đã nhận thức như vậy thì sẽ thấy rõ xác thân tứ đại hẳn là một ngoại cảnh. Tuy cả hai nội tâm và ngoại cảnh đều có bản chất vô thường, nhưng cái vô thường của nội tâm ta có thể dùng thiền định chỉ huy, còn cái vô thường của ngoại cảnh ta chỉ biết có khổ.
Rồi bài pháp lại tiếp:
“Vô thường là một định luật, không phải là nguyên nhân của khổ, chỉ vì sự bám chặt vào những sắc thái vô thường mới là mầm móng của muôn điều khổ não. Sự bấn loạn khi ý thức không bắt kịp hay không biết rõ mọi biến đổi của sắc thân chính là khởi điểm của một chuỗi huân tập và làm nảy sanh ra cái mà ta gọi là bản ngã (tức Ngũ uẩn) đau khổ”.
Khi một Sa-môn có được sự nhận thức như thế rồi, đồng thời với sự thanh tịnh sáng suốt đã được phát triển trong tâm, Sa-môn ấy khi đương đầu với những chướng ngại như mất mát, chê trách hoặc thù hận, họ sẽ không khó chịu hay bấn loạn tư tưởng. Trái lại, họ sẽ rất sáng suốt thấy rõ phiền não nổi lên ở nơi nào liền diệt ngay tại nơi ấy. Chẳng hạn như phiền não nổi lên ở nhãn căn thì diệt ngay nhãn thức; phiền não nổi lên ở nhĩ căn thì diệt ngay nhĩ thức; phiền não nổi lên ở thiệt căn thì diệt ngay thiệt thức; phiền não nổi lên ở thân căn thì diệt ngay thân thức; phiền não nổi lên ở ý căn thì diệt ngay ở ý thức; phiền não nổi lên ở tâm sơ định thì diệt ngay ở sơ định thức; phiền não nổi lên ở tâm cận định thì diệt ngay ở cận định thức v.v...
Cứ như thế, Sa-môn trong Phật giáo khi đã an tịnh và nhập lưu (kể từ đạo quả Tu-đà-hoàn) thì họ chỉ tiến chứ không có thối. Dù trong khi tiến hóa, sắc thân tứ đại của họ có bị đánh ngã, tâm trí họ cũng vẫn không bị tổn thương. Ðối với họ, sau khi đã dẹp bỏ mọi phiền não, mọi vướng mắc, mọi câu chấp rồi tâm trí chỉ còn một việc duy nhất là đề mục Thiền định.
Những hạng Sa-môn này khi nghe được Pháp bảo của chư Phật thì trạng thái an tịnh nơi họ liền trở nên tinh khiết, trong suốt, ý niệm vô lượng liền lập tức phát sanh. Họ tưởng nhớ đến Ðức Phật, đức Pháp và đức Tăng cùng một lúc tỏa ra tâm đại xả trước vạn pháp vui cũng như khổ”.
Còn đối với những ai chưa đạt được quả Thánh, thời pháp tiếp:
“Khi hành giả hướng tới đức Phật, đức Pháp và đức Tăng, sự bình thản của họ nếu không được bền vững, họ cũng vẫn tiếp thọ kinh cảm để tinh tấn gầy dựng thanh tịnh. Và sự tiếp thọ kinh cảm ấy chính là tia sáng hướng dẫn hành giả trở về với đề mục cao thượng. Mặt khác, nếu sự an tịnh luôn luôn bền vững hành giả chắc chắn sẽ tăng trưởng phỉ lạc. Và họ chỉ cần kéo dài tình trạng phỉ lạc này để bước đến ngưỡng cửa Thánh nhơn không còn xa mấy”.
Trên đây là tất cả những yếu pháp được coi như do Ðại đức Sàrìputta đã khám phá và thuyết ra. Phần hậu luận dành cho phàm nhân được trình bày bằng cách so sánh toàn bộ một con người với một ngôi nhà có năm cửa ván xung quanh và một cửa kính chính giữa. Cửa ván thì khi đóng, che mắt được đạo tặc, song cửa kính thì dù đóng hay mở, đạo tặc cũng nhìn thấy rõ bên trong. Cửa ván có thể bị những ngoại vật ô uế làm hư mục, nhưng cửa kính chỉ bị các vật ấy làm mờ đục mà thôi. Người chủ nhà khôn ngoan là người chỉ mở cửa ván bên ngoài cho bạn lành bước vào và luôn luôn lau chùi cửa kính bên trong cho thật trong sáng để thấy rõ mọi phía xung quanh hầu tìm bắt ngoại tặc lẻn vô ẩn núp đâu đấy mà đuổi ra, không cho xâm nhập tận trung tâm.
Tương tự như thế, một con người có năm giác quan (Ngũ căn) ví như năm cửa ván bên ngoài, và ý căn ví như cửa kính bên trong. Bạn xấu ví như đạo tặc, ngoại vật ô uế ví như ác pháp. Bạn lành ví như giới đức. Việc lau chùi cửa kính ví như thiền định. Sự trong sáng ví như thiện pháp. Và sau cùng, người chủ nhà ví như con tâm.
Người thiện trí thức là người không phải chỉ biết lo gìn giữ ngôi nhà cho được tốt đẹp trong khi nó còn vững chắc, mà một cách thấy xa hơn, người ấy còn phải lo kết nạp bạn lành chuẩn bị vật liệu để khi ngôi nhà cũ xiêu, sụp đổ, họ có thể dựng lại một ngôi nhà mới khang trang hơn.
Tương tự như thế, bậc hữu học là người luôn luôn cảnh giác Ngũ căn, ngăn ngừa Ngũ trần, gìn giữ giới đức và thanh lọc nội tâm cho được trong sạch. Cao thượng hơn nữa là những hàng hữu học ấy tình nguyện xuất gia khép mình vào đời sống Sa-môn để thường xuyên thực hành thiền định. Nếu giới luật là khuôn thước để huấn luyện Ngũ căn, thì thiền định là phương pháp để thuần thục ý thức.
Các Sa-môn khi đã vững chắc trong thiền định rồi thì sự ham muốn, sự buồn rầu, sự ràng buộc chỉ là những nhiễu nhương cố hữu của Ngũ uẩn. Loại trừ những phiền não ấy bằng tâm vô lượng không cảm thấy vui sướng rằng mình đã tiêu diệt được nó là đạt đến Thánh quả giải thoát.
Do đó, nội dung của bài pháp nói trên đã diễn tả trọn vẹn bốn chơn lý hằng có (Tứ diệu đeá). Trong khi thuyết giảng bài pháp ấy, Ðại đức Sàrìputta đã khéo léo như một nhạc trưởng kỳ tài, biết sử dụng nghệ thuật phối hợp âm thanh ở mức độ toàn hảo nhất, khiến cho ban nhạc vang lên một cách uy nghiêm và hùng tráng. Còn trong bài pháp kia, Kinh Sammà Ditthi (nói về Chánh kiến), Ðại đức Sàrìputta quả thật là một người cầm đuốc soi đường. Vì giữa rừng sanh tử vô minh, ai muốn được giải thoát phải bước chân vào hẳn Bát Chánh đạo của chư Phật, và cửa ngõ đầu tiên mà hành giả phải đi xuyên qua là Chánh kiến, tức thấy hiểu chơn chánh.
Ðề pháp này khi được Ðại đức Sàrìputta phân tích đã trở thành một kiệt tác giáo lý. Ngài còn chứng minh cho thính giả thấy rằng Chánh kiến là cái chìa khóa để mở cổng đi vào Thánh đạo. Ai không có Chánh kiến là người ấy không có tất cả.
Theo ngài, Chánh kiến không phải chỉ đơn giản là khả năng nhận thức đuùng đắn, khách quan như quan niệm của thế gian, mà một cách khác hẳn “Chánh kiến là thanh tịnh hiểu biết”, hay “không có một câu chấp nào hết trong khi nhận thức vấn đề”. Vì câu chấp (tức thành kiến) thường rơi vào một trong hai trạng thái là khách quan hay chủ quan, sẽ làm cho tâm trí của con người vẩn đục. Hoặc nói một cách khác, Chánh kiến trong Phật giáo không phải là nguyên nhân của Chánh tín như nhiều người lầm tưởng, mà nó chính là thành quả của thiền định.
Mặt khác, nếu chúng ta chịu khó đọc lại năm bộ A Hàm (Nikàya) 10 của Tạng Kinh (Sutta Pitaka), chúng ta sẽ thấy Chánh kiến như một đề tài chính, luôn luôn được nhắc đến.
Chú giải còn ghi rõ: Nói đến Chánh kiến là nói đến Bát Chánh Ðạo. Hay nói đến Chánh kiến là nói đến Tứ Diệu Ðế. Nơi nào có Chánh kiến là nơi đó có hạt giống thánh thiện đã được gieo. Trong Tạng Kinh, Chánh kiến và Tứ Diệu Ðế được nhắc đến ba mươi hai lần, và tất cả ba mươi hai lần ấy đều liên hệ đến Thánh quả.
Một bài pháp khác của Ðại đức Sàrìputta trong bộ Tăng Nhất A Hàm (Anguttara Nikàya Quyển I 63) là Kinh Samma Citta (Chánh Tâm) đã được thuyết cho chư Thiên và Thánh nhơn từ Tư-đà-hàm trở lên nghe. Trong bài pháp này, Ðại đức Sàrìputta đã nói đến những kiếp sau cùng của “vài hàng chúng sanh sắp bước chân ra khỏi rừng sanh tử luân hồi”.
Ðây là một bài pháp phân tích thật rõ ràng về các Thiên cảnh, Siêu thức cảnh, Vô lượng thọ cảnh v.v... mà Ðại đức Sàrìputta đã làm cho chư Thiên tụ hội nhiều vô số kể.
Có một đoạn thuật lại rằng: “Khi ấy rất đông chư Thiên từ quả Thánh thấp đã đắc lên quả Thánh cao, và một số chư Thiên khác nhờ nghe pháp mà bước được vào đạo Thánh lưu (tức Tu-đà-hoàn). Căn cứ theo Kinh điển thì ấy là bài pháp đưa đến kết quả đạt Thánh cao nhất trong đời Ðại đức Sàrìputta”.
Mặc dù đó chỉ là một bài pháp tóm tắt, có vẻ như huyền hoặc, vì không có một chứng minh thực tế nào, không có một chú giải thí dụ nào cho phàm nhân hiểu được, nhưng nó là những Thánh ngôn mà các đại Thiền sư từ xưa đến nay hằng tôn tụng và trì chú.
Lịch sử Phật giáo Tích Lan cũng chép:
“Thánh Tăng Mahinda, con trai Hoàng đế Asoka (A Dục), khi truyền Phật giáo vô nước Tích Lan, một buổi chiều nọ đã thuyết lại hai bài pháp Samma Citta và Mahà Vamsa (XIV-34ff.)”.
Quốc Sử ấy còn nhấn mạnh: “Khi nghe pháp có vô số chư Thiên và các hàng Ðại trí thức đã thấm nhuần Pháp bảo”.
Kết quả của hai bài pháp này sở dĩ vĩ đại như vậy là vì Ðại đức Sàrìputta đã cung cấp một cách rành mạch những sự gợi thức cho các hàng chư Thiên và Ðại trí thức về những cảnh kế tiếp sau kiếp hiện hữu của họ. Chẳng hạn như có một số chư Thiên khi đang phát triển để đắc lên những bực Thánh cao hơn, thời gian cần thiết phải còn dài, mà tuổi thọ đang có lại ngắn ngủi, nên họ đâm ra lo lắng cho tuổi trời của mình, và nhất là không muốn bị tái sanh vào cõi Ngũ uẩn (người) như trường hợp lắm lúc đã xảy ra. Bài pháp của đức Trưởng lão đã cắt nghĩa đến họ một cách đầy đủ để cho họ có thể xét đoán nổi vị trí của mình, vì thói thường khi còn ở ngoài Thánh đạo, muốn được tiến hóa, cần phải có một sự định hướng giá trị mới có thể dắt dẫn hành giả tiến cao hơn được.
Kinh Sangiti và Dasuttara là hai bài pháp khác nữa trong những bài pháp của Ðại đức Sàrìputta. Ðó là hai phần sau cùng của bộ Digha Nikàya, một bộ Kinh bao gồm những bài pháp dài. Cả hai phần này có thể xem như là bảng mục lục của bộ Digha Nikàya hay Trường A Hàm, vì nó liệt kê toàn những đề pháp được đánh số từ một tới mười. Lý do của sự đánh số là để giúp trí nhớ cho những người muốn nắm vững nội dung bộ Kinh này. Về sau các Phật Học Viện đã gọi bảng mục lục ấy là bảng kê khai Pháp số, và toàn thể học Tăng sẽ tùy theo trình độ mà phải học thuộc lòng những Pháp số ấy trước khi trở thành Giảng sư để đăng đàn thuyết pháp.
Kinh Sangiti đã được Ðại đức Sàrìputta nói ra dưới sự chứng minh của Ðức Phật. Do đó chúng ta có thể kết luận rằng Ðức Bổn Sư đã hoàn toàn chuẩn y bảng danh mục Pháp bảo do Ðại đức Sàrìputta thiết lập. Trong khi Kinh Sangiti ghi lại những Ðề pháp có trật tự từ thấp tới cao, thì Kinh Dasuttara nêu rõ các chi của từng Ðề pháp một. Như vậy hễ nói đến pháp số một là Ðề pháp ấy chỉ có một chi, và khi nói đến pháp số hai là Ðề pháp ấy có hai chi, pháp số ba có ba chi, pháp số bốn có bốn chi v.v...
Kỹ thuật chương mục hóa Pháp bảo này trong Tạng Kinh của Ðại đức Sàrìputta rõ ràng là sự đóng góp sau cùng của cuộc đời ngài cho Phật giáo. Vì trước khi nhập diệt Ðại đức Sàrìputta đã nghĩ: “Pháp bảo ví như một kho tàng châu báu. Muốn sử dụng một cách đủ giá trị và có hiệu lực, toàn bộ châu báu ấy phải được sắp xếp có hệ thống”.
Hơn nữa, khi ấy lại nhắm vào lúc Giáo chủ Nigantha Nàtaputta, một người cầm đầu tôn giáo cùng thời với Ðức Phật, qua đời. Các đệ tử của ông ta đã chia rẽ và y cứ theo những lời dạy hoàn toàn vô trật tự. Ðại đức Sàrìputta e sợ nguy cơ ấy có thể xảy đến cho Phật giáo, nên đích thân tự làm công tác này.
Mặt khác, ngay sau khi Ðức Bổn Sư tịch diệt, hiển nhiên hơn câu chuyện của ông Nig-antha Nàtaputta, còn có cÂu chuyện của Giáo chủ Mahà Vra (Ðạo lõa thể). Ðiều này đã chứng minh rằng Ðại đức Sàrìputta đã có một cái nhìn thật xa. Bằng có là trong các thời pháp sau cùng của ngài, ngài luôn luôn lập lại:
“Hỡi chư huynh đệ! Ðạo pháp này phải được tất cả học thuộc lòng, hòa hợp với nhau mà không có sự xích mích. Chỉ như thế, đời sống Tăng lữ mới duy trì vững bền để phục vụ cho sự an vui và hạnh phúc của chư Thiên và nhân loại”.
Chú giải còn cho biết rằng: Mục đích của Kinh Sangiti là đem đến sự ưa thích ở pháp hòa thuận (Samaggisasa) trong giáo lý giải thoát bằng sự tiên đoán để di huấn đầy đủ (Desanà Kusalatà).
Riêng Kinh Desuttara, Ðại đức Sàrìputta đã mở đầu bằng câu:
“Dasuttaram pavakkhàmi Dhammam nib-bànappattiyà. Dukkhassantà kiriyàya sabba ganthapamoca ram...”.
Nghĩa là: Bài pháp mang tên Dasuttara mà bần Tăng sắp nói ra đây là một giáo lý để đạt đến Niết-bàn và chấm dứt phiền não, cắt đứt sợi dây ràng buộc nô lệ”.
Rồi trong đoạn sau, ngài đã nhấn mạnh: “Pháp bảo khi đã kết tập và ghi nhớ có hệ thống, sẽ được truyền bá nguyên vẹn đủ chi tiết của nó. Ðây chính là lý do khiến bần Tăng thuyết ra hai bài Yếu lục ấy”.
Trong cuốn sách này, chúng ta chỉ có thể nhắc đến một vài “đóng góp độc đáo” vào kho tàng Pháp bảo của Ðại đức Sàrìputta mà thôi, vì hãy còn rất nhiều những bài pháp của ngài nằm rải rác trong Tam tạng Kinh điển mà chúng ta không có dịp bàn kỹ.
Một bảng tóm tắt về những bài pháp khác của Ðại đức Sàrìputta đã thuyết, được trình bày ở phần cuối cuốn sách này để giúp cho những ai muốn tra cứu có thêm một số tài liệu.
Bây giờ chúng ta thử tìm hiểu khả năng Chú Giải (Atthakathà) của Ðại đức Sàrìputta trong Tam tạng Pàli. Trước hết hãy nói về quyển Niddesa, thuộc bộ Khuddaka Nikàya (Tiểu A Hàm). Ðây là quyển Chú Giải duy nhất được lưu truyền kể từ thời Ðức Phật. Kinh này chia làm hai phần là Mahà Niddesa (Ðại Chú Giải) và Cula Niddesa (Tiểu Chú Giải). Mahà Niddesa bàn về Atthaka Vagga ở trong Kinh Nipàta. Còn Cula Niddesa thì dẫn giải đoạn Paràyana Vagga trong Khagga Visàna nằm ở phần cuối Kinh này.
Nhiều học giả khi nghiên cứu Phật giáo đã xác nhận cuốn Niddesa là quyển sách xưa nhất. Có thể nó đã xuất hiện vào thời kỳ đầu tiên có Tăng bảo trong giáo pháp của Ðức Phật Thích Ca. Bằng chứng là trong Kinh Udàna có ghi rõ sự thuộc nằm lòng đoạn Atthaka Vagga của Ðại đức Sona. Kinh Anguttara Nikàya cũng ghi lại sự thuộc nằm lòng đoạn Paràyana Vagga của một tín nữ là bà Nanda Màtà.
Vẫn biết Kinh Phật là do chính Ðức Phật thuyết ra, nhưng sự chú giải lại do các đại Sa-môn đảm nhận. Và Ðại đức Sàrìputta là một đại đệ tử đã làm công tác đó trước nhất. Nghĩa là ngài đã làm ngay trong thời kỳ Phật giáo mới bắt đầu có Tăng bảo.
Có ít nhất là năm trường hợp trong Kinh Nipàta, chính Ðức Phật đã tuyên dương công tác này của Ðại đức Sàrìputta.
Cũng có vài thuyết cho rằng cuốn Niddesa là do công lao của nhiều vị đại đệ tử của Ðức Phật hợp lại mà thành. Tuy nhiên, căn cứ theo chú giải trong Kinh Thera Gathà do Ðại đức Bha-dantà Cariva Dhammapàla biên soạn thì tác giả của Kinh Niddesa là Ðại đức Sàrìputta (Dhamma Enapati). Còn theo Giáo sư E. J. Thomas trong “Nguyên sử Phật giáo” thì hầu hết nội dung của Niddesa là đóng góp của Ðại đức Sàrìputta.
Ngoài ra, Giáo sư E. J. Thomas còn viết:
“Nét đặc biệt nhất của Kinh Niddesa là gồm có một bảng kê khai đồng ngữ đã được bình giải rõ ràng. Những giảng luận như thế không phải dùng để cắt nghĩa từng tiếng hay từ đoạn riêng biệt, mà trái lại có thể áp dụng chung cho bất cứ chỗ nào có một câu pháp tương tự. Do đó người ta có thể gọi nó là một “Bình luận tự điển”. Những bình luận như thế rất hữu ích trong việc nghiên cứu Vi Diệu Pháp (Abhidhamma), nhất là để y cứ theo Thánh nghĩa hơn là cứ suy giải theo sức hiểu biết của mình”.
Ðiều này chỉ cho chúng ta thấy rằng: Một hệ thống học hỏi từ ngữ và ngôn lý trong Phật giáo đã được thành hình tối cổ. Hệ thống này chỉ có một điểm bất tiện là không có những quy tắc tự vựng như văn phạm ngày nay... Thay vào đó, Niddesa lại có một lối phân tích (Patisambhidà) khá đầy đủ, chẳng hạn như phân tích Nghĩa lý (Attha), phân tích Ðiều kiện (Dhammà), phân tích Tự căn (Nirutti), phân tích Ứng đối (Patibhàna) v.v... Riêng cách phân tích Tự căn lại được chia ra làm bốn phần nhỏ đã rất thịnh hành trong thời gian tiếng Pàli còn là một sinh ngữ.
Ngày nay, mặc dù tiếng Pàli không được đàm thoại trong đời sống hằng ngày, nhưng các hệ thống phân tích ấy vẫn giúp ích cho nhiều học giả muốn nghiên cứu Phật giáo không ít.
Theo Kinh điển chúng ta được biết thì Ðại đức Sàrìputta đã đạt được bốn Tuệ phân biệt (Catu Patisambhidà nõàna) hai tuần lễ sau khi xuất gia, nghĩa là lúc đạt được đạo quả A-la-hán. Và căn cứ theo nghệ thuật phân tích văn pháp (Nirutti Patisambhidà) trong Patisambhidà Magga thì chúng ta có thể tin rằng Ðại đức Sàrìputta không những là tác giả của bộ Niddesa mà Ngài còn là tác giả của Patisambhidà Magga nữa. Trong Mahà Niddesa, có một đoạn Kinh mang tên Sàrìputta (còn gọi là Kinh Thera Panõhà) được chú giải. Ðây là phần sau cùng của Attaka Vagga. Mở đầu chú giải này là những kệ ngôn ca ngợi ân đức của Ðức Bổn Sư và những câu hỏi đặt ra cho Ngài, nhưng Ngài đã ủy thác cho Ðại đức Sàrìputta giải đáp. Riêng bài kệ mở đầu trong Kinh Mahà Niddesa là bài kệ tán dương oai lực của Ðức Phật sau khi Ngài đã lên cõi trời Tavatimsa nói về Vi Diệu Pháp (Abhidhammà) rồi trở về.
Ngoài ra, trong Kinh Thera Panõhà, mặc dù mang tên Sàrìputta, nhưng cũng có nhiều chỗ ghi các câu hỏi của Ðại đức Sàrìputta đặt ra và được Ðức Phật trả lời.
Nhiều học giả còn cho rằng Kinh Patisam-bhidà Magga là thiên khảo luận của Ðại đức Sàrìputta, vì họ nhận thấy nội dung của nó hoàn toàn là khả năng phân tích và tầm tư tưởng thâm sâu của vị Thánh Tăng uyên bác này.
Ở đoạn mở đầu, Patisambhidà Magga trình bày những bài khái luận về bảy mươi hai thứ hiểu biết (Nàna) và về những loại kiến thức sai lầm, mà xuyên qua đó chúng ta có thể chiêm ngưỡng được cái trí tuệ vô song của Ðại đức Sàrìputta. Trong bài Kinh khai thuyết về sự hiểu biết cũng như trong những chương khác của tác phẩm, người ta đã tìm thấy một số lớn những danh từ giáo lý xuất hiện lần đầu tiên, và chỉ trong Patisambhidà Magga mà thôi. Tác phẩm cũng chứa đựng những lời cắt nghĩa tỉ mỉ về các thuật ngữ và các giáo thuyết đã được giới thiệu tóm tắt trong nhiều phần pháp và trong những bộ xưa hơn nữa của Tam tạng Kinh (Tipitaka Sutta).
Một học giả Cao Tăng Tích Lan, Ðại đức Mahà Nàma người đã viết bài Saddhamma-ppakàsini, chú giải cho tác phẩm, đã không ngần ngại phát biểu:
– Nói đến Patisambhidà Magga là nói đến Ðại đức Sàrìputta, vì trong đó nhân vật của ngài được nhắc đến hai lần: Lần thứ nhất (trong Iddhi Viddha Kathà) như là một bậc đã làm chủ được phép tỏa rộng thanh tịnh (Samàdhivipphàra Iddhi). Lần thứ hai (trong Mahà Panõnõà Kathà) Ngài như là bậc duy nhất hiểu thấu chiều sâu trí tuệ của Ðức Phật (Solasa Panõnõà Niddesa)”.
Cho nên, chúng ta cũng không lấy gì làm ngạc nhiên khi đọc trong Kinh Atthasàlini thấy ghi rằng: “Thuở ấy Ðức Phật thuyết Vi Diệu Pháp (Abhidhamma) trong vòng ba tháng ở coõi trời Tàvatimsa cho mẹ Ngài, Hoàng hậu Màyà, người đã được sanh làm chư Thiên nơi cõi trời ấy nghe. Cứ mỗi ngày, khi trở về thế gian độ ngọ, Ngài hằng thuyết lại cho Ðại đức Sàrìputta về các pháp thâm diệu vi tế.
Kinh Atthasàlini còn ghi rõ:
“Trí tuệ của Ðức Thế Tôn dồi dào như nước trong lòng biển cả thì sức hiểu biết của Ðại đức Sàrìputta nhiều như những lượn sóng. Hễ nước chảy đến đâu thì sóng gợn đến đó. Nước bốc thành hơi thì sóng cũng biến thành hơi. Và dưới sức nóng của ánh sáng mặt trời, người lữ hành mệt mỏi trên sa mạc đã nhìn thấy hơi nước bằng những lượn sóng”.
Có điều là Ðại đức Sàrìputta, sau khi đã thấm nhuần Vi Diệu Pháp bảo của Ðức Phật rồi, chỉ đem truyền lại cho chư huynh đệ và đệ tử những pháp mà ngài nhận thấy cần thiết, thực tế và hợp với trình độ hiểu biết của họ. Ngài cũng không quên hệ thống hóa Vi Diệu Pháp ấy cho dễ học, dễ nhớ.
Nhiều học giả còn cho rằng: Tất cả Vi Diệu Pháp đều bắt nguồn từ Ðại đức Sàrìputta và ngay cả bộ sách vĩ đại Patthàna cũng là công trình của vị đại Thánh Tăng này.
Về nghệ thuật sắp xếp và thừa truyền lại Vi Diệu Pháp của Ðại đức Sàrìputta, theo Attha Sàlin, chú giải của đoạn Dhamma Sangani, thì ngài đã tác văn những phần như sau:
1- Ðoạn bốn mươi hai Song Liên Kệ (Duka) trong Suttanta Màtikà sau Abhidhamma Màtikà. Cả hai phần này dẫn đầu bảy cuốn Vi Diệu Pháp, và được giảng giải trong Kinh Dhammasangan.
2- Kinh thứ tư và cũng là phần sau cùng trong Dhammasangan là Atthuddhàrakanda đã dùng đề cập về sự cương yếu (hay tóm tắt).
3- Ðặt ra cách giúp trí nhớ để dễ học nằm lòng (Vàcana Magga).
4- Ðánh số cho đoạn Patthàna trong Kinh Anupada (thuộc Majjhima Nikàya No III) vì đây là một phần Kinh mà Ðức Phật đã nói về các chiều biến thiện của tâm thức thiền và những trạng thái đồng sanh tâm mà chính Ðại đức Sàrìputta cũng đã từng trải qua sau khi tiến lên khỏi mỗi giai đoạn của sự đạt thiền. Phương pháp đánh số này là cả một nghệ thuật, vì nhờ đó mà người ta có thể rút ngắn được những phép phân tích qua chi tiết có thể gây lầm lẫn trong ý thức thiền định.
Kinh Dhamma Sangan còn nhắc lại lời khen ngợi của Ðức Phật:
– Ðại đức Sàrìputta quả thật là một bậc am hiểu Pháp bảo rốt ráo. Ngài không những đủ sức trả lời một số câu hỏi của Như Lai trong vòng một ngày hay một ngày một đêm một cách trong sáng, mà ngài còn thừa sức để luận đạo với Như Lai cả đến bảy ngày bảy đêm đem về tất cả mọi vấn đề.
– Này chư Tỳ-kheo! Có năm tuyệt phẩm mà một trưởng tử của vị vua cai trị toàn thế giới có thể lãnh đạo thiên hạ vững chắc như vua cha, không bị bất cứ một kẻ thù nghịch nào làm đảo lộn.
– Vậy năm tuyệt phẩm ấy là gì? Ðó là người kế vị bậc Thế giới vương biết rõ thế nào là nhân, thế nào là quả, thế nào là điều kiện thiên nhiên, thế nào là điều kiện xã hội và thế nào là trình độ con người.
– Này chư Tỳ-kheo! Tương tự như thế. Khi Sa-môn Sàrìputta tròn đủ năm tuyệt phẩm này rồi thì ông sẽ có thể quay bánh xe tối thượng Pháp bảo một cách đúng đắn như Như Lai đã từng lăn. Bánh xe này không thể bị làm đảo lộn bởi những kẻ ngoại đạo, bởi chư Thiên hay Bà-la-môn giáo, cũng không bởi bất cứ kẻ nào trên cõi đời này.
– Này chư Tỳ-kheo! Năm tuyệt phẩm ấy là gì?
Là Sàrìputta trong vô lượng kiếp trước đã gieo trồng hạnh trí tuệ, ý thức thế nào là lợi ích cao thượng (Nhân), biết phương pháp giáo huấn (Quả), dùng những biện pháp đúng đắn (Ðiều kiện thiên nhiên), hiểu rõ lúc nào hợp thời (Ðiều kiện xã hội), và tùy theo đề tài hội họp (Trình độ) mà ông sẽ nói pháp. (Anguttara Nikàya V. 132).
Ngoài Ðức Phật ra, những vị Tôn túc khác cũng đã tán dương khả năng của Ðại đức Sàrì-putta. Chẳng hạn như Ðại đức Sangsa (về các kệ ngôn số I. 231 - I. 233), Trưởng lão Mahà Kassapa (theo các câu kệ số 1082-1086) và nhất là Tôn giả Mahà Moggallàna (Mục-kiền-liên) khi nghe Ðại đức Sàrìputta thuyết xong bài pháp “Nói về sự vô tội”, Ngài đã ngâm mấy câu sau đây để ca ngợi công đức của bậc Thánh Tăng ấy:
“Này chư Tỳ-kheo huynh đệ! Thật là kỳ diệu. Thính giác của tôi, khi nghe được Pháp bảo của đạo huynh Sàrìputta thì nó tự nhiên thanh tịnh, ý tưởng tự nhiên no đủ”. (Theo Majjhima Nikàya No 5)
Nói tóm lại, đức hạnh và khả năng của Ðại đức Sàrìputta vô cùng vĩ đại. Vĩ đại không những ngay trong lúc Ðức Phật còn tại tiền, mà sự vĩ đại ấy cho mãi đến ba trăm năm sau vẫn còn được các bậc Thánh nhơn ca tụng. Chúng ta thử đọc lại Kinh Milinda Panõhà (Mi Lan Ðà Vấn Ðạo để xác nhận điều ấy là một sự thực).
Kinh Milinda Panõhà chép:
“Vua Mi-lan-đà đã so sánh Ðại đức Nàgàsena (Na-tiên) với Thánh Tăng Sàrìputta và nói: “Trong rừng Pháp bảo của chư Phật, không có một nhân vật nào khác như Ngài để có thể trả lời những câu hỏi của trẫm, ngoại trừ đức Trưởng lão Sàrìputta, một vị đứng đầu về vạn pháp”. Và uy tín vĩ đại đó vẫn còn sống mãi cho đến ngày nay, tạo ra một sự khích lệ người đời bởi những giáo lý đáng ôm ấp của một vị đại đệ tử Phật. Tiếng vang ấy được bảo tồn phát triển lẫn tàng trữ trong một số những cuốn sách quý nhất của Phật giáo.
THÂN QUYẾN CỦA ÐẠI ÐỨC SÀRÌPUTTA
Như chúng ta đã biết, Ðại đức Sàrìputta sanh trưởng trong một gia đình Bà-la-môn giáo (Brahman) thuộc làng Upatissa (còn gọi là Nàlaka) gần thành Ràjagaha (Vương Xá). Thân sinh ngài là ông Vaganta và thân mẫu ngài là bà Sàrì. Ngài còn ba người em trai tên là Cunda, Upasena, Revata và ba chị em gái là các nàng Càlà, Upacàlà và Ssupacàlà.
Cả sáu người này đều lần lượt xuất gia và đắc quả A-la-hán.
Ông Cunda sau này có tên là Samanuddesa có nghĩa là “Môn đồ non nớt” trong hàng chư Tăng, mặc dù đã thọ Tỳ-kheo giới. Lúc ấy Tăng chúng gọi như thế là để phân biệt ngài với đức Trưởng lão Mahà Cunda.
Khi Ðại đức Sàrìputta tịch diệt, Cunda là vị làm chủ táng, và cũng là người đi thông báo cho Ðức Phật biết, đồng thời dâng cốt thể đến Phật vì đó là Thánh tích của một vị đại đệ tử.
Câu chuyện được ghi lại trong Kinh Cunda. Phần tóm lược của nó sẽ được trình bày thêm trong cuốn sách này.
Ông Upasena sau được gọi là Vagantaputta, hay “Con trai nhà Vaganta” (cũng như Ðại đức Sàrìputta có nghĩa là con trai của bà Sàrì) đã được Ðức Phật khen ngợi như là một trong những Tỳ-kheo gương mẫu, luôn luôn giữ một thói sống thanh tịnh baèng pháp Tri túc (Samantap Pàsàdika). Theo bộ Salàyatana Sam-yutta, chương 7, Kinh số 7 thuật lại thì ngài đã tịch vì bị rắn cắn.
Revata là người em trai nhỏ tuổi nhất, và chính mẹ ông đã muốn ngăn cản việc xuất gia bằng cách cưới vợ cho ông khi ông còn là một thiếu niên. Nhưng ngay vào ngày đám cưới, ông đã trông thấy bà nội của người vợ tương lai, một cụ già một trăm hai mươi tuổi, tàn tạ với nét già yếu. Ông lập tức trở nên ghê sợ cuộc sống ở đời, bèn lìa khỏi hôn lễ và trốn vào một ngôi chùa để xin xuất gia.
Vào những năm sau, trên đường đến thăm Ðức Phật, ngài đã dừng chân tạm ngụ tại một khu rừng đầy cây xiêm gai (Khadìvà vana) và trong thời gian nhập hạ ở đó, ngài đắc quả A-la-hán. Sau đó, người ta gọi ngài là Ðại đức Revata Khàdravaniya (ngài Revata trong rừng Xiêm gai). Ðức Phật đã xem ngài như là người đứng đầu những vị cư ngụ trong rừng ấy.
Còn ba người chị em gái của Ðại đức Sàrì-putta là Càlà, Upacàlà và Ssupacàlà, vì muốn noi gương những người anh, cũng đã trở thành những Tỳ-kheo-ni sau khi họ đã lập gia đình. Trong thời gian sống với chồng mỗi người đều có một đứa con trai, và chúng được đặt tên có nghĩa là “theo chân người mẹ”. Các cậu ấy cũng lần lượt “theo chân” như thế. Ba người này lại được Ðại đức Revata Khàdravaniya cho xuất gia làm Sa-di. Hạnh kiểm tốt của họ đã được Ðại đức Sàrìputta khen ngợi khi ngài đến thăm thầy họ bị bệnh. Ðiều này có ghi trong đoạn chú giải của Kinh Theragàthà (Phần V, kệ 42).
Riêng ba nàng Càlà, Upacàlà và Ssupacàlà là những Tỳ-kheo-ni được người đời tán tụng rằng họ đã từng bị Ma vương (Màra) đến gần cám dỗ rồi không thành thì chất vấn sỉ vả. Nhưng cả ba Tỳ-kheo-ni đã đối phó một cách rất tuyệt diệu. Những chuyện này được ghi lại trong kệ ngôn Thergàthà và Kinh Bhikhun Samyutta.
Trái ngược với những nàng này, bà mẹ của Ðại đức Sàrìputta lại là một người rất đố kỵ Phật giáo, chỉ trung thành với đạo Bà-la-môn. Do đó, bà đã thường xuyên phỉ báng Tăng chúng. Trong chú giải Kinh Dhammapàda, có một đoạn thuật lại rằng:
“Một lần nọ, khi Ðại đức Sàrìputta còn ở trong làng cũ Nàlaka của ngài với một số lớn chư Tỳ-kheo theo tu học. Ngài bèn về nhà mẹ trong một dịp đi khất thực. Với ngài, bà đã không thể từ chối, nên mời vào để lo dâng vật thực, nhưng trong lúc làm như vậy, bà không ngớt tuôn ra những lời quá khích. Bà nói:
– Ai lại đi ăn những đồ người ta bố thí. Nhỡ khi ông không được những thứ cháo chua mà người ta cho, chắc ông phải đi từ nhà này qua nhà khác mà kiếm những đồ còn lại trên vá trên chén chứ!
– Ði xin được chỉ có vậy mà ông dám bỏ cả gia tài hàng tám chín trăm triệu để làm một ông thầy tu. Ông đã làm cho tôi mắc cở với hàng xóm. Thôi, bây giờ ông hãy ăn đi.
Và khi bà cho những vật thực đến các vị Tỳ-kheo khác cùng đến với con bà, bà cũng làm như thế, bà liền bảo:
– Lại mấy ông nữa. Mấy ông là những kẻ đã theo cái nhóm bắt thằng con trai của tôi đi làm mọi. Thôi, ăn đi các ông ơi.
Cứ như vậy, bà tiếp tục lăng nhục chư Tăng. Nhưng Ðại đức Sàrìputta chẳng nói một lời, ngài nhận vật thực rồi dùng và im lặng trở lại tinh xá.
Ðức Phật biết được chuyện này do Ðại đức Ràhula, người trước đó là một trong những vị Tỳ-kheo bị bà lăng nhục, thuật lại. Còn tất cả Tăng chúng khi được nghe chuyện đó đều ngạc nhiên về sự nhẫn nại không tưởng tượng nổi của đức Trưởng lão. Sau đó, Ðức Phật đã khen ngợi ngài Sàrìputta giữa Tăng chúng bằng cách ngâm bài kệ:
“Kẻ đã trừ bỏ được sự nóng giận là người có thể làm tròn phận sự của mình một cách chính đáng. Kẻ biết giữ gìn những lời giáo huấn là người thoát khỏi dục vọng. Kẻ biết tự chỉ huy lấy mình là biết tạo cho mình một kiếp sanh sau cùng. Trong Pháp bảo giải thoát, Như Lai gọi kẻ ấy là một vị Phạm thiên (Brahma) vậy”.
Nhưng đến khi cuộc đời của Ðại đức Sàrì-putta gần chấm dứt, chuyện lăng nhục ấy không còn nữa. Ngài đã cảm hóa được người mẹ. Câu chuyện sẽ được kể sau này. Và mục đích thuật lại chuyện ấy là cốt đưa chúng ta đến một sự suy gẫm về những đặc tính tự thắng của một Trưởng lão vĩ đại. Ấy là ba đức tánh khiêm tốn, nhẫn nại và hỷ xả của ngài.
---o0o---


tải về 0.64 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4   5   6   7   8   9   ...   13




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương