Chương TỔng quan về kinh tế VI mô Mục tiêu


Tính thay thế của hàng hóa



tải về 1.05 Mb.
trang4/12
Chuyển đổi dữ liệu04.08.2016
Kích1.05 Mb.
#12631
1   2   3   4   5   6   7   8   9   ...   12

Nguồn: Begg (1994)

  Tính thay thế của hàng hóa: Một hàng hóa càng dễ bị thay thế bởi (những) hàng hóa khác sẽ có hệ số co giãn càng cao. Khi một hàng hóa có nhiều hàng hóa thay thế cho nó, giá của nó tăng sẽ khiến cho người tiêu dùng sẵn sàng thay thế hàng hóa này bằng các hàng hóa khác, làm cho lượng cầu của hàng hóa có giá tăng sẽ giảm đáng kể. Vì vậy, hệ số co giãn của hàng hóa dễ thay thế sẽ cao và ngược lại.



Nếu chúng ta xem xét quần áo nói chung, khi giá của quần áo tăng lên 1%, người tiêu dùng khó lòng thay thế quần áo bằng một mặt hàng khác. Do vậy, cầu của quần áo nói chung rất kém co giãn. Nhưng nếu chúng ta xem xét sự tăng giá của một nhãn hiệu quần áo cụ thể (chẳng hạn quần áo Việt Tiến), người tiêu dùng dễ dàng chuyển sang sử dụng những nhãn hiệu quần áo khác. Thí dụ này cho thấy chúng ta càng định nghĩa cụ thể hàng hóa chừng nào, thì độ co giãn của cầu theo giá của hàng hóa đó sẽ cao chừng nấy.

Mức độ thiết yếu của hàng hóa: Tùy theo tính thiết yếu, các hàng hóa, dịch vụ được phân thành hai loại:

Hàng hóa thiết yếu: Hàng hóa thiết yếu là các loại hàng hóa quan trọng, cần thiết cho đời sống. Đối với các loại hàng hóa này, lượng cầu của người tiêu dùng rất ít thay đổi khi giá tăng hay giảm. Vì vậy, cầu đối với chúng rất kém co giãn. Thí dụ, gạo, xăng dầu, hàng lương thực thực phẩm, v.v. là những mặt hàng thiết yếu, vì vậy, cầu đối với những mặt hàng này thường kém co giãn.

Hàng hóa xa xỉ: Hàng hóa xa xỉ là những loại hàng hóa không cần thiết lắm đối với đời sống, có nghĩa là người tiêu dùng dễ dàng từ bỏ chúng khi giá của chúng tăng hay tiêu dùng chúng nhiều hơn khi giá giảm. Lượng cầu của những mặt hàng này rất nhạy cảm đối với giá nên cầu rất co giãn. Thí dụ, mỹ phẩm, nữ trang, nước hoa, du lịch nước ngoài, v.v. thường được xem là những hàng hóa hay dịch vụ xa xỉ; những hàng hóa, dịch vụ này thường có độ co giãn cao.

Mức chi tiêu cho sản phẩm này trong tổng số chi tiêu: Mặt hàng có mức chi tiêu cho nó càng nhỏ trong tổng chi tiêu sẽ càng kém co giãn. Chẳng hạn như mặt hàng kem đánh răng thường chiếm tỷ trọng rất nhỏ trong tổng chi tiêu của gia đình nên khi giá của nó tăng lên từ 5.000 đồng/ống lên 6.000 đồng/ống, chẳng hạn, tức là tăng 20%, thì lượng cầu đối với nó của mỗi gia đình hầu như rất ít thay đổi bởi vì sự tăng giá này hầu như ảnh hưởng không lớn đến tổng thu nhập của hộ gia đình. Ngược lại, đối với những mặt hàng có mức chi tiêu cao, một sự thay đổi nhỏ trong giá có thể tác động nhiều đến tổng thu nhập của hộ gia đình nên hộ gia đình sẽ có sự điều chỉnh lớn lượng cầu khi có sự thay đổi của giá.

Vị trí của điểm tiêu thụ trên đường cầu (hệ số co giãn điểm): Theo công thức tính hệ số co giãn, hệ số co giãn của cầu theo giá là sự thay đổi của lượng cầu tương ứng với sự thay đổi giá  nhân với . Khi đi dọc theo đường cầu xuống phía dưới thì  có thể không thay đổi nhưng giá và lượng cầu luôn thay đổi. Do vậy, độ co giãn của cầu theo giá phải được tính tại một điểm cụ thể trên đường cầu và hệ số này sẽ thay đổi dọc theo đường cầu.

Với phương trình đường cầu:

 Q = a + bP, với b < 0.

Như thế:

                                

Hình 2.10. Hệ số co giãn điểm

Tính thời gian. Người tiêu dùng có xu hướng điều chỉnh tiêu dùng khi có sự thay đổi của giá theo thời gian, đặc biệt là việc tìm ra những sản phẩm thay thế. Vì vậy, qua một thời gian dài hầu hết các sản phẩm sẽ có độ co giãn cao hơn. Thí dụ, cầu đối với xăng trong dài hạn co giãn hơn trong ngắn hạn. Việc giá xăng đột ngột tăng lên làm giảm lượng cầu về xăng trong ngắn hạn thông qua việc giảm lượng đi lại bằng xe gắn máy và giảm việc sử dụng máy móc, nhưng tác động lớn nhất của sự tăng giá này đối với cầu là nó khiến cho người tiêu dùng chuyển sang sử dụng các loại xe, máy móc ít tốn xăng. Nhưng việc chuyển đổi xảy ra dần dần và cần có thời gian.

Tuy nhiên, một số hàng hóa thì hoàn toàn ngược lại: cầu trong ngắn hạn lại co giãn hơn trong dài hạn. Đó là loại hàng lâu bền như: ô-tô, xe gắn máy, tủ lạnh, tivi, v.v. Nếu giá tăng người tiêu dùng ban đầu trì hoãn việc mua mới, vì vậy cầu giảm mạnh. Tuy nhiên trong dài hạn, những hàng hóa này bắt đầu cũ, khấu hao dần và cần phải được thay thế, nên cầu lại tăng lên. Vì vậy, cầu trong dài hạn ít co giãn hơn trong ngắn hạn.



Bảng 2.6. Hệ số co giãn của ô tô và xăng dầu tại Mỹ từ năm 1974

Độ co giãn của cầu theo giá

Giá của xăng và ô tô tính theo các năm khác nhau ở Mỹ từ 1974

1

2

3

5

10

20

Xăng

-0,11

-0,22

-0,32

-0,49

-0,82

-1,17

Ô tô

3,00

2,33

1,88

1,38

1,02

1,00

Nguồn: Pindyck (1999)

6.1.3. Sự co giãn của cầu và hình dạng của đường cầu

Trong phần này, chúng tôi giới thiệu mối quan hệ giữa hình dạng của đường cầu và hệ số co giãn. Hệ số co giãn của cầu đo lường mức độ thay đổi của lượng cầu khi giá thay đổi. Vì thế, hình dạng của đường cầu có liên quan chặt chẽ với hệ số co giãn.

Hình 2.11 mô tả hình dạng các đường cầu ứng với hệ số co giãn của chúng.

Trong Hình 2.11a, cầu kém co giãn, với một đường cầu rất dốc, một sự thay đổi lớn trong giá dẫn đến một sự thay đổi rất nhỏ trong lượng cầu.

Trong trường hợp đặc biệt cầu hoàn toàn không co giãn, lượng cầu hoàn toàn không thay đổi khi giá thay đổi. Khi đó, đường cầu sẽ thẳng đứng (Hình 2.11b).

            Ngược lại, một hàng hóa, dịch vụ có cầu co giãn cao sẽ có đường cầu phẳng hơn. Một sự thay đổi nhỏ của giá sẽ dãn đến một sự thay đổi lớn trong lượng cầu (Hình 2.11c).

Trường hợp cầu hoàn toàn co giãn, đường cầu có dạng nằm ngang. Hình 2.11d cho thấy người tiêu dùng chỉ chấp nhận mức giá P1.  





Hình 2.11. Hình dạng của các đường cầu

6.1.4. Ứng dụng của hệ số co giãn của cầu theo giá - Mối quan hệ giữa doanh thu và giá

Một ứng dụng quan trọng của hệ số co giãn của cầu theo giá là hệ số này giúp doanh nghiệp lập chiến lược giá phù hợp để có thể nâng cao doanh thu. Giả sử ta không xem xét đến các yếu tố khác với giá, một câu hỏi được đặt ra là muốn tăng doanh thu bán hàng thì một doanh nghiệp nào đó nên tăng hay giảm giá bán sản phẩm mình sản xuất ra (giả sử là doanh nghiệp có thể làm được điều này).

Như chúng ta đã biết, khi người bán tăng giá bán đối với một loại hàng hóa nào đó thì lượng cầu đối với hàng hóa này sẽ giảm, do vậy, lượng bán ra sẽ giảm. Việc tăng giá bán sẽ làm cho doanh thu tăng nhưng đồng thời việc giảm lượng bán ra sẽ làm giảm doanh thu. Ngược lại, nếu người bán giảm giá, thì lượng bán ra có thể tăng. Khi đó, doanh thu sẽ giảm đi do giá giảm nhưng mặt khác doanh thu tăng lên do lượng bán ra tăng. Trong hai trường hợp trên, chúng ta khó xác định được chính xác liệu rằng doanh thu từ việc bán hàng có tăng hay không. Hệ số co giãn sẽ giúp chúng ta trả lời câu hỏi này.

Như ta đã biết, doanh thu (TR) đối với một sản phẩm nào đó bằng với đơn giá nhân với số lượng bán ra. Như thế:

TR = P.Q

Ngoài ra, ta cũng biết là cầu là hàm số của giá cả hay ta có thể viết như sau:

  TR = P.Q(P)

  Lấy đạo hàm của doanh thu theo giá (P), ta sẽ được:

 

  

Từ biểu thức này, ta có các nhận xét như sau:

1. Nếu  (hay là cầu co giãn nhiều) thì  vì Q > 0. Khi đó, doanh thu và giá nghịch biến: giá bán tăng lên thì doanh thu sẽ giảm và ngược lại.

2. Nếu  (hay là cầu co giãn đơn vị) thì  vì Q > 0. Khi đó, doanh thu không thay đổi khi giá cả thay đổi.

3. Nếu  (hay là cầu co giãn ít) thì  vì Q > 0. Khi đó, doanh thu và giá đồng biến nên doanh thu tăng khi giá cả tăng.

            Các phân tích trên được minh họa bởi hình 2.12 dưới đây. Ở hình này, chúng tôi giả sử giá thị trường thay đổi do sự thay đổi của cung (trong khi cầu là không đổi). Như chúng ta đã biết ở các phần trước, khi cung tăng lên (nghĩa là đường cung dịch chuyển sang phải) trong khi cầu không đổi (đường cầu không thay đổi) thì giá thị trường sẽ giảm đi. Ngược lại, khi cung giảm đi và cầu không đổi thì giá thị trường sẽ tăng lên.

Trong hình 2.12a, với đường cung S và đường cầu D, điểm cân bằng là E. Người bán bán ra số lượng là Q0 với giá P0, nên doanh thu là diện tích hình chữ nhật (OP0EQ0). Khi giảm cung, đường cung dịch chuyển đến S’, giá tăng lên thành P1, số lượng bán ra giảm còn Q1. Doanh thu lúc này sẽ là diện tích (OP1EQ1). So với doanh thu ban đầu, doanh thu sau khi tăng giá bị mất đi một khoản bằng diện tích được đánh dấu trừ (-), nhưng tăng thêm phần được được đánh dấu cộng (+). Do cầu kém co giãn, doanh thu tăng lên do giá tăng sẽ lớn hơn so với doanh thu giảm đi do số lượng giảm đi. Vì thế, doanh thu tăng lên.





Hình 2.12. Ảnh hưởng của sự thay đổi giá đến doanh thu

Ngược lại, đối với mặt hàng có cầu co giãn, việc giảm giá sẽ làm tăng doanh thu cho những người bán (hình 2.12b) bởi vì số doanh thu tăng lên do lượng cầu tăng lớn hơn số doanh thu giảm đi do giá giảm.

Ta có bảng tóm tắt kết quả phân tích trên như sau:


Hệ số co giãn

Tính  chất

co giãn

Định nghĩa

Xu hướng tác động

của giá đến doanh thu

hay



Co giãn nhiều

% thay đổi trong lượng cầu lớn hơn % thay đổi trong giá

Giá giảm làm doanh thu tăng và ngược lại

hay



Co giãn đơn vị

% thay đổi trong lượng cầu bằng % thay đổi trong giá

Doanh thu không đổi khi giá giảm

hay



Co giãn ít

% thay đổi trong lượng cầu nhỏ hơn % thay đổi trong giá

Giá giảm làm doanh thu giảm và ngược lại

Mối quan hệ giữa doanh thu và giá cũng có thể biểu diễn trên đồ thị:



Hình 2.13. Mối quan hệ giữa doanh thu và giá

6.2. Hệ số co giãn chéo của cầu

Nếu các yếu tố khác không đổi, giá cả của mặt hàng có liên quan (thay thế hay bổ sung) thay đổi sẽ làm thay đổi lượng cầu đối với hàng hóa đang xem xét. Trong phần này, chúng ta nghiên cứu hệ số co giãn của cầu đối với hàng hóa nào đó theo giá của hàng hóa có liên quan. Hệ số này được gọi là hệ số co giãn chéo.

Nếu X và Y là hai mặt hàng đang xem xét. Hệ số co giãn chéo của 2 mặt hàng X và Y là mối quan hệ so sánh giữa % thay đổi của lượng cầu về hàng hoá X trước % thay đổi của giá hàng hoá Y (các yếu tố khác không đổi).

Công thức tính hệ số co giãn chéo như sau:  



- < 0: X và Y là hai hàng hoá bổ sung. Ví dụ: Máy tính và phần mềm là hai hàng hoá bổ sung. Nếu giá máy tính tăng, cầu về máy tính giảm thì cầu về phần mềm cũng giảm.

- > 0: X và Y là hai hàng hoá thay thế. Ví dụ: Trà và cà phê là hai hàng hoá thay thế. Nếu giá cà phê tăng, người ta sẽ giảm dùng cà phê và chuyển sang dùng trà. Cầu về trà sẽ tăng.

- = 0: X và Y là hai hàng hoá độc lập (không liên quan). Ví dụ: Máy tính và cà phê là hai hàng hoá độc lập. Giá cà phê tăng hay giảm cũng không ảnh hưởng gì đến cầu máy tính.



Ý nghĩa thực tế. Hệ số co giãn chéo cho thấy mức độ nhạy cảm của cầu của một loại sản phẩm đối với chiến lược giá của một doanh nghiệp có liên quan.

Bảng 2.7. Hệ số co giãn chéo của cầu một số mặt hàng ở Anh năm 1974




Theo giá của các mặt hàng

Hệ số co giãn của cầu của

Thực phẩm

Quần áo

và giày dép

Du lịch và

thông tin liên lạc

Thực phẩm

-0,37

-0,03

-0,12

Quần áo và giày dép

0,19

-0,30

-0,23

Du lịch và thông tin liên lạc

0,42

-0,01

-0,61

Nguồn: Deaton (1974)

6.3. Hệ số co giãn của cầu theo thu nhập

Như đã trình bày, thu nhập cũng là một yếu tố ảnh hưởng đến cầu đối với hàng hóa, dịch vụ. Vì vậy, trong phần này, chúng tôi giới thiệu khái niệm về hệ số co giãn của cầu theo thu nhập.



Độ co giãn của cầu theo thu nhập là tỉ lệ % thay đổi lượng cầu khi thu nhập thay đổi 1% (các yếu tố khác không đổi).

Công thức tính hệ số co giãn của cầu theo thu nhập như sau:





Bảng 2.8. Hệ số co giãn của cầu theo thu nhập của một số mặt hàng ở Anh năm 1974


Hàng hóa (tổng quát)

Hệ số co giãn

Hàng hóa (cụ thể)

Hệ số co giãn

Thuốc lá

-0,50

Than

-2,02

Nhiên liệu và chất đốt

0,30

Bánh mì và ngũ cốc

-0,50

Thực phẩm

0,45

Sản phẩm từ sữa

0,53

Rượu

1,14

Rau củ

0,87

Quần áo

1,23

Du lịch nước ngoài

1,14

Hàng lâu bền

1,47

Dịch vụ giải trí

1,99

Dịch vụ

1,75

Rượu cao cấp

2,60
Nguồn: Begg (1994)

Trong phần trước, chúng ta đã biết khi thu nhập thay đổi, sự thay đổi của lượng cầu đối với các mặt hàng khác nhau cũng khác nhau tuỳ theo tính chất của chúng. Ta có thể phân loại các hàng hóa này như sau:

- < 0: hàng hóa thứ cấp. Khi thu nhập tăng, người tiêu dùng mua ít những hàng hóa này hơn vì chúng là những hàng hóa rẻ tiền, chất lượng kém và ngược lại.

- > 0: hàng hóa thông thường. Khi thu nhập càng cao thì cầu về hàng hóa càng cao. Vì lượng cầu và thu nhập thay đổi cùng chiều nên hàng hoá thông thường có hệ số co giãn của cầu theo thu nhập dương. Trong đó:

+ 0 < < 1: hàng hoá thiết yếu. Những hàng hoá thiết yếu, như quần áo và lương thực, thường có hệ số co giãn của cầu theo thu nhập nhỏ vì người tiêu dùng thường xuyên mua chúng, cho dù thu nhập của họ có thấp đến mức nào.

+ > 1: hàng hóa cao cấp (hàng hoá xa xỉ). Người tiêu dùng có xu hướng tăng tiêu dùng những hàng hóa có chất lượng và giá trị cao lên rất nhiều khi thu nhập tăng. Và họ cảm thấy hoàn toàn không cần đến chúng khi thu nhập của họ quá thấp.



6.4. Hệ số co giãn của cung theo giá 

Về nguyên tắc, hệ số co giãn của cung giống như hệ số co giãn của cầu. Nghĩa là nó cũng nó cũng đo lường phần trăm thay đổi của lượng cung khi giá thay đổi một phần trăm (các yếu tố khác không thay đổi).

Vì vậy, công thức tính hệ số co giãn của cung cũng có dạng:

         

Điểm khác biệt là hệ số co giãn của cung theo giá có giá trị không âm . Do vậy, để xem xét độ co giãn của cung, chúng ta so sánh hệ số này với giá trị 1. Nếu , ta nói cung co giãn nhiều và, ngược lại, nếu , cung co giãn ít.

Do ý nghĩa của độ co giãn của cung tương tự như của cầu, nên từ những đặc điểm của độ co giãn của cầu chúng ta có thể suy ra những đặc điểm của sự co giãn của cung.



7. SỰ CAN THIỆP CỦA CHÍNH PHỦ VÀO THỊ TRƯỜNG

Trong thực tế, hầu hết các thị trường không hoạt động hoàn toàn tự do. Hệ thống kinh tế ở hầu hết các nước không hoàn toàn là hệ thống kinh tế thị trường tự do thuần tuý mà là hệ thống kinh tế hỗn hợp. Chính Phủ thường can thiệp trực tiếp hay gián tiếp vào thị trường bằng một số biện pháp. Sự can thiệp này nhằm mục đích làm thay đổi giá cả và số lượng hàng hóa và dịch vụ.



7.1. Can thiệp trực tiếp của Chính Phủ: giá trần và giá sàn

Đôi khi sự thay đổi trong cầu hay cung hàng hóa và dịch vụ đem đến giá cao hay thấp bất thường có thể làm cho các thành phần nào đó trong xã hội được và mất một cách không công bằng, chính phủ có thể can thiệp trực tiếp hay gián tiếp vào thị trường để điều chỉnh.

Để tránh tình trạng giá cao bất thường, chính phủ có thể ấn định giá trần, theo luật giá cả không thể tăng trên mức giá đó. Để tránh tình trạng giá thấp bất thường, chính phủ có thể ấn định giá sàn, theo luật giá cả không thể giảm dưới mức giá đó. Cả hai trường hợp, chính phủ cố gắng đạt đến mục tiêu công bằng trong phân phối hàng hóa và dịch vụ. Sự bất lợi của giá trần và giá sàn là nó không thể ngăn ngừa các thị trường di chuyển đến điểm cân bằng. Nó có thể gây ra sự thặng dư hay khan hiếm trầm trọng và kéo dài hơn so với tình trạng thị trường tự do.

Đồ thị dưới đây mô tả những ảnh hưởng của chính sách giá tối đa, P0 và Q0 là điểm cân bằng trên thị trường tự do. Nếu chính phủ qui định rằng giá không thể cao hơn giá trần cho phép là Pmax các sản xuất không thể cung ứng nhiều như trước, lượng cung giảm xuống còn Q1 và ngược lại nhưng người mua lại muốn mua một lượng lớn hơn là Q2. Kết quả là lượng cầu vượt lượng cung, thị trường thiếu hụt một lượng hàng là (Q2 – Q1). Sự khan hiếm đôi khi thể hiện qua hình thức xếp hàng hoặc hình thức định lượng, tem phiếu.




Giá trần (hay giá tối đa – Pmax)

Hình 2.14. Giá trần (hay giá tối đa – Pmax)

Một số người được lợi và một số bị thiệt từ biện pháp can thiệp này. Người sản xuất chịu thiệt, nhận được mức giá thấp hơn trước và một số phải ngừng sản xuất. Một số người dùng được lợi vì được mua hàng với giá thấp, số khác không mua được hàng với giá thấp, số khác không mua được hàng sẽ thiệt thòi vì phải mua hàng ở một thị trường không hợp pháp – thị trường chợ đen – với mức giá P1 cao hơn mức giá P0 trong điều kiện thị trường tự do.



Giá sàn (hay giá tối thiểu – Pmin)



Hình 2.15. Giá sàn (hay giá tối thiểu – Pmax)

Trên đồ trên, P0 và Q0 là điểm cân bằng trên thị trường tự do, nếu chính phủ qui định rằng giá không thể giảm thấp hơn giá sàn cho phép là Pmin. Ở mức giá cao, lượng cung ứng Q1 nhiều hơn trước và ngược lại những người mua chỉ muốn mua một lượng ít hơn là Q2. Kết quả là lượng cung vượt cầu, thị trường thừa một lượng hàng là (Q1 – Q2), rõ ràng là người tiêu dùng bị thiệt từ biện pháp can thiệp này vì phải mua hàng với giá Pmin cao hơn mức giá P điều kiện thị trường tự do. Người sản xuất nhận được mức giá cao hơn trước nhưng giảm số lượng bán từ Q0 xuống Q2, chính phủ không có biện pháp hỗ trợ bằng cách mua hết lượng sản phẩm thì họ sẽ không có thu nhập để bù đắp chi phí để sản xuất (Q1 + Q2). Các ví dụ cho chính sách giá sàn là giá lúa tối thiểu, tiền lương tối thiểu.

Như vậy, việc can thiệp của Chính phủ vào giá cả thường làm giảm tính hiệu quả của thị trường. Hiệu quả của thị trường được biểu hiện bằng lợi ích ròng của xã hội (NSB – Net Social Benefit). Lợi ích xã hội bao gồm hai bộ phận: thặng dư tiêu dùng (CS – Consumer surplus) và thặng dư sản xuất (PS – Producer surplus).


Каталог: resources
resources -> HƯỚng dẫn sử DỤng tài liệU Ôn tập thi thpt quốc gia môN: tiếng anh
resources -> KHỔ giấY, kiểu trình bày và ĐỊnh lề trang văn bảN a Khổ giấy
resources -> THỦ TƯỚng chính phủ CỘng hoà XÃ HỘi chủ nghĩa việt nam
resources -> CỦa chính phủ SỐ 01/2003/NĐ-cp ngàY 09 tháng 01 NĂM 2003
resources -> Nghị ĐỊnh của chính phủ SỐ 205/2004/NĐ-cp ngàY 14 tháng 12 NĂM 2004 quy đỊnh hệ thống thang lưƠNG, BẢng lưƠng và chế ĐỘ phụ CẤp lưƠng trong các công ty nhà NƯỚC
resources -> CHÍnh phủ Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam Độc lập Tự do Hạnh phúc
resources -> QuyếT ĐỊnh của bộ TÀi chính số 32/2008/QĐ-btc ngàY 29 tháng 05 NĂM 2008 VỀ việc ban hành chế ĐỘ quản lý, TÍnh hao mòN
resources -> Ban tổ chức số 09-hd/btctw đẢng cộng sản việt nam

tải về 1.05 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4   5   6   7   8   9   ...   12




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương