CON ĐƯỜNG KIM CƯƠNG THỪA
Ngọn Đèn Cho Con Đường: Đoạn 60
Nếu các con ao ước tạo nên một sự dễ dàng
Những tích tập cho giác ngộ
Qua những hành vi của bình an
Tăng trưởng và tiếp theo…, đạt được bởi năng lực của chân ngôn.
Trong những đoạn kệ tiếp theo, luận giải tiếp tục nói về sự quan trọng của việc tìm một vị thầy tinh thần và sự phát triển một mối quan hệ với vị thầy này, và chỉ ra rằng sự thực tập này được trình bày trong phương sách của của Kim Cương Thừa.
Ngọn Đèn Cho Con Đường: Đoạn 61 đến 67
61-
Và cũng qua năng lực của tám (thành tựu)
Và những sự thành tựu to lớn khác như “vật chứa tốt”-
Nếu các con muốn thực hành chân ngôn bí mật,
Như giải thích trong hành động và hành tướng quán tưởng.
62-
Rồi thì để đón nhận lễ quán đảnh (truyền pháp)
Các con phải làm vui lòng một vị đạo sư tâm linh thù thắng
Qua phụng sự, cúng dường phẩm vật và những thứ như thế
Cũng như qua sự vâng lời.
63-
Qua sự hiện diện hoàn toàn của pháp quán đảnh
Bởi một vị đạo sư tâm linh, người được hài lòng (đối với các con)
Các con được tịnh hóa tất cả những bất thiện nghiệp
Và trở nên xứng đáng để đạt đến những thành tựu đầy năng lực
64-
Do bởi Đại Mật Pháp Tantra của Đức Phật Bổn Sơ
Nghiêm cấm một cách mạnh mẽ,
Những ai hạnh kiểm quán chiếu thanh tịnh không nên
Tiếp nhận những pháp quán đảnh bí mật và tuệ trí.
65-
Nếu những ai quán chiếu sự thực hành nghiêm khắc của hạnh kiểm thanh tịnh
Thụ trì những pháp quán đảnh này
Thệ nguyện một cách nghiêm khắc của họ sẽ bị tổn hại
Qua thực hành sẽ bị loại trừ.
66-
Điều này tạo nên những sự vượt quá giới hạn, đấy là thất bại
Cho những ai quán chiếu nguyên tắc (đạo đức) .
Vì họ chắc chắn sẽ đọa lạc để tái sinh vào khổ cảnh
Họ sẽ không bao giờ đạt đến những đạo quả.
67-
Không có sai phạm nếu người đã tiếp nhận
Lễ quán đảnh và có kiến thức
Của chân như để lắng nghe hay giảng giải mật điển tantra
Và tiến hành hỏa pháp cúng dường
Hay cúng dường phẩm vật,v.v…
Tương tự như thế, trong Đoạn 24 của Thi Kệ Chứng Nghiệm, Đạo Sư Tông Khách Ba trình bày tiến trình tổng quát của con đường theo Kim Cương Thừa.
---o0o---
Thi Kệ Chứng Nghiệm: Đoạn 24
(Viễn ly, một động cơ giác ngộ và quan điểm đúng đắn của tính không) là (ba phương diện) cần thiết thông thường cho (sự đạt đến) những con đường tối thượng qua hai cổ xe Đại Thừa của (thực tập) nhân tu (cho giác ngộ) hay (giả như bây giờ) những quả chứng(các con sẽ đạt đến). Do vậy, một khi các con đã phát triển một cách thích hợp,ba con phương diện chính này, các con nên nương tựa một vị hướng đạo thiện nghệ (của một vị đạo sư mật tông đầy đủ phẩm chất) như bậc hộ vệ của các con, và bắt đầu (trên điểu này về sau, cổ xe nhanh hơn) qua đại dương rộng lớn của (bốn) tầng bậc của mật thừa tantra. Những ai đã (làm xong như thế và) hiến dâng chính họ đến những sự hướng dẫn chỉ đạo (của vị đạo sư) đã tiến hành sự đạt đến của (một thân người với tất cả) những sự giải thoát và ban cho ý nghĩa đầy đủ (bằng đạt đến giác ngộ trong chính đời sống này của họ). Ta hành giả du già đã thực tập đúng như thế. Các caon những người cũng tìm sự giải thoát, hãy vui thích trau dồi chính mình cùng cách như thế.
Dịch kệ:
24. - Chán cảnh sinh tử,
- Phát tâm bồ đề,
- Trực Chứng tánh Không,
Là ba yếu tố
Căn bản cần thiết
Để bước lên hai
Cỗ xe Đại Thừa:
Là xe tu nhân
Và xe tu quả.
Vậy khi các con
Phát huy đúng đắn
Ba điểm này rồi
Phải nên nương dựa
Vào đấng đạo sư
Đầy đủ phẩm hạnh.
Xin thầy hộ niệm
Đưa các con vào
(Cỗ xe tu quả)
Vượt qua biển rộng
Bốn bộ Mật tông.
Ai biết tôn kính
Noi theo lời dạy
Của đấng đạo sư
Sẽ không phí uổng
Kiếp người hiếm hoi
Đầy tự tại này
(Nhờ đạt giác ngộ
Ngay kiếp hiện tiền).
Thầy là hành giả
Đã tu như vậy.
Các con ai người
Đang cầu giải thoát
Hãy tự thuần dưỡng
Đúng theo lối này.
---o0o---
CÂU HỎI VÀ TRẢ LỜI
HỎI: Kính bạch Ngài, mặc dù kinh nghiệm thiền tập của con rất nông cạn và yếu ớt, khi thiền quán trên sự thiếu vắng của sự tồn tại cố hữu của tự ngã, con trở nên sợ hãi ở chỗ khởi ra sự hiểu biết này. Điều ấy có thông thường không? Có sự đối trị không?
ĐÁP: Có hai điều khả dĩ. Một là có thể sự thông hiểu của quý vị về tính không chưa đủ sâu, mà trong trường hợp này có nguy cơ rơi vào sự diễn giải hư vô về ý nghĩa của tính không, ở chỗ mà tính không hầu như trở nên một nhận thức không có gì cả hay không tồn tại. Rồi thì điều này có thể là nguyên nhân của một vài sự sợ hãi nào đấy về không hiện hữu. Dưới hoàn cảnh như thế, điều quan trọng là củng cố tăng cường sự thuyết phục và tin chắc của mình trên tính hiệu lực của luật nhân quả, và một cách đặc biệt trong giáo lý nhân duyên, bởi vì ý nghĩa chân thực của tính không phải được thông hiểu trong hình thức của lý duyên khởi. Cách đối trị cho sự sợ hãi này là nổ lực củng cố sự thông hiểu của mình về lý duyên khởi của mọi sự vật, nguyên nhân và kết quả tự nhiên của nó, làm thế nào chúng hình thành sự hiện hữu và loại tình trạng quy ước hay liên hệ nào mà chúng sở hữu.
Tuy nhiên, cũng có thể là sự thông hiểu của quý vị về tính không là đúng đắn. Khi chúng ta phản chiếu trên tính không, không thể nào có thể có một loại sợ hãi hay lo âu nào đó có thể khởi lên trong quý vị, bởi vì điều mà chúng ta cho là đương nhiên một cách thông thường và nắm giữ không thắc mắc – thực tế tịch tĩnh, vững chắc và tồn tại một cách độc lập của tự ngã này – đã được chỉ cho thấy là sai lầm. Loại nhận thức này có thể làm nguyên nhân cho một cảm giác sợ hãi, nhưng nỗi sợ hãi này sẽ dần dẫn lui bước khi quý vị thâm nhập sự thông hiểu về tính không ngày càng sâu hơn.
HỎI: Làm thế nào lý duyên khởi giải thích sự tiếp diễn của tâm thức? Có phải tâm thức là một hiện tượng độc lập?
ĐÁP: Có thể hiểu sai lầm sự tiếp diễn không dứt của tâm thức như một sự hiện hữu của thực thể tồn tại vĩnh viễn, nhưng chính vì điều gì đấy vẫn giữ sự tiếp tục của nó không có nghĩa rằng nó là một hiện tượng bất diệt, không thay đổi. Thí dụ, khi chúng ta quán sát một cách cẩn thận, chúng ta thấy sự phức tạp vô cùng của thế giới kinh nghiệm. Điều này rất phức tạp, thực sự, đến điều mà chúng ta liên hệ như ý thức,tâm thức, hay tâm, và nó ở trên căn bản của sự tiếp diễn này, đấy là chúng ta diễn tả những trạng thái của tâm thức như hiện hữu của những loại đặc thù.
Cũng thế, chúng ta biết từ kinh nghiệm cá nhân của chúng ta rằng tư tưởng , cảm xúc, và thái độ của chúng ta có thể thay đổi. Nếu tâm thức là thường và độc lập, do thế, một cách đơn giản rằng sẽ không chỗ cho những sự thay đổi như thế xãy ra. Sự thực rằng có chỗ cho thay đổi và chuyển hóa gợi ý rằng tâm thức là một hiện tượng năng động thay đổi liên tục. Chúng ta có thể hiểu tâm thức chỉ trong dạng thức của một sự tiếp diễn, nhưng sự tương tục này có thể chỉ được hiểu trong liên hệ sự thừa kế hay chuỗi dài của nhiều hiện tượng. Điều này đã khuyến nghị rằng chúng ta đang nói về một hiện tượng hổn hợp và tâm thức ấy là duyên khởi.
Khi chúng ta quán sát tại những sự vật và những sự kiện, chúng ta có thể thấy rằng có một mối quan hệ giữa tổng thể và những phần tử mà chúng đến với nhau để hình thành nên (những sự vật và những sự kiện). Sự thực rằng điều gì ấy được nói là tổng thể lập tức gợi ý rằng mối quan hệ của nó với những phần tử của nó. Những phần tử của nó không độc lập hay tách biệt với tổng thể, cũng không giống hệt như nó. Có một mối quan hệ giữa chúng (tổng thể và phần tử).
HỎI: Chúng con đã hỏi Ngài nhiều câu hỏi. Thế thì câu hỏi nào Ngài sẽ hỏi mà mỗi người chúng con có thể tự trả lời?
ĐÁP: Hãy xét nghiệm chính mình để thấy mình có hết mình trong sự thực hành tâm linh hay không. Điều này là rất quan trọng.
HỒI HƯỚNG
Tổ Sư A Để Sa kết luận Ngọn Đèn của Ngài với đoạn kệ:
68-
Ta, Trưởng Lão A Để Sa, đã trãi qua điều ấy
Giải thích theo kinh điển và theo những giáo huấn khác,
Đã trước tác sự giảng giải súc tích này
Do lời thỉnh cầu của Jangchub Ö.
Và cuối cùng, Đạo Sư Tông Khách Ba đã phát lời hồi hướng thế này:
25- Để làm cho điều này thuần thục đến tâm thức của chính ta và cũng để làm lợi ích cho những người khác, những người có diễm phúc (để gặp một đạo sư chân chính và có thể thực tập những gì vị thầy đã dạy), ta đã giải thích ở đây trong những ngôn từ có thể thấu hiểu một cách dễ dàng hoàn toàn con đường làm chư Phật hoan hỉ. Ta cầu nguyện rằng công đức từ điều này có thể là nguyên nhân cho tất cả chúng sinh chẳng bao giờ lìa xa những con đường thanh tịnh và diệu kỳ. Ta hành giả du già đã thực hành đúng như thế. Các con những người cũng tìm cầu sự giải thoát hãy vui thích trau dồi chính mình theo cùng cách như thế.
Dịch kệ:
25. Vì để thuần dưỡng
Tâm của chính mình
Và để lợi ích
Cho kẻ thiện duyên
(Đã gặp được đấng
Đạo sư chân chính
Và đủ khả năng
Tu tập đúng theo
Những gì thầy dạy)
Nên Thầy dùng lời
Rõ ràng dễ hiểu
Nói lại trọn vẹn
Đường tu giác ngộ
Mà mười phương Phật
Vẫn hằng hoan hỉ.
Nguyện công đức này
Giúp cho chúng sinh,
Không bao giờ xa
Đường tu trong sáng
Chắc thật, nhiệm mầu.
Thầy là hành giả
Đã tu như vậy.
Các con ai người
Đang cầu giải thoát
Hãy tự thuần dưỡng
Đúng theo lối này.
Rồi thì trong lời ghi cuối tác phẩm Thi Kệ Chứng Nghiệm, chúng ta đọc:
Điều này kết luận Những Điểm Giản Lược của Con Đường Thành Đạt Giác Ngộ, biên soạn tóm tắt vì thế chúng không thể bị quên lãng. Tác phẩm đã được viết tại Tu viện Ganden Nampar Gyelwa’I trên núi Grog Riwoche, Tây Tạng, bởi tu sĩ Phật Giáo Losang Dragpa, một thiền giả đã từng nghe nhiều giáo huấn.
Để kết luận, chúng tôi nguyện ước rằng tất cả quý vị hãy cố gắng để là những người nhiệt tình tốt bụng. Đây là điều quan trọng nhất. Chính tự tôi sẽ cố gắng là một đệ tử chân thành của Đức Phật. Thậm chí ngay trong giấc mơ, chúng tôi luôn luôn nhớ mình là một tu sĩ Phật Giáo. Cảm giác này sẽ tồn tại cho đến khi chúng tôi chết. Trong lúc ấy, chúng tôi cố gắng để cống hiến sự hiện hữu của mình để làm lợi ích cho tất cả những người khác. Nếu quý vị cũng thế, thực tập theo cách này, chúng ta sẽ trở nên là những thiện hữu chân thành một cách thật sự.
Illuminating the Path to Enlightenment
Chapter Ten: The Perfection of Wisdom
http://www.lamayeshe.com/index.php?sect=article&id=398&chid=1019
Tuệ Uyển chuyển ngữ
30-10-2009
(Ngọn Đèn Cho Con Đường)
NGỌN ĐÈN SOI ĐƯỜNG GIÁC NGỘ
hay là Bồ Đề Đạo Đăng Luận
Tác giả : Lama Atisa
---o0o---
.
. .
Con xin tán dương
Đức Diệu Cát Tường
Văn thù Bồ Tát
. .
1
Với lòng tôn kính
Con xin tán dương
Phật, là những đấng
Đại hùng của khắp
Mười phương ba thời;
Pháp, là giáo pháp
Do Phật truyền lại;
Tăng, là những vị
Bước theo Phật Pháp.
Đáp lời thỉnh cầu
Đệ tử cao trọng
Tên Jangchub O,
Con xin thắp sáng
Ngọn đèn soi đường
Dẫn đến giác ngộ.
.
2
Căn cơ người tu
Vốn có 3 loại
Thấp, vừa và cao,
Vì vậy thầy sẽ
Nói rõ căn cơ
Của từng loại người.
.
3
Có người vận dụng
Đủ loại phương tiện
Để tìm cho mình
Lạc thú thế gian.
Những người như vậy
Là bậc sơ căn.
.4
Lại có người vì
An lạc cá nhân
Mà từ bỏ hết
Lạc thú thế gian,
Hết thảy ác nghiệp,
Họ đều không làm.
Những người như vậy
Là bậc trung căn.
.5
Lại có những người
Đã từng phải chịu
Rất nhiều khổ não
Nên mang tâm nguyện
Tận diệt khổ đau
Cho mình, cho người.
Những người như vậy
Là bậc thượng căn.
.6
Vì bậc thượng căn
Hướng về thượng Pháp,
Thầy sẽ nói về
Phương tiện tuyệt hảo
Do các đạo sư
Ân cần truyền dạy.
.7
Đối trước tranh vẽ
Hay trước hình tượng
Của đấng vô thượng
Chánh đẳng chánh giác,
Đối trước bảo tháp
Và trước kinh điển,
Các con hãy tùy
Khả năng bày biện
Hương hoa cúng dường.
.8
Thành tâm hiến cúng
Thất chi Phổ hiền
Theo hạnh nguyện vương,
Lập chí kiên quyết
Nguyện không quay lại
Nếu chưa đến được
Bến bờ nẻo giác.
.9
Lòng tin kiên định
Đặt nơi Tam bảo,
Hãy quì một chân,
Và chắp hai tay,
Đọc câu phát nguyện
Qui y ba lần.
.10
Rồi hãy để cho
Tâm Từ rộng mở,
Yêu thương hết thảy
Các loài chúng sinh.
Nhìn rõ chúng sinh
Vướng trong khổ não,
Khổ trong ác đạo,
Khổ vì sinh tử.
Hãy nhìn cùng khắp,
Đừng sót một ai.
.11
Vì mong chúng sinh
Thoát hết tất cả
Khổ khổ, hoại khổ
Cùng với hành khổ,
Thoát cả nguyên nhân
Tạo nên nỗi khổ,
Nên lập đại nguyện
Phát tâm bồ đề
Quyết không thoái chuyển
.12
Phát tâm như vậy
Mang ý nghĩa gì,
Đều đã được đức
Di lạc từ tôn
Giải thích rõ trong
Kinh Thân Tỏa Rộng.
.13
Nhờ đọc kinh này,
Hay nhờ nghe giảng,
Mà hiểu tường tận
Lợi ích vô lượng
Phát tâm bồ đề.
Hiểu rồi phải gắng
Liên tục phát tâm,
Cho tâm bồ đề
Ngày thêm tỏa rạng.
.14
Trong bộ Vira-
datta vấn kinh
Có giải thích về
Công đức Bồ đề.
Nay thầy nói lại
Ba câu chỉnh cú
Tóm lược ý kinh..
15
Công đức bồ đề
Nếu như có thân,
Thân ấy nhất định
Đầy ắp không gian,
Và còn tỏa rộng
Quá hơn vậy nữa.
.
16
Ai mang châu báu
Lấp đầy cõi Phật
Nhiều bằng số cát
Có trong sông Hằng
Để mà hiến cúng
Chư Phật Thế tôn,
.17
Thì công đức ấy
Vẫn không thể sánh
Với đôi tay chắp
Tâm hướng bồ đề.
Vì công đức này
Bao la vô tận.
.18
Tâm nguyện bồ đề
Một khi đã phát,
Phải hằng ghi nhớ
Phát triển không ngừng;
Đời này kiếp sau
Không bao giờ xa
Giới hạnh bồ tát.
.
19
Nhưng Tâm bồ đề
Sẽ không phát sinh
Nếu không dấn thân
Phát tâm thọ giới.
Vậy con hãy gắng
Thọ giới bồ tát
Cho bồ đề tâm
Bắt rễ đâm chồi.
.20
Muốn đủ điều kiện
Thọ giới Bồ tát
Thì phải thọ giữ
Một trong bảy bộ
Giới Ba la đề (Praktimosha).
.21
Chư Như lai thuyết
Về bảy bộ giới,
Cao nhất là giới
Dành cho tỷ kheo
Và tỷ kheo ni.
.22
Làm theo lời kinh
"Thập Địa Bồ Tát"
Trong chương "Giới Luật",
Con hãy đi tìm
Vị thầy có đủ
Khả năng truyền giới.
.23
Thầy đủ khả năng
Phải là vị thầy
Khéo biết nghi thức
Truyền giới Bồ tát,
Trang nghiêm giới hạnh
Đầy đủ tự tín
Và tâm từ bi
Truyền giới cho người.
.24
Nếu tìm không gặp
Vị thầy như vậy,
Vẫn còn một cách
Thọ giới Bồ tát.
.25
Trong Kinh Trang Nghiêm
Văn Thù Tịnh Độ
Có kể tường tận
Câu chuyện khi xưa
Khi ngài Văn thù
Còn là quốc vương
Am-ba-ra-da [Ambaraja],
Đã từng phát tâm
Theo phương pháp này.
Bây giờ thầy sẽ
Giải thích rõ ràng
Phương pháp phát tâm
Đúng theo như vậy.
.26
"Con xin đối trước
Các bậc Hộ pháp,
Nguyện xin phát tâm
Vô thượng bồ đề.
Mời chúng sinh về
Chứng giám cho con,
Nguyện sẽ quảng độ
Chúng sinh thoát khỏi
Ràng buộc luân hồi”
.27
"Từ nay đến ngày
Con đạt giác ngộ,
Nguyện từ bỏ hết
Tâm lý ô nhiễm,
Ác ý, giận dữ
Keo bẩn, ganh ghen.
.28
"Nguyện giữ giới hạnh
Từ bỏ ác, tham,
Vui việc giữ giới
Nối gót chư Phật.
.29
"Nguyện không vì mình
Mà ham mau chóng
Thành tựu giác ngộ.
Nguyện luôn ở lại
Làm người sau cùng.
.30
"Nguyện sẽ làm sạch
Vô lượng cõi giới,
Làm nên tịnh độ
Không thể nghĩ bàn.
Nguyện vì những người
Gọi đến tên con,
Mà khắp mười phương
Con đều có mặt.
.31
"Nguyện làm thanh tịnh
Hết thảy ác nghiệp
Từ thân ngữ ý
Mà phát sinh ra.
Mọi việc bất thiện,
Con đều không làm.
Trang nghiêm giữ gìn
Giới hạnh Bồ tát.
.32
Lấy tâm bồ đề
Mà khéo giữ gìn
Ba loại giới luật,
Tâm sẽ kiên định
Vững tin nơi Giới.
Đây chính là nhân,
Khiến thân ngữ ý
Trở nên thanh tịnh.
.33
Bồ tát phát tâm,
Kiên trì giữ giới,
Sẽ gom đầy đủ
Tư lương thành tựu
Vô thượng bồ đề.
34
Chư Phật dạy rằng
Nhân duyên khiến cho
Sung mãn hai bồ
Tư lương phước tuệ,
Chính là đạt Định.
.35
Tựa như chim non
Không thể cất cánh
Vút lên trời cao;
Người thiếu Định lực
Không thể làm việc
Lợi ích chúng sinh.
.36
Nếu chưa đạt Định
Thì dù cố gắng
Tu hàng trăm kiếp,
Được bao công đức
Vẫn không thể sánh
Công đức một ngày
Khi đã có Định.
.37
Ai muốn nhanh chóng
Tích lũy hai bồ
Tư lương phước tuệ,
Thành tựu viên mãn
Vô thượng bồ đề,
Thì đừng biếng nhác.
Phải luôn kiên trì
Tu cho đạt Định.
.38
Muốn cho đạt Định,
Tâm phải an trú.
Vậy phải không ngừng
Kiên trì cố gắng,
Tu Xa-ma-tha.
.39
Nhưng nếu nhân duyên.
Đạt Xa-ma-tha
Vẫn chưa gom đủ,
Thì dù thiền chỉ
Kiên trì liên tục
Trăm ngàn vạn năm
Vẫn không thể nào
Khiến tâm an định
.40
Vậy phải cố gắng
Gom đủ yếu tố
Đạt Xa-ma-tha
Như đã ghi trong
Công Đức Thiền Chỉ.
Hãy chọn đề mục
Để mà nhiếp tâm.
.41
Bao giờ thành tựu
Được Xa-ma-tha,
Khi ấy cũng sẽ
Thành tựu được Định.
Nhưng nếu còn thiếu
Tuệ giác toàn hảo,
Vẫn không thể nào
Tận diệt tất cả
Các loại chướng ngại.
.42
Muốn dẹp tất cả
Chướng ngại áng ngữ
Giải thoát, Giác ngộ,
Phải luôn tu Tuệ
Kết hợp cùng với
Phương tiện thiện xảo.
.43
Tuệ thiếu Phương tiện
Phương tiện thiếu Tuệ
Đều thành dây trói
Ràng buộc luân hồi.
Vì vậy cần phải
Kết hợp cả hai.
.44
Để tan nghi vấn
Về ý nghĩa của
Trí Tuệ, Phương tiện,
Thầy sẽ nói rõ
Về sự khác biệt
Giữa hai điều này.
.45
Chư Phật dạy rằng
Ngoài hạnh thứ sáu
Là Tuệ Toàn Hảo,
Năm hạnh còn lại,
Kể từ hạnh Thí
Cho đến hạnh Định
Đều là Phương tiện.
.46
Bất cứ là ai
Thuần dưỡng Phương tiện
Vận dụng trí Giác
Quán Tuệ Toàn hảo
Sẽ chóng thành tựu
Vô thượng bồ đề;
Chứ không thể chỉ
Quán về vô ngã
Mà thành tựu được.
.47
Thấy được các uẩn
Và căn, thức, trần
Đều là vô sinh,
Nhờ đó chứng ngộ
Tất cả các pháp
Đều không tự tánh :
Đó là Trí Tuệ.
.48
Nếu như tự tánh
Của một vật gì
Là thật sự có
Thì chính vật ấy
Vốn không làm sao
Có thể phát sinh.
Nếu như tự tánh
Của một vật gì
Là thật sự không
Thì giống như hoa
Hiện ra giữa trời,
Vốn không có gì
Để mà nói tới.
Cả hai điều này
Phi lý như nhau.
Sự vật khởi sinh
Vốn không như vậy.
.49
Sự vật sinh ra
Không phải tự sinh;
Cũng không phải do
Yếu tố bên ngoài
Mà phát sinh ra;
Cũng không phải từ
Hai điều nói trên
Mà phát sinh ra;
Cũng không phải là
Không có nguyên nhân
Mà phát sinh ra.
Sự vật sinh ra,
Vốn không tự tánh.
.50
Quán chiếu tận tường
Tất cả các pháp
Xem là đồng nhất
Hay là dị biệt,
Sẽ không thể thấy
Có một pháp nào
Hiện hữu độc lập.
Nhờ đó thấy rõ
Các pháp hoàn toàn
Không có tự tánh.
.51
Bảy mươi chỉnh cú
Tụng về tánh Không
Hay Luận Trung Quán
Của ngài Long thọ
Đều giải thích rằng
Chân tánh các pháp
Chính là tánh Không.
.52
Biển luận văn này
Vô cùng phong phú
Thầy không thể trích
Hết cả ra đây,
Chỉ xin tóm lược
Đôi câu kết luận
Xác định tông môn,
Tiện cho các con
Thiền quán tu hành.
.53
Quán về vô ngã,
Thấy ra sự vật
Không có tự tánh:
Đó là tu Tuệ.
.54
Vận dụng Trí Tuệ
Mà quán vạn pháp,
Sẽ không thể thấy
Pháp có tự tánh.
Tương tự như vậy,
Quán về Trí Tuệ
Sẽ thấy Trí Tuệ
Cũng không tự tánh.
Các con hãy gắng
Siêu việt khái niệm
Mà quán như vậy.
.55
Toàn bộ cõi sống
Đều từ khái niệm
Mà phát sinh ra
Vì vậy cõi sống
Vốn thật chỉ là
Khái niệm phân biệt
Tách lìa phân biệt
Là đại niết bàn
.56
Đức Phật nói rằng
Khái niệm phân biệt
[Chấp có tự tánh]
Là đại Vô minh,
Ném chúng ta vào
Luân hồi sinh tử.
Tách lìa phân biệt,
Nhập định vô niệm,
Khi ấy cảnh giới
Siêu việt khái niệm
Tựa như không gian
Hiện ra trong sáng.
.
57
Trong Đà la ni
Nhập tâm vô niệm,
Đức Phật dạy rằng;
"Nếu chư bồ tát
Con của Như lai
Lìa tâm phân biệt
Để mà quán chiếu
Thì dù khái niệm
Khó vượt đến đâu
Cũng sẽ từng phần
Vượt qua được cả,
Bước vào cảnh giới
Siêu việt khái niệm.
.58
Có được trí tuệ
Đến từ học hỏi
Và từ tư duy
[Văn tuệ, Tư tuệ],
Hiểu rằng các pháp
Không từng khởi sinh,
Không có tự tánh,
Khi ấy các con
Từ sự hiểu này
Mà thiền chỉ quán
Siêu việt khái niệm.
.59
Chỉ quán cảnh giới
Chân thật như vậy
Sẽ tiến từng phần
Trên đường giác ngộ
Thành tựu "nội hỏa"
Thành tựu "đại lạc"
Cùng những điều khác.
Rồi chẳng bao lâu
Sẽ thành tựu được
Vô thượng bồ đề.
.60
Nếu muốn mau chóng
Tích tụ tư lương
Thành tựu bồ đề,
Có thể nương nhờ
Năng lực minh chú,
Hành trì các pháp
Hàng phục, tăng trưởng.
.61
Đồng thời nương vào
Năng lực của tám
Thành tựu vĩ đại,
Hay thành tựu khác,
Ví dụ như là
Đại định Bình Quí,
Nếu muốn bước vào
Con đường tu Mật,
Thuận theo các bộ
Nghi Thức, Lễ Bái,
.62
Và nếu muốn nhận
Đại pháp quán đảnh
Đạo sư Kim Cang,
Phải đối với thầy
Hết lòng tận tụy,
Phụng sự, cúng dường,
Chăm chỉ làm theo
Những điều thầy dạy.
.63
Đạo sư hoan hỉ
Ban cho đại pháp
Quán Đảnh Đạo Sư,
Khi ấy tất cả
Ác nghiệp chướng ngại
Đều tiêu tan cả.
Tâm sáng thanh tịnh,
Đồng vị niết bàn.
.64
Trong Đại Mật Kinh
Đức Phật Bản Lai
Hết lòng nghiêm dạy
Các vị tỷ kheo
Và tỷ kheo ni
Giữ giới thuần tịnh
Tuyệt đối không được
Nhận hai mật pháp
Quán đảnh Kín mật,
Quán đảnh Trí tuệ.
.65
Là người giữ gìn
Phạm hạnh thanh tịnh
Mà nhận hai pháp
Quán đảnh nói trên
Là phá giới hạnh.
.66
Nếu như đang giữ
Phạm hạnh nghiêm mật
Mà nhận pháp này
Là phá hủy giới,
Sa đọa trầm luân
Tận cùng ác đạo,
Không thể có được
Chút thành tựu nào.
.67
Tuy vậy nếu là
Nhận pháp quán đảnh
Đạo Sư Kim Cang
Thể hội Chân Như
Thì vẫn có thể
Nghe giảng mật pháp,
Hay tự mình giảng,
Thi hành nghi lễ
Thiết lập đạo tràng,
Cúng lửa, sám hối,
Mà không phạm lỗi.
.68
Tôi là trưởng tử
Shri Dipamkara,
Đã học điều này
Từ nơi kinh luận.
Vì lời yêu cầu
Của Jangchub O
Mà viết ra đây
Bài giảng ngắn gọn
Vạch ra đường tu
Tuần tự giác ngộ.
..
---o0o---
LỜI GHI XUẤT XỨ
Đến đây chấm dứt bài kệ Đèn Soi Đường Giác Ngộ do đại đạo sư Dipamkara Shri Jnana [Atisha] soạn và đích thân dịch sang Tạng ngữ với sự góp sức của vị tỷ kheo dịch giả người Tây tạng tên Geway Lodro. Bài pháp này được viết tại tu viện Tholing ở Zhang Zhong.
.Hồng Như chuyển Việt ngữ tháng 07/2005, dựa trên bản dịch Anh ngữ của Alexander Berzin, 1980, tham khảo với bản dịch của Ruth Sonam, Dharamsala, 01/1997 và của Gonsar Tulku và Brian C.Beresford (1975, 1976, 1978).
http://nalanda.batnha.org//index.php?option=com_content&task=view&id=33&
---o0o---
Hết
1 Vikramasila (skt): Một trong bốn tu viện lớn nhất tại Ấn Độ dưới thời Hoàng Đế Dharmapala. Vào thời đó Nalanda, Uddantapuri (Bihar Sharif), Vajrasana, và Vikramasila là bốn tu viện lớn nhất. Trong số nầy, tu viện Vikramasila là quan trọng hơn cả và có nguồn gốc khá đặc biệt. Hoàng đế Dharmapala của triều đại Pala trong một chuyến tuần du các vùng đất nầy rất say mê khi nhìn thấy một ngọn đồi nhỏ xinh xinh bên bờ sông Hằng, nên đã quyết định cho lập một tu viện tại đây. Tu viện nầy có lẽ được xây vào cuối thế kỷ thứ 8, đã phát triển thành một trung tâm văn hóa lớn hai trăm năm mươi năm sau đó. Số Tăng sinh từ các nước ngoài đến đây tu học đông hơn ở Na Lan Đà. Trong số các giảng sư ở Vikramasila có 108 học giả, 8 nhà bác học nổi tiếng, và đại học giả Ratnakarasanti, viện trưởng tu viện. Trong số các học giả nổi tiếng của tu viện gồm có Santibhadra, Maitripa (Avadhutipa), Dombipa Sthavirabhadram, Smrtyakara-Siddha, và Dipankara-Srijnana. Tại trung tâm tu viện có một ngôi đền xinh xắn thờ Quán Thế Âm Bồ Tát, bên cạnh đó là 53 ngôi đền lớn nhỏ. Trong số các vị thần và nữ thần được thờ trong các ngôi đền nầy, có một số tượng Mật tông. Ba tu viện kia cũng thuộc lãnh thổ của triều đại Pala, vốn có quan hệ đặc biệt với Vikramasila. Tám mươi bốn vị Siddha đều sống dưới các triều Pala (765-1200) và hầu hết những vị nầy đều có liên hệ với Vikramasila. Theo các tác giả Tây Tạng thì phái Mật tông hoặc tu viện Vikramasila đã làm cho quân Thổ Nhĩ Kỳ phải nhiều phen trốn chạy bằng cách niệm thần chú, nhưng lịch sử không nói đến điều nầy. (Từ Điển Phật Học Thiện Phúc)
2 Trụ thiền: tạm dịch chữ Post-meditation: một trạng thái của tâm thức phối hợp của chỉ (shamatha) và quán (vipashyana), và trong điều mà sự tập trung hấp thu (thiền bố trí-shamatha) là tập trung nhất quán trên sự trống rỗng giống như ảo giác, nó đạt đến chỉ trên sự khởi lên từ sự hấp thu trên một khoảng không như trống rỗng và có thể xảy ra trong khi thiền tập hay sau khi xuất thiền. Nó có thể là nhận thức hay không nhận thức, đôi khi được dịch là “subsequent realization” hay thường được dịch là “post-meditation”. -Theo Buddhism Glossary.
3 Hành động bản năng: dịch từ chữ volitional act-action , hành động do tác lý (ý muốn), phát xuất từ căn bản vô minh, hay mạt na thức như trong Duy biểu học nói: là cơ chế tự tồn, là bản năng dục ái. (tổng hợp)
4 Hành động bản năng: dịch từ chữ volitional act-action , hành động do tác lý (ý muốn), phát xuất từ căn bản vô minh, hay mạt na thức như trong Duy biểu học nói: là cơ chế tự tồn, là bản năng dục ái. (tổng hợp)
5 Conventional bodhicitta=relative bodhicitta: bồ đề tâm quy ước: một tâm hay tấm lòng tập trung trước tiên cho lợi ích của tất cả chúng sinh và rổi thì trên sự giác ngộ cá nhân của chính người ấy trong tương lai, với mục tiêu đạt đến giác ngộ và để làm lợi ích cho những người khác bằng những phương pháp giác ngộ.
6 Ultimate bodhicitta=deepest bodhicitta: căn bản bồ đề tâm: sự tỉnh thức sâu lắng mà không có nhận thức về khái niệm trống không.
7 Năm con đường:
1- con đường tích tập,
2- con đường chuẩn bị,
3- con đường thấy biết,
4- con đường thiền định,
5- con đường vô học.
1.) Path of Accumulation, tshogs lam, sambhara marga
2.) Path of Preparation, sbyor lam, prayoga marga
3.) Path of Seeing, mthong lam, darshana marga
4.) Path of Meditation, sgom lam
5.) Path of No-more learning, mi slob lam, asaiksha marga
Chia sẻ với bạn bè của bạn: |