Căn cứ Luật Giáo dục ngày 14 tháng 6 năm 2005 và Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giáo dục ngày 25 tháng 11 năm 2009


Tổ chức đào tạo nhân lực ngành GTVT



tải về 1.23 Mb.
trang3/10
Chuyển đổi dữ liệu28.07.2016
Kích1.23 Mb.
#8250
1   2   3   4   5   6   7   8   9   10

2. Tổ chức đào tạo nhân lực ngành GTVT:

2.1. Tổ chức đào tạo nhân lực theo cấp trình độ:

a) Công nhân kỹ thuật các cấp trình độ:

- Kết hợp chặt chẽ với việc đào tạo kiến thức và kỹ năng cơ bản với đào tạo kỹ năng nghề nghiệp. Huy động các chuyên gia làm việc tại các cơ sở sản xuất, kinh doanh tham gia xây dựng chương trình, nội dung, giảng dạy và đánh giá kết quả đào tạo;

- Tổ chức xây dựng 33 bộ tiêu chuẩn kỹ năng nghề ngành GTVT, tham gia xây dựng 17 bộ chương trình khung đào tạo nghề, ban hành nhiều chương trình đào tạo chuyên ngành GTVT; đổi mới và chuẩn hóa nghiên cứu, chương trình đào tạo theo hướng mềm dẻo, nâng cao kỹ năng thực hành, năng lực tự tạo việc làm, năng lực thích ứng với sự biến đổi nhanh chóng của công nghệ và thực tế sản xuất kinh doanh, kết hợp chặt chẽ với việc làm trong xã hội, liên thông với các trình độ đào tạo khác;

- Xây dựng nội dung, chương trình đào tạo nghề trình độ sơ cấp, chương trình ngắn hạn theo hướng tiếp cận với trình độ tiên tiến trong khu vực và trên thế giới, ưu tiên lĩnh vực KH-CN.



b) Trung cấp chuyên nghiệp:

- Xây dựng ban hành danh mục ngành nghề đào tạo, đổi mới và chuẩn hóa nội dung, chương trình đào tạo theo hướng mềm dẻo, nâng cao kỹ năng thực hành, năng lực tự tạo việc làm, năng lực thích ứng với sự biến đổi nhanh chóng của công nghệ và thực tế sản xuất kinh doanh, kết hợp chặt chẽ với nhu cầu xã hội, liên thông với các trình độ đào tạo khác;

- Kết hợp chặt chẽ với việc đào tạo về kiến thức và kỹ năng cơ bản với đào tạo kỹ năng nghề nghiệp. Huy động các chuyên gia làm việc tại các cơ sở sản xuất, kinh doanh tham gia xây dựng chương trình, nội dung, tham gia giảng dạy và đánh giá kết quả đào tạo.

c) Cao đẳng, đại học và sau đại học:

- Công khai cam kết chất lượng giáo dục và chất lượng giáo dục thực tế, trong đó ban hành chuẩn đầu ra tốt nghiệp của các trường đại học, cao đẳng thuộc Bộ GTVT;

- Công khai các điều kiện đảm bảo chất lượng giáo dục, trong đó các thông tin về đội ngũ nhà giáo, cán bộ quản lý giảng dạy và nhân viên; cơ sở vật chất;

- Công khai thu chi tài chính, trong đó có công khai các khoản thu từ người học như học phí, lệ phí tuyển sinh, các nguồn thu của Nhà trường; thu nhập bình quân của cán bộ, giảng viên;

- Tiến hành đổi mới mạnh mẽ chương trình đào tạo theo hướng đa dạng hóa, chuẩn hóa, hiện đại hóa, tạo điều kiện để nhanh chóng tiếp thu có chọn lọc những chương trình đào tạo của các nước phát triển về KH-CN, phù hợp với yêu cầu của đất nước, phục vụ thiết thực cho sự phát triển KH-CN ngành GTVT. Các trường đại học, các ngành nghề đào tạo thuộc các lĩnh vực mũi nhọn của KH-CN phải đi đầu trong việc đổi mới mục tiêu, nội dung, chương trình đào tạo và phương pháp giáo dục. Đảm bảo trong chương trình đào tạo thường xuyên được cập nhật, có đủ giáo trình, tài liệu tham khảo. Theo nhu cầu, các trường đào tạo có thể tổ chức giảng dạy trực tiếp bằng tiếng nước ngoài cho một số chuyên môn đào tạo. Đảm bảo sau quá trình đào tạo, giáo dục sử dụng tốt máy tính để thu thập và xử lý thông tin, ngoại ngữ để làm việc và giao tiếp, nâng cao năng lực hội nhập quốc tế.

- Các trường đã thiết lập được quan hệ quốc tế trong GD-ĐT chuyên ngành, nhờ đó đã tiếp cận và ứng dụng các phương pháp và phương tiện giảng dạy hiện đại, theo kịp sự phát triển khoa học công nghệ thực tiễn.



2.2. Tổ chức đào tạo nhân lực theo các nhóm ngành nghề chính:

a) Các nhóm ngành nghề của công nhân kỹ thuật:

- Xây dựng cơ bản;

- Vận tải xếp dỡ;

- Cơ khí, công nghiệp.



b) Cán bộ chuyên môn nghiệp vụ, cán bộ kỹ thuật và chuyên gia:

Tổ chức đào tạo hoặc phối hợp với các học viện, các trường tổ chức các khóa đào tạo lý luận chính trị, bồi dưỡng kiến thức về quản lý nhà nước, kỹ năng chuyên ngành GTVT, ngoại ngữ.



c) Cán bộ lãnh đạo, quản lý:

Tổ chức đào tạo hoặc phối hợp với các học viện, các trường tổ chức các khóa bồi dưỡng kiến thức về quản lý nhà nước, kỹ năng lãnh đạo, ngoại ngữ, tin học và hội nhập quốc tế WTO.



2.3. Hình thức tổ chức đào tạo:

Nguồn lao động ngành GTVT bao gồm hai mảng chính là công nhân kỹ thuật và cán bộ quản lý, cán bộ chuyên môn nghiệp vụ, cán bộ kỹ thuật, chuyên gia (hay lao động trực tiếp và lao động gián tiếp);

- Đối với công nhân kỹ thuật hình thức đào tạo tại nơi làm việc, tổ chức các lớp cạnh doanh nghiệp hay thông qua các trường chính quy …

- Còn cán bộ chuyên môn có thể tiến hành dưới nhiều hình thức như đào tạo chính quy dài hạn, đào tạo tại chức dài hạn, đào tạo từ xa…

- Theo nơi đào tạo:

+ Đào tạo nội bộ: trong ngành, trong doanh nghiệp;

+ Đào tạo tại các cơ sở đào tạo khác ở trong nước: các cơ sở đào tạo trong và ngoài ngành GTVT;

+ Đào tạo ở nước ngoài.

- Theo phương thức đào tạo:

+ Tại chức, tại chỗ vừa học vừa làm;

+ Tập trung ngắn hạn;

+ Tập trung dài hạn;

+ Đào tạo từ xa.

3. Hiện trạng quản lý nhà nước và cơ chế, chính sách phát triển nhân lực của ngành GTVT:

Tốc độ tăng trưởng kinh tế nói chung và ngành GTVT nói riêng làm cho lưu lượng vận tải tăng nhanh trong thập kỷ vừa qua, cao hơn so với tốc độ tăng trưởng kinh tế (trung bình 7,5% giai đoạn 2000 - 2008). Theo dự báo nền kinh tế thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng có thể tăng gấp ba lần vào năm 2030. Tốc độ tăng trưởng kinh tế nhanh kéo theo nhu cầu vận tải gia tăng. Vận tải hàng hóa và hành khách liên tỉnh sẽ tăng gấp 2,8 - 3,0 lần so với hiện nay.

Các chính sách phát triển nhân lực ngành GTVT hiện nay: các giải pháp cải cách chính sách trong quản lý, trong tổ chức sản xuất, kinh doanh đều tác động rất lớn đến nhu cầu nhân lực của ngành GTVT.

3.1. Chính sách phát triển nguồn nhân lực:

- Mở rộng các hình thức đào tạo, đào tạo lại; xã hội hóa công tác đào tạo để nâng cao trình độ, năng lực cho đội ngũ cán bộ quản lý, công chức, viên chức và người lao động; áp dụng chế độ tuyển dụng công khai thông qua thi tuyển, thử việc trong lĩnh vực phát triển nhân lực cho ngành GTVT.

- Chính sách tiền lương và các chế độ ưu đãi đối với người lao động trong điều kiện lao động đặc thù của ngành giao thông vận tải, đặc biệt là công tác bảo trì kết cấu hạ tầng giao thông ở các vùng sâu, vùng xa, lao động nặng nhọc, nguy hiểm …

- Chính sách đầu tư tập trung nâng cao năng lực và trang thiết bị cho các cơ sở đào tạo, huấn luyện, đặc biệt là đào tạo phi công, sĩ quan, thuyền viên để nâng cao trình độ nguồn nhân lực. Tăng cường sự phối hợp và gắn kết giữa các công ty sử dụng nguồn nhân lực với các cơ sở đào tạo, huấn luyện để đảm bảo đáp ứng nhu cầu thực tế và sử dụng có hiệu quả nguồn nhân lực đã được đào tạo.

- Chính sách phát triển GD-ĐT, nâng cao chất lượng đào tạo là vấn đề hàng đầu có ý nghĩa quyết định trình độ nguồn nhân lực chất lượng cao. Trong số các nguồn thực cần thiết cho sự phát triển KTXH thì nguồn nhân lực chất lượng cao là yếu tố quyết định. Tuy nhiên, vai trò quyết định của nguồn nhân lực chất lượng cao chỉ trở thành hiện thực khi người lao động được đào tạo để có năng lực và phẩm chất cần thiết đáp ứng được những yêu cầu mà quá trình phát triển kinh tế - xã hội đặt ra hiện nay và cả tương lai. Nghị quyết Đại hội lần thứ X của Đảng đã nhấn mạnh “Đổi mới toàn diện hệ thống giáo dục và đào tạo”.

- Chính sách phát triển vận tải: khuyến khích mọi thành phần kinh tế tham gia kinh doanh vận tải, dịch vụ hỗ trợ vận tải; hỗ trợ cho các doanh nghiệp vận tải hành khách công cộng và vận tải phục vụ vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn và khó khăn.

- Chính sách tạo vốn phát triển kết cấu hạ tầng giao thông: đã tăng mức đầu tư cho kết cấu hạ tầng giao thông bằng ngân sách nhà nước hàng năm đạt 3,5 ÷ 4,5% GDP.

- Đổi mới về chất lượng và chủng loại phương tiện phù hợp với nhu cầu vận tải hàng hóa, hành khách trên các tuyến vận tải và điều kiện kết cấu hạ tầng giao thông, tăng cường công tác quản lý, kiểm tra định kỳ chất lượng phương tiện và chất lượng phục vụ vận tải, đặc biệt là đối với vận tải hành khách. Phát triển các tổ chức, hiệp hội bảo vệ quyền lợi khách hàng.



3.2. Chính sách phát triển công nghiệp GTVT:

- Khuyến khích và tạo mọi điều kiện để các doanh nghiệp công nghiệp GTVT mở rộng liên doanh, liên kết trong và ngoài nước để huy động vốn, chuyển giao công nghệ, trao đổi kinh nghiệm trong quản lý, điều hành và thực hiện lộ trình nội địa hóa;

- Thành lập các công ty thuê mua tài chính có sự bảo lãnh của Nhà nước để tạo điều kiện cho doanh nghiệp tiếp cận, sử dụng các nguồn tài chính, công nghệ, phương tiện kỹ thuật mới.

3.3. Chính sách về hội nhập và cạnh tranh quốc tế:

- Chú trọng phát triển đồng bộ kết cấu hạ tầng giao thông đối ngoại và phương tiện vận tải, thiết bị xếp dỡ phù hợp với tiêu chuẩn kỹ thuật của các nước trong khu vực và thế giới. Ưu tiên vốn và nguồn lực để phát triển đội tàu biển, tàu bay hiện đại đồng thời nâng cao chất lượng tiêu chuẩn dịch vụ để đảm bảo sức cạnh tranh quốc tế.

- Tiếp tục sửa đổi, bổ sung hệ thống pháp luật, thể chế chính sách cho phù hợp với các quy định của Tổ chức thương mại thế giới và các tổ chức hợp tác quốc tế khác mà Việt Nam là thành viên.

3.4. Chính sách đổi mới tổ chức quản lý, cải cách hành chính:

- Đã sắp xếp lại các đơn vị quản lý theo mô hình chức năng, phân định rõ chức năng quản lý nhà nước của cơ quan nhà nước với quản lý sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Phát triển mô hình tập đoàn kinh tế trong lĩnh vực giao thông vận tải.

- Đổi mới quản lý hành chính trong lĩnh vực giao thông vận tải bằng phương pháp ứng dụng tin học và tiêu chuẩn quốc tế (ISO), tăng cường xây dựng và quản lý quy hoạch giao thông vận tải.

3.5. Chính sách áp dụng khoa học - công nghệ mới:

- Xây dựng và hoàn thiện các tiêu chuẩn, quy chuẩn, quy trình quy phạm … trong những lĩnh vực khảo sát, thiết kế, thi công, nghiệm thu, bảo trì, vật liệu, công nghệ được sử dụng trong ngành GTVT. Khuyến khích áp dụng công nghệ mới, vật liệu mới;

- Hiện đại hóa phương tiện vận tải, thiết bị xếp dỡ; áp dụng các công nghệ vận tải tiên tiến, đặc biệt là vận tải đa phương thức và Logistics;

- Áp dụng công nghệ thông tin vào quản lý, điều hành và khai thác;

- Tăng cường nâng cao năng lực các Viện nghiên cứu, các Trung tâm thí nghiệm, thử nghiệm trong ngành GTVT;

- KH-CN ngày càng phát triển, việc áp dụng KH-CN tiên tiến vào ngành đòi hỏi lao động trong nước ngành nghề mới, kiến thức và trình độ kỹ thuật lao động cao hơn, thay đổi cơ cấu lao động theo trình độ nghề và kỹ năng lao động;

- Mức độ phát triển của thị trường lao động và thị trường đào tạo. Khả năng cung ứng lao động từ nguồn nhân lực tại chỗ;

- Hợp tác quốc tế: đã tăng giá trị hàng hóa và dịch vụ xuất khẩu; đầu tư ra nước ngoài; tham gia vào chuỗi giá trị gia tăng và cung ứng toàn cầu.



4. Đánh giá chung về phát triển nguồn nhân lực trong thời gian qua:

4.1. Những mặt được và thuận lợi:

- Với bề dày truyền thống từ nhiều năm nay, cùng với sự góp sức của các cơ sở đào tạo thuộc các Bộ, ngành, địa phương trong cả nước, các cơ sở đào tạo GTVT đã đào tạo được một lực lượng lớn nguồn nhân lực cho ngành, cơ bản đã đáp ứng được nhu cầu về số lượng nhân lực, đóng góp phần không nhỏ trong việc hoàn thành nhiệm vụ chính trị của ngành.

- Cơ cấu các ngành, nghề đào tạo đã từng bước được cải thiện, đáp ứng sự phát triển của ngành. Các cơ sở đào tạo từ trình độ tiến sĩ, thạc sĩ, đại học, cao đẳng, TCCN, dạy nghề, bồi dưỡng ngắn hạn, đào tạo lao động nông thôn trước mắt đáp ứng được phần lớn nhu cầu sử dụng lao động của toàn ngành và nhu cầu học tập của cán bộ, nhân dân.

- Quy mô đào tạo tăng nhanh theo nhu cầu sử dụng nhân lực của ngành và nhu cầu học tập của xã hội. Hệ thống đào tạo nhân lực GTVT của các cơ sở ngoài Bộ GTVT phát triển mạnh và được phân bố ở hầu hết các vùng lãnh thổ. Công tác xã hội hóa đào tạo bước đầu được thực hiện, nhiều tổ chức, hội, hiệp hội, doanh nghiệp cũng tham gia đào tạo, thu hút khá đông học viên.

- Hình thức đào tạo đa dạng, bao gồm đào tạo chính quy, không chính quy, liên thông, liên kết, đào tạo theo địa chỉ, đào tạo dài hạn, ngắn hạn, trong trường, ngoài trường …

- Năng lực và chất lượng đào tạo của các cơ sở thuộc Bộ được nâng cao đáng kể: số lượng, trình độ của đội ngũ cán bộ, giáo viên ngày càng tăng, cơ bản đáp ứng yêu cầu đào tạo hiện tại. Cơ sở hạ tầng được xây dựng khang trang, trang thiết bị phục vụ đào tạo được cải thiện đáng kể. Chương trình, giáo trình, giáo án, tài liệu giảng dạy cơ bản đầy đủ. Phương pháp giảng dạy bước đầu được đổi mới theo hướng hiện đại; công tác quản lý, phục vụ phù hợp với cơ chế quản lý mới. Chất lượng đào tạo có chuyển biến nhất là về giảng dạy thực hành.

- Đối với các cơ sở ngoài Bộ, đã có một số trường đại học có thương hiệu và uy tín cao như các trường Đại học: Bách khoa Hà Nội, Bách khoa Hồ Chí Minh, GTVT Hà Nội, Xây dựng Hà Nội … đã và đang trở thành trung tâm đào tạo, nghiên cứu khoa học của vùng. Số còn lại cơ bản đáp ứng được nhu cầu đào tạo hiện tại trong vùng.

- Đời sống, điều kiện làm việc, nhu cầu học tập nâng cao trình độ và giao lưu của cán bộ, giáo viên được nâng cao; điều kiện sinh hoạt của học sinh, sinh viên nội trú được cải thiện.

- Khối Viện tích cực chủ động hơn trong nhiệm vụ đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực, khối trường đang có chuyển biến trong công tác nghiên cứu khoa học.

- Một số cơ sở đào tạo của ngành đã nhận được sự hỗ trợ đáng kể của các tổ chức quốc tế trong đào tạo giảng viên, biên soạn tài liệu cũng như kinh phí đầu tư nâng cấp cơ sở vật chất cho đào tạo.



4.2. Những mặt chưa được:

- Chất lượng đào tạo đã được cải thiện, nhân lực qua đào tạo đã thích ứng với phương thức sản xuất tư nhân và nền kinh tế thị trường. Tuy nhiên, vẫn còn thấp so với mặt bằng trong khu vực và quốc tế do thiếu chuyên gia giỏi đầu đàn, tài chính và đầu tư thấp, cơ sở vật chất, trang thiết bị, năng lực phát triển chương trình đào tạo đáp ứng nhu cầu xã hội còn hạn chế…

- Trang thiết bị phục vụ giảng dạy của hầu hết các trường, viện còn thiếu, cũ, lạc hậu, không đồng bộ, hiệu quả sử dụng chưa cao, chưa đạt mặt bằng chung của các nước trong khu vực, trong khi nhu cầu người học lớn, nên không tránh khỏi tình trạng đào tạo tăng nhanh về số lượng, nhưng chất lượng chưa được nâng tầm tương xứng. Diện tích mặt bằng của nhiều trường (các trường ngoài Bộ) chưa đủ cho nhu cầu đào tạo hiện tại và cho phát triển.

- Cơ cấu cán bộ, giảng viên, giáo viên của các trường nhìn chung còn cứng và chưa hợp lý; trình độ, năng lực còn chưa theo kịp nhu cầu phát triển của ngành và của thực tiễn sản xuất và chưa được quan tâm đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ thường xuyên.

- Nội dung đào tạo một số chuyên ngành chưa được chuẩn hóa, thống nhất, ít đổi mới, chưa thiết thực và sát thực tế, còn nặng về lý thuyết, nhẹ thực hành; các trường chưa kịp thời mở các ngành, nghề xã hội đang có nhu cầu; như khai thác đường thủy nội địa …, học sinh tốt nghiệp chưa đáp ứng ngay yêu cầu của các doanh nghiệp (mà chủ yếu là các doanh nghiệp tư nhân và lao động cá thể).

- Quy mô đào tạo tăng nhưng mất cân đối nghiêm trọng: quy mô đào tạo một số ngành nghề (chủ yếu thuộc lĩnh vực kinh tế, tài chính) tăng mạnh, trong khi một số ngành nghề chuyên môn kỹ thuật (thuộc khối cơ khí) lại rất khó tuyển sinh do tính hấp dẫn thấp đối với người học (thậm chí có ngành, nghề nhiều năm không tổ chức đào tạo được).

- Mất cân đối về bậc đào tạo: các trường đào tạo sau đại học chủ yếu trình độ thạc sỹ, trình độ tiến sỹ còn ít.

- Mất cân đối về ngành, nghề đào tạo:

+ Các cơ sở đào tạo đại học (không thuộc Bộ) chủ yếu đào tạo một số ngành nghề GTVT theo nhu cầu tức thời của người học. Bộ GTVT chưa chủ động được nguồn nhân lực các ngành, nghề theo yêu cầu phát triển của ngành;

+ Tổ chức đào tạo cán bộ các ngành, nghề trong các trường thuộc Bộ cũng còn bất cập. Một số ngành, nghề trong thời gian hàng chục năm trở lại đây không thu hút được người học, như nghề khai thác vận tải đường thủy nội địa, dẫn đến khả năng thiếu hụt lực lượng kỹ thuật viên, lao động cho các lĩnh vực trên. Một số trường còn tuyển sinh đào tạo một số ngành, nghề ít liên quan đến GTVT để đủ chỉ tiêu được giao hàng năm và đáp ứng nhu cầu của người học (ví dụ: kế toán, tài chính, ngân hàng, … học viên học các ngành, nghề này khi tốt nghiệp thường ít làm việc cho Ngành). Chính phủ, Bộ GTVT cũng chưa có chính sách thu hút học sinh học các ngành, nghề lao động nặng nhọc để cung cấp lao động được đào tạo cho nhu cầu phát triển ngành;

+ Một số lĩnh vực quan trọng của ngành có nhu cầu nhân lực lớn, các trường đã nhạy bén phát triển chương trình đào tạo để đáp ứng nhu cầu của người lao động.

- Mất cân đối về quy mô đào tạo giữa các vùng lãnh thổ:

+ Hiện nay, một số vùng ở khu vực phía Bắc và Nam quy mô đào tạo tương đối lớn so với miền Trung. Số lượng cơ sở đào tạo nguồn nhân lực GTVT còn ít và phân bố chưa hợp lý;

+ Mạng lưới trường đào tạo nguồn nhân lực ngành GTVT trên cả nước còn mỏng, phân bố chưa hợp lý trên các vùng lãnh thổ mà tập trung chủ yếu ở một số thành phố và vùng phụ cận như Hà Nội, Hải Phòng, Đà Nẵng, thành phố Hồ Chí Minh, trong khi tại các vùng: Miền Núi, Trung du Bắc bộ, Bắc Trung Bộ, Nam Trung bộ, Tây Nguyên, Đông Nam bộ và nhất là tại vùng đồng bằng sông Cửu Long số lượng trường còn ít;

+ Khó phát triển hoạt động hợp tác quốc tế và nghiên cứu khoa học, chuyển giao công nghệ, sản xuất dịch vụ do thiếu chuyên gia giỏi và tài chính để đầu tư;

+ Việc đào tạo, bồi dưỡng gắn với công tác quy hoạch cán bộ của các đơn vị trong ngành tiến hành chưa đồng bộ. Đào tạo, bồi dưỡng kỹ năng quản lý, điều hành trước khi bổ nhiệm theo quy hoạch còn hạn chế;

+ Công tác hợp tác quốc tế về đào tạo sau đại học tuy được đặt ra song chưa được đẩy mạnh, chưa có giải pháp chung cho tất cả các cơ sở mà dựa chủ yếu vào điều kiện và sự tích cực chú trọng của các đơn vị. Muốn hội nhập một cách đích thực, đội ngũ những người có trình độ cao về khoa học công nghệ, quản lý mà trước hết là đội ngũ thạc sỹ, tiến sỹ do chính cơ sở đào tạo ra phải đủ trình độ tham gia có hiệu quả trong các tổ chức khoa học, đào tạo ở khu vực và quốc tế.

III. ĐÁNH GIÁ TỔNG QUAN NHỮNG ĐIỂM MẠNH, ĐIỂM YẾU, THÁCH THỨC VÀ CƠ HỘI VỚI PHÁT TRIỂN NHÂN LỰC CỦA NGÀNH GTVT



1. Những điểm mạnh:

- Được sự quan tâm của các cấp lãnh đạo từ Trung ương đến địa phương đối với việc nâng cao trình độ đội ngũ lao động ngành GTVT, nhiều chính sách hỗ trợ phát triển nguồn nhân lực đã và đang được xây dựng nhằm từng bước nâng cao chất lượng nhân lực.

- Nguồn nhân lực CNKT ngành GTVT có độ tuổi trung bình trẻ, thuận lợi để đào tạo, bồi dưỡng nhằm nâng cao trình độ để nắm bắt kịp sự thay đổi và phát triển KH-CN của ngành GTVT.

- Hầu hết đội ngũ cán bộ đều có tinh thần trách nhiệm với ngành, gắn bó, phục vụ lâu dài vì sự phát triển của ngành, có ý chí tự học tập nâng cao trình độ chuyên môn.

- Sau một thời gian dài đào tạo theo trình độ năng lực hiện có, các cơ sở đào tạo ở các cấp bậc đã chú trọng đến việc đào tạo nhân lực theo nhu cầu xã hội. Nhiều trường đã xây dựng chiến lược phát triển, gắn đào tạo các ngành nghề với xu hướng phát triển các ngành nghề, lĩnh vực chuyên môn. Các trường đã mở rộng quy mô, đa dạng hóa các loại hình đào tạo, tăng cường đào tạo kỹ năng thực hành thay vì đào tạo kiến thức hàn lâm. Nhiều chương trình đào tạo đã theo kịp sự phát triển ngành, đội ngũ giảng viên, giáo viên được nâng cao trình độ, các trang thiết bị phục vụ đào tạo đã được đổi mới đáp ứng yêu cầu học tập, nghiên cứu và giảng dạy, tiếp cận công nghệ tiên tiến trên thế giới.

2. Những điểm yếu:

- Tỷ lệ nhân lực ngành GTVT được đào tạo về chuyên môn có điều kiện được tiếp cận với trình độ quản lý, trình độ chuyên môn tiên tiến trên thế giới còn thấp.

- Cơ cấu đội ngũ cán bộ chưa phù hợp: số cán bộ, công chức được đào tạo về kỹ thuật nhiều hơn số cán bộ, công chức được đào tạo về nghiệp vụ quản lý. Số cán bộ, công chức có chuyên ngành đào tạo phù hợp với vị trí công tác không nhiều, tỷ lệ cán bộ trẻ còn thấp.

- Trình độ đội ngũ cán bộ, công chức chưa đồng đều giữa Trung ương và địa phương, không đồng đều giữa các địa phương; một số chưa đáp ứng yêu cầu của công tác quản lý, cần được đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn.

- Nhiệm vụ của ngành GTVT trong giai đoạn trước mắt còn nặng nề, khối lượng công việc rất lớn, do đó việc bố trí thời gian để cán bộ tham gia các khóa đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ còn hạn chế.

3. Cơ hội:

- Đảng và Chính phủ đã có nhiều chủ trương lớn về đào tạo, phát triển nhân lực của cả nước, đây là cơ hội tốt để ngành GTVT thể chế hóa các chủ trương thành chương trình, hoạt động cụ thể nhằm phát triển nhân lực của ngành.

- Quá trình hội nhập ngày càng sâu rộng vào quốc tế là cơ hội tốt để nhân lực của ngành GTVT có điều kiện phát triển, tiếp cận với trình độ quản lý, chuyên môn cao trên thế giới.

4. Thách thức:

- Chiến lược lâu dài về phát triển nhân lực ngành GTVT chưa có.

- Quy hoạch phát triển các cơ sở đào tạo nguồn nhân lực cho ngành GTVT chưa được phê duyệt.

- Sự cạnh tranh về cung cấp các dịch vụ công, về nhân lực trong nước và nước ngoài ngày càng tăng tạo sức ép trong việc nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ ngành.

- Nhu cầu đội ngũ cán bộ KHKT, cán bộ quản lý có trình độ đáp ứng yêu cầu đổi mới công nghệ, đổi mới cơ chế quản lý ngày càng tăng. Trong khi đó một số cán bộ công nhân kỹ thuật và quản lý đã được đào tạo vẫn chưa theo kịp phương pháp quản lý tiên tiến, gặp nhiều khó khăn khi thực hiện nhiệm vụ, chức trách được giao.

- Nguồn lao động thiếu chuyên gia đầu ngành, cán bộ kỹ thuật và quản lý giỏi, công nhân có tay nghề cao, đặc biệt là ở vùng cao, vùng sâu.

- Cơ chế và chính sách đào tạo chưa được thay đổi đáng kể, chế độ đãi ngộ cụ thể chưa đổi mới. Định mức đào tạo quá thấp, không đủ chi phí đảm bảo mục tiêu chất lượng.

- Sự phát triển mạnh mẽ của cuộc cách mạng KH-CN trên thế giới có thể làm cho khoảng cách kinh tế và tri thức giữa Việt Nam và các nước ngày càng lớn hơn, nước ta có nguy cơ bị tụt hậu xa hơn. Hội nhập quốc tế không chỉ tạo ra cơ hội phát triển mà còn chứa đựng nhiều hiểm họa, đặc biệt là nguy cơ xâm nhập của những giá trị văn hóa và lối sống xa lạ làm xói mòn bản sắc dân tộc.

- Sự phân hóa trong xã hội có chiều hướng gia tăng. Khoảng cách giàu nghèo giữa các nhóm dân cư, các ngành kinh tế, khoảng cách giữa các vùng miền ngày càng rõ rệt. Điều này có thể làm tăng thêm tình trạng bất bình đẳng trong sử dụng lao động tạo nên sự cạnh tranh gay gắt trong sử dụng lao động giữa các ngành kinh tế, giữa các đơn vị sử dụng lao động. Chưa có chiến lược lâu dài và kế hoạch cụ thể cho việc phát triển nhân lực ngành GTVT, nhiều chính sách và quyết định thực thi chưa nhất quán.

- Có hiệu tượng chảy máu chất xám (từ khối quản lý nhà nước sang liên doanh, từ trong nước ra nước ngoài) trong khi chưa thu hút được nhiều trí thức Việt Nam ở nước ngoài về làm việc lâu dài trong nước.

Phần thứ hai.

PHƯƠNG HƯỚNG PHÁT TRIỂN NHÂN LỰC GIAI ĐOẠN 2011-2020

I. NHỮNG NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN PHÁT TRIỂN NHÂN LỰC NGÀNH GIAO THÔNG VẬN TẢI GIAI ĐOẠN 2011-2020:

1. Những nhân tố bên ngoài:

- Trong xu thế hội nhập với quốc tế của nước ta hiện nay, nguồn nhân lực ngành GTVT có điều kiện được tiếp cận với trình độ tiên tiến của thế giới, thông qua các chương trình hợp tác đào tạo, tập huấn ở các nước phát triển, nguồn nhân lực có điều kiện phát triển nhanh cả về số lượng và chất lượng.

- Trong giai đoạn từ năm 2011 - 2020 nhu cầu phát triển nhân lực của ngành GTVT sẽ vẫn tiếp tục tăng về số lượng và chất lượng để đáp ứng quy mô phát triển của ngành, và sang giai đoạn sau năm 2020 do sự phát triển của khoa học công nghệ đòi hỏi tăng về chất lượng nguồn nhân lực hơn nữa. Cùng với sự tăng trưởng của dòng vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam thì cần phải chú trọng đến việc phát triển nhân lực chất lượng cao và đó là nhân tố quyết định sự phát triển bền vững và khả năng cạnh tranh thành công của toàn ngành GTVT Việt Nam trong quá trình hội nhập ngày càng sâu rộng và sự nghiệp CNH-HĐH đất nước.



tải về 1.23 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4   5   6   7   8   9   10




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương