Cuộc Đời Tôn Giả Xá Lợi Phất Tác giả: nyanaponika thera dịch giả: nguyễN ĐIỀU



tải về 0.64 Mb.
trang3/13
Chuyển đổi dữ liệu04.01.2018
Kích0.64 Mb.
#35694
1   2   3   4   5   6   7   8   9   ...   13

MỘT VỊ ÐỠ ÐẦU TĂNG LỮ

Sự nổi bật của Ðại đức Sàrìputta trong hàng môn đồ của Ðức Phật là đức tánh chăm lo giúp đỡ những vị khác. Chúng ta tìm thấy thuật sự này trong Kinh Devadaha Sutta:


“Những vị khách Tăng khi sắp trở về chốn cũ của họ, đến từ giã Ðức Phật, Ngài thường khuyên các Tỳ-kheo ấy đến chia tay với Ðại đức Sàrìputta. Phật bảo:
– Này các đệ tử! Sa-môn Sàrìputta thật không những là một người thông thái hằng giúp đỡ huynh đệ trên phương diện tinh thần, mà ông còn có khả năng cung ứng những nhu cầu vật chất cho đồng đạo nữa”. (Kinh gọi hai sự giúp đỡ đó là misànuggaha: Vật dụng và Dhammà nuggaha: Pháp dụng).
Chú giải còn nói: Vị Trưởng lão này không đi khất thực trong lúc sáng sớm như những vị Tỳ-kheo khác. Thay vì thế, khi các vị đã đi rồi, ngài bèn thả bước xung quanh tinh xá. Và bất cứ ở đâu nếu ngài tìm thấy đồ đạc không thu xếp, chỗ ngụ không sạch sẽ, ngài liền dọn dẹp quét hốt mọi rác rưới, và sửa soạn ngay cả giường chiếu, bàn ghế, chén bát, bình nước, thứ tự và sẵn sàng để cho những vị kia đi về sẽ dùng. Ngài làm như thế, ngoài đức tính chăm sóc chư Tăng, còn nghĩ rằng: “Những đạo sĩ khác, không phải người trong Phật giáo khi viếng thăm tinh xá, có thể thấy được sự vô trật tự rồi chỉ trích chư Tỳ-kheo hoặc coi rẻ Tăng chúng”.
Sau đó, ngài thường đi đến bệnh xá và an ủi những bệnh nhân bằng cách tìm hiểu xem họ cần những gì. Ðể đáp ứng các nhu cầu của họ, ngài đã dắt các vị Sa-di cùng đi với ngài để tìm thuốc men dưới hình thức đi khất thực như thường lệ. Hay ngài dẫn họ đến những nơi thích hợp (tức thí chủ đã yêu cầu ngài trước) để kêu gọi thuốc men. Khi đã được thuốc, ngài bèn giao lại cho các vị Sa-di và bảo:
– Này các ông! Chăm sóc cho những người bệnh là một điều mà Ðức Bổn Sư hằng khen ngợi. Bây giờ các ông hãy trở về và phải luôn luôn làm việc hết lòng.
Rồi ngài tiếp tục khất thực hoặc đến dùng bữa tại một nhà thí chủ. Ðây là một thói quen của ngài trong khi ở chung với cộng đồng Tăng chúng.
Nhưng khi ngài có một cuộc hành trình cùng với Ðức Thế Tôn, ngài thường không đi chung với những vị dẫn đầu, hay không tỏ ra kiểu cách cho người ta biết ngài là một đại đệ tử. Trái lại, ngài chỉ giao y bát cho các vị Sa-di mang hộ, rồi đích thân trước tiên chăm sóc những Tăng sĩ già yếu, thứ đến là những vị không được khỏe mạnh và những vị mới xuất gia hay những đệ tử mới bước chân vào đường đạo. Trong nhiều trường hợp ngài phải ở cạnh họ trong nhiều giờ, tự tay thoa bóp vào những chỗ đau đớn trên thân thể bệnh nhân và phân lượng thuốc uống cho từng người một. Chỉ khi nào ngài thấy họ thuyên giảm ngài mới từ giã đi săn sóc chỗ khác.
Có một lần, khi cũng vì những lý do như vậy mà Ðại đức Sàrìputta đã đến nơi rất trễ, lúc đó những vị kia đã ngơi nghỉ. Ngài không tìm được một chỗ vừa phải để nghỉ lưng qua một đêm. Ngài phải ngồi dưới một mái lều làm bằng những lá y. Ðức Bổn Sư rõ như vậy, nên ngày hôm sau Ngài triệu tập Tăng chúng và thuật cho họ nghe câu chuyện đối xử của một con voi, một con lừa và một con chim đa đa. Phật kể: “Ba con thú này cảm thấy muốn được an ninh phải sống nương dựa lẫn nhau. Chúng quyết định tôn một con lên làm anh cả để tạo trật tự rồi từ đó sống chung hòa thuận: nhỏ kính lớn, lớn thương nhỏ”. (Truyện số 67, ghi trong Tittira Jàtaka)
Sau đó, Ðức Phật chế ra điều luật rằng: “Chỗ nghỉ ngơi phải được sắp đặt theo thứ bậc”. (Theo Vinaya Cùlavagga, Senàsanà Khandhaka).
Còn về việc tiếp độ các hàng Tăng lữ trên phương diện tinh thần, Ðại đức Sàrìputta cũng tích cực không kém. Căn cứ Kinh Thera Gathà và chú giải thì khi ngài đến thăm ông Samitti-gutta, người đang bị bệnh cùi hoành hành trong một bệnh xá, ngài đã thân mật giảng cho ông Samittigutta nghe rằng:
– Này bạn! Ðã lâu lắm rồi, pháp tập hợp (Khandha) hằng tiếp diễn. Và cảm nghĩ chỉ là sự đau khổ. Chỉ khi nào Ngũ uẩn không còn hoạt động liên tục nữa thì sẽ dứt khổ.
Khi nghe xong những lời này, sự quán tưởng về những cảm nghĩ đã trở thành một đề mục cho bệnh nhân. Lúc Ðại đức Sàrìputta đi rồi, ông Samittigutta theo những lời chỉ dạy của ngài đã phát triển được nội thức và đạt tới Lục thông (Chalabhinnà) của một bậc A-la-hán 7.
Lần khác, khi ông Anàthappnïdïika (Cấp-cô-độc) đang hấp hối nằm trên giường bệnh thì Ðại đức Sàrìputta đã cùng với Ðại đức Ananda tới thăm, ngài đã thuyết vào tai cho người sắp chết một phần pháp nói về sự ra đi không dính mắc, và ông bá hộ Anàthappnïdïika đã thức tỉnh do bài pháp thâm thúy này 8.
Có một bài pháp khác cũng do ngài Sàrìputta thuyết cho ông Anàthapipnïdïika (Cấp-cô-độc) nghe khi ông này ở trong giường bệnh đã được ghi lại trong Kinh Sotàpatti Samïyutta, đoạn III câu số 6 như sau:
“Những động lực đưa đến sự tái sanh trong trạng thái thống khổ là ba gốc chướng ngại, năm sợi dây thằng thúc, và mười điều bất thiện”.
Pháp này được thấm nhuần khi ông Anà-thapnïdïika đang bước vào trong lãnh vực Thánh lưu nên sự đau đớn thể xác không còn lung lạc ông ta được nữa. Kết quả ông đã thấy rõ bốn uẩn như không và bốn Quả, bốn Ðạo không còn dư sót.
Lại một lần, đức Trưởng lão Channa đang ngã bệnh, bị một nỗi đau đớn vô biên. Ðại đức Sàrìputta đến thăm ngài, cùng đi với Trưởng lão Mahà Cunda. Khi trông thấy vị Sa-môn bị bệnh hoạn dày vò, Ðại đức Sàrìputta lập tức tình nguyện đi tìm thuốc men và vật thực thích hợp cho ngài. Nhưng Trưởng lão Channa vội cho biết ngài quyết định chấm dứt cuộc đời. Nên sau khi họ đã đi rồi ngài liền nhập diệt.
Kế đó, Ðức Phật đã giảng giải về hành động của Trưởng lão Channa. Ngài xác nhận đó không phải là một điều quyết định sai lầm vì Trưởng lão Channa đã đắc A-la-hán trước khi dứt khoát an nghỉ.
Nghệ thuật tiếp độ của Ðại đức có thể tìm thấy trong Kinh Channovàda Sutta thuộc bộ Majjhima Nikàya số 144. Ðoạn ấy nói rõ:
“Bất cứ khi nào Ðại đức Sàrìputta làm bổn phận đạo sư đến những người sắp trút hơi thở cuối cùng, ngài cũng luôn luôn tỏ ra là một người kiên nhẫn phi thường. Ngài cứ khuyên nhủ và khai ngộ dồn dập cả đến trăm ngàn lần, cho đến khi nào bệnh nhân phát khởi thiện tâm, ngài mới an lòng chấm dứt.
Nghệ thuật ấy cũng được Ðại đức Sàrìputta áp dụng để dạy dỗ học trò. Bất cứ người nào mới bước chân vào đạo mà được Ðại đức Sàrìputta hướng dẫn, ngài cũng đều làm cho người ấy đắc quả Nhập lưu (Tu-đà-hoàn), sau đó ngài mới chịu thả lỏng để đi dạy dỗ các vị khác.
Số Tăng lữ dưới sự dạy dỗ của ngài nhờ thu thập được giai đoạn căn bản vững chắc ấy đã tiếp tục thực hành đến lúc đạt được quả vị A-la-hán nhiều vô số kể”.
Trong Kinh Sacca Vibhanga Sutta thuộc bộ Majjhima Nikàya số 141, Ðức Phật đã nói:
“Ðại đức Sàrìputta như một người mẹ nuôi nấng các con, trong khi Ðại đức Mahà Moggal-làna như là một người vú hằng nâng niu các con. Ðại đức Sàrìputta hướng dẫn cho đến quả Nhập lưu còn Ðại đức Mahà Moggallàna thì nâng đỡ hành giả đến mục tiêu cao nhất”.
Ðể bổ túc về nghệ thuật dẫn đạo của Ðại đức Sàrìputta, Chú giải còn nói thêm:
“Ðiểm đặc biệt của Ðại đức Sàrìputta là không phân biệt học trò mình hay học trò người. Hễ ai chịu sự dạy dỗ của ngài, ngài luôn luôn hướng dẫn bằng tất cả sự sốt sắng, luôn luôn giúp đỡ trên mọi phương diện vật chất lẫn tinh thần nhất là chọn cho họ đề mục Thiền định cùng thường xuyên khai triển trí thông minh của họ, cho đến khi nào họ thấu triệt được Thánh lưu và tiến lên khỏi sự nguy hiểm của dục trần thấp thỏi. Khi nào Ðại đức Sàrìputta tách rời học trò khi ấy ngài biết chắc rằng: “Giờ đây, với sức trưởng thành của họ, họ có thể tự tiến hóa để nhường tay cho những vị cần hướng dẫn khác”.
Nhưng Ðại đức Mahà Moggallàna thì khác. Ngài cũng huấn luyện học trò cùng phương pháp như vậy, nhưng ngài không thả lỏng họ, dù cho họ có vững chắc trong giai đoạn đầu. Ðại đức Mahà Moggallàna có vững chắc trong giai đoạn đầu. Ðại đức Mahà Moggallàna có một đức thận trọng vô song, ngài quan niệm như một lần Phật đã thuyết:
“Chỉ một mầm móng vi tế của tội lỗi còn ngấm ngầm trong tâm, Như Lai cũng không khen ngợi. Dù cho hành giả có được pháp Hữu tịnh trong một thời gian nào đó đi nữa mà gốc rễ của tội lỗi vẫn còn thì pháp Hữu tịnh ấy có thể tan biến dễ dàng như một cái búng ngón tay”.
Nhắc đến nghệ thuật huấn đạo của Ðại đức Mahà Moggallàna khác với Ðại đức Sàrìputta như vậy không có nghĩa là nói rằng phương pháp của ngài Mahà Moggallàna tỏ ra chắc chắn hơn phương pháp của Ðại đức Sàrìputta, mà chỉ có thể chứng minh tại sao hai vị đã theo Ðức Phật cùng một lần, mà về sau học trò của Ðại đức Sàrìputta lại nhiều hơn học trò của Ðại đức Maha Moggallàna.
Mặt khác, Chú giải ghi lại những lần Ðại đức Sàrìputta đã dắt dẫn nhiều huynh đệ đạt đến đạo quả A-la-hán không phải là ít.
Chẳng hạn như có một đoạn nói: “Vào lúc ấy có chư Tỳ-kheo trong giai đoạn huấn luyện tâm thức bậc cao (Sekhà) thường đến gần Ðại đức Sàrìputta để nhờ chọn đề mục Thiền định. Trong số đó có Sa-môn Trưởng lão tên Lakuntika Bhaddiya đã đắc được quả A-la-hán nhờ sự hỗ trợ của Ðại đức Sàrìputta”. (Theo Kinh Udana VII-1).
Với những đóng góp như vậy, Ðại đức Sàrì-putta đã có công trong việc phát triển Pháp Bảo rất nhiều. Ngài là một bậc lãnh đạo vĩ đại của Tăng-già, và là một tấm gương sáng trong hàng Tứ chúng. Những bài học mà ngài đã lưu lại cho ta sau này không những chỉ bén nhọn và sáng tỏ, thức tỉnh được tâm tánh của con người mà còn là một sự lợi ích thiết thực, trong đó cái tên Sàrìputta giống như một bàn tay nâng niu, một bóng mát vĩ đại cho những ai ngưỡng mộ muốn bước theo dấu chân của ngài.
Lại nữa, trong Kinh còn ghi nhận những tiểu tiết về cách thưởng thức Pháp bảo của Ðại đức Sàrìputta trước những Sa-môn mà ngài chưa có dịp thân cận. Chẳng hạn như chuyện ngài Punna Mantàniputta, một cao Tăng mà Ðại đức Sàrìputta chỉ nghe danh chứ chưa được làm quen. Khi hay tin Trưởng lão này muốn đến thăm, ngài đã vui vẻ tiếp đón và chăm chú thưởng thức một bài pháp của vị khách Tăng một cách kính phục, khi bài pháp chấm dứt, ngài đã vô cùng khen ngợi 9.
Sự làm chủ được thể xác cũng như đối với những nhu cầu tinh thần của chư Tỳ-kheo dưới sự đảm trách của ngài. Ngài đã không kềm chế họ bằng những lời quở dạy hiền từ, và làm cho họ trở nên quả cảm bởi sự khen ngợi về những cố gắng xứng đáng, hướng dẫn họ trên con đường tiến hóa, cùng chỉ cho họ tất cả những gì mà họ cần làm để xứng đáng là đệ tử của Phật. Những gì ngài nói ra tự ngài đã thực hành được. Ðó là mãnh lực lôi kéo và làm biểu lộ những đức tánh tốt nhất cho các hàng học trò.
Ðại đức Sàrìputta đã hòa hợp những phẩm tánh của một ông thầy hoàn toàn với đức hạnh của một người bạn trọn vẹn. Ngài như một ánh đèn, vừa là một vật dụng hằng ngày, cần thiết của Giáo hội Tăng-già vào thời Ðức Phật.
Vì đã được trọn đủ những đức tánh của một kiếp sống đầy phẩm Thánh của chính mình nên ngài rất tinh tường trong khi nhận thấy giới đức nơi những vị khác. Ngài là chuyên viên để phát triển nó trong những ai đang ngấm ngầm chứa đựng nó. Và trong số những người ca ngợi khi giới đức của một vị nào bộc lộ ra ngoài như một cánh hoa đến kỳ khai nở thì ngài là người đầu tiên làm việc đó. Sự ca ngợi của ngài là một sức mạnh che chở cho đóa hoa tiếp tục nở rộ, chứ không phải gây kinh động cho nó dừng lại ở đó. Ðức tánh hoàn toàn riêng biệt này của ngài không phải vô tình hay giả tạo, mà là một sự hòa hợp súc tích bên trong, về sự tán dương tinh thần với những phẩm tánh tốt nhất và huyền dịu nhất của một Thánh nhơn.
---o0o---


tải về 0.64 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4   5   6   7   8   9   ...   13




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương