Ban quản lý CÁc dự Án lâm nghiệPPHẦN VII. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
A12. Khoảng cách giữa nam giới và phụ nữ trong bối cảnh dự án Khoảng cách giữa nam giới và phụ nữ trong vùng dự án và liên quan đến các hoạt động dự án vẫn còn lớn trong tiếp cận các cơ hội kinh tế và ra quyết định trong quản lý tài nguyên thiên nhiên. Sự khác biệt này không dễ nhận ra trong bối cảnh mà phụ nữ tham gia tích cực vào các công việc nông nghiệp và trong các cuộc họp cộng đồng và phụ nữ trẻ có trình độ giáo dục khá tốt. A12.1 Những lĩnh vực liên quan trong dự án và phối cảnh trong phân tích khoảng cách giới Mục tiêu xây dựng dự án là cải thiện công tác quản lý rừng ven biển tại các tỉnh được lựa chọn. Dự án sẽ góp phần thực hiện mục tiêu lớn của chính phủ Việt Nam tăng cường tính chống chịu ven biển với biến đổi khí hậu (đặc biệt là bão và lụt). Bảy trong số 8 tỉnh có dự án thực hiện (ngoại trừ Hải Phòng là tỉnh có công nghiệp phát triển nhất) là nơi chiếm 1/3 đến 1/4 trong số 40% dân số có mức thu nhập thấp nhất cả nước. Các hoạt động dự án gồm (1) trong hợp phần 1, quy hoạch không gian vùng ven biển, các vườn ươm quy mô nhỏ của các hộ địa phương quản lý, và thí điểm chi trả dịch vụ hệ sinh thái rừng (PFES), có thể là với trọng tâm vào ngành nông nghiệp và du lịch; (2) trong hợp phần 2, bảo vệ các lâm phần rừng ven biển hiện có, trồng và chăm sóc các lâm phần mới theo các hợp đồng với nhóm cộng đồng địa phương; (3) trong hợp phần 3, thông qua các khoản tài trợ không hoàn lại cạnh tranh cho các nhóm hộ tham gia vào mối quan hệ đối tác lâu dài với các đối tác thương mại trong chuỗi giá trị, phát triển nông nghiệp quảng canh, nông nghiệp thâm canh thông minh với khí hậu, và sản xuất gia súc (ví dụ như lợn) quảng canh, hoặc các hoạt động khác hiện đang thực hiện trên rừng ven biển hoặc tác động đến chúng; nâng cấp quy mô nhỏ đường nông thôn và hỗ trợ các cơ sở hạ tầng sản xuất khác. Có khía cạnh giới trong tất cả các hoạt động dự án được đề xuất. Phụ nữ có thể có hoặc không được tiếp cận với những hoạt động hướng tới các nhóm hộ, và trong khi một số hoạt động hỗ trợ thu hẹp khoảng cách giới (ví dụ như doanh nghiệp nhỏ), một số khác lại có tác động ngược lại. Hầu hết các hoạt động sẽ được thực hiện thông qua các xã và các nhóm hộ gia đình. Cách thiết kế và thực hiện các hợp đồng của cộng đồng trong ngành lâm nghiệp, quan hệ đối tác giữa cộng đồng – doanh nghiệp, và cơ sở hạ tầng ở huyện và xã sẽ có vai trò quan trọng đối với phụ nự tại những cộng đồng này. Đây là một dự án đa ngành dưới sự quản lý của ngành lâm nghiệp. Các hoạt động của dự án không chỉ liên quan đến ngành lâm nghiệp mà còn cả ngành nông nghiệp, chăn nuôi, du lịch và tài chính các-bon. Sự tham gia của phụ nữ trong dự án sẽ bị ản hưởng bởi những xu hướng hiện nay và sự tương tác giữa các bên tham gia trong những ngành này. Dự án sẽ ảnh hưởng đến cách thực hiện giảm rủi ro thiên tai, liên quan mật thiết đến phụ nữ. Dự án sẽ ảnh hưởng đến cách cộng đồng xử lý các hiện tượng thiên tai và thích ứng với biến đổi khí hậu. Trong quá trình này, những phụ nữ dễ bị tổn thương có thể bị ảnh hưởng một cách không tương xứng. A1 2.2. Quy trình và Kết quả đánh giá xã hội Đánh giá xã hội đưa ra một phân tích dựa vào công tác hiện trường tại các cộng đồng ven biển là mục tiêu của dự án. Phụ nữ được tham gia đầy đủ trong phân tích này: phụ nữ chiếm 49% trong số 325 người trả lời trong điều tra hộ gia đình. Thảo luận nhóm trọng tâm được thực hiện với các nhóm cả nam và nữ và phụ nữ đơn thân cũng được đặc biệt mời đến tham gia. Phụ nữ tại các xã mục tiêu của dự án Dự án sẽ được thực hiện trong một môi trường với sự khác biệt đáng kể về thể hệ. Trình độ giáo dục tại vùng dự án về tổng thể tương đối cao. Phần trăm phụ nữ làm cán bộ nhà nước khá cao. Hầu hết họ tốt nghiệp cao đẳng và đại học. Tuy nhiên, trình độ học vấn tại các xã nông thôn ven biển chỉ ở mức trung bình so với các khu vực khá giả. Phụ nữ tuổi trung niên ít có cơ hội tiếp cận với giáo dục chính thống. Phụ nữ chiếm tỷ trọng lớn trong lực lượng lao động nông nghiệp và thủy sản, đây là hai nguồn thu nhập chính tại địa phương của các hộ gia đình. So với trước kia, vai trò của phụ nữ trong các quyết định của gia đình và trong quá trình ra quyết định sản xuất nông nghiệp đã tăng lên. Với sự hỗ trợ từ Hội Phụ nữ, sự tham gia của phụ nữ trong các cuộc họp cộng đồng đang tăng lên theo như quan sát trong đánh giá xã hội. Tuy nhiên, một phân tích về vai trò giới cho thấy phụ nữ không có trách nhiệm đối với những quyết định lớn hơn trong cả lĩnh vực kinh tế và chính trị. Những vị trí như Chủ tịch hay Phó Chủ tịch UBND xã đều do nam giới nắm giữ. Các cán bộ nhà nước là nữ giới có thể giữ những vị trí chức vụ thấp khi chỉ làm công việc kiêm nhiệm. Thiếu thông tin về vị thế của phụ nữ tại các lâm trường nhà nước nhưng có thể tương tự như trên. Kết quả là thu nhập cá nhân của phụ nữ nói chung thấp hơn nam giới. Phụ nữ cũng thường làm rất nhiều việc trong cả công việc nông nghiệp và gia đình. Họ tiêu tốn khoảng từ 9 đến 11 tiếng/ngày cho các hoạt động sản xuất, so với từ 7-8 tiếng/ngày của nam giới. Trong vùng dự án, sự khác biệt đáng kể dự kiến là giữa các tỉnh và xã phát triển hơn và kém phát triển hơn. Việc sử dụng nhà vệ sinh hợp vệ sinh là 99,9% tại Hải Phòng và chỉ 41,9% ở tỉnh Hà Tĩnh, đây là một chỉ số của những khác biệt này. Các xã ven biển gần với các trung tâm đô thị cũng sẽ khác với các xã nông thôn vùng sâu xa. Các cuộc phỏng vấn tại hầu hết các xã đều cho thấy những khó khăn cụ thể mà nhiều phụ nữ đơn thân hoặc đã ly dị (có người phụ thuộc, hoặc khóa phụ) đang phải đối mặt. Những gia đình do phụ nữ làm chủ có ít lực lượng lao động hơn trong khi đất đai tại nhiều địa phương được giao dựa trên số lao động của hộ gia đình.
Phụ nữ trong vùng dự án chủ yếu chỉ tiếp cận được với những cơ hội không việc không cần tay nghề, ví dụ như trong nông nghiệp, hay tự làm chủ trong nông nghiệp quy mô nhỏ. Tại các cộng đồng có rừng ngập mặn, những hộ gia đình nghèo hơn và phụ nữ có cuộc sống lênh đênh trên các đầm phá và sông, đang phải đối mặt với nhiều khó khăn. Phụ nữ ở đây thường khai thác các nguồn thủy sản hoặc lâm sản ngoài gỗ để kiếm sống. Tại các thôn ven biển, khai thác nguồn thủy sản ven biển làm một hoạt động quan trọng đối với phụ nữ, trong khi nam giới thường đánh bắt xa bờ. Trồng rừng ngập mặn và rừng ven biển trên đất liên hiện là nhiệm vụ chính của phụ nữ tại vùng dự án. Phụ nữ chiếm tới khoảng 80% lao động trồng cây. Ngược lại với vai trò của họ trong nông nghiệp và lâm nghiệp, ít phụ nữ nông thôn có thể tiếp cận với đào tạo nghề và dịch vụ khuyến nông. Đào tạo nghề cho phụ nữ chỉ là các khóa ngắn hạn và tập trung vào các kỹ năng “truyền thống” của phụ nữ. Mặc dù đánh giá xã hội không phát hiện được những đặc điểm cụ thể của vùng dự án liên quan đến sở hữu tài sản, có vẻ như cũng giống như các nơi khác ở Việt Nam, việc sở hữu tài sản có giá trị như đất và nhà ở của phụ nữ ít được đảm bảo hơn so với nam giới. Đất rừng trong rừng ngập mặn và rừng ven biển trên cạn chủ yếu dưới sự quản lý của các BQL rừng và lâm trường quốc doanh, sau đó giao khoán cho các hộ dân hoặc nhóm hộ, chỉ ghi chủ hộ trong những hợp đồng dạng này. Quyền hạn yếu hơn đối với nguồn lợi, phụ nữ cũng ít được tiếp cận với tín dụng chính thống, bởi vì ngân hàng nói chung thường yêu cầu chứng nhận quyền sử dụng đất làm vật thế chấp.
Chính phủ Việt Nam đã thiết lập một khung thể chế và pháp lý toàn diện tăng cường bình đẳng giới. Quyền bình đẳng giữa phụ nữ và nam giới được công nhận trong hiến pháp năm 1992. Luật về bình đẳng giới (số 73/2006/QH11) được thông qua cách đây 10 năm. Bộ Lao động, Thương bình và Xã hội có Vụ Bình đẳng Giới từ năm 2008. Bộ NN và PTNT tham gia vào một số khung và Hiệp ước toàn cầu tất cả đếu có nội dung thúc đẩy quan điểm về giới, đặc biẹt là trong mối quan hệ với biến đổi khí hậu và giảm rủi ro thiên tai. Những yếu tố trong khung pháp lý liên quan trực tiếp đến dự án gồm: Chiến lược quốc gia về bình đẳng giới (2011-2020) có mục tiêu rõ ràng về sự tham gia của phụ nữ trong các vị trí quản lý và lãnh đạo, trong doanh nghiệp, và trong đào tạo nghề cho phụ nữ trẻ. Bộ NN và PTNT có chiến lược giới riêng của bộ mình, nêu rõ vai trò lãnh đạo của các tiểu ngành bao gồm ngành lâm nghiệp (Pham 2016). Luật đất đai sửa đổi (2013) yêu cầu ghi tên của các người vợ và người chồng trong giấy Chứng nhận quyền sử dụng đất đối với tất cả các loại đất, gồm cả đất lâm nghiệp. Chiến lược lâm nghiệp quốc gia (2006-2020) đã thành lập một đơn vị đầu mối chuyên trách về giới. Nhu cầu phát triển năng lực cho các cán bộ ngành lâm nghiệp được nêu trong chiến lược này (Pham 2016).
Rõ ràng không có sự kết nối giữa khung (pháp lý) tương đối hoàn thiện này với tình hình thực tế ở các cơ quan chính phủ. Trong ngành lâm nghiệp, các các cán bộ chủ yếu là nam giới ở tất cả các cấp. Cán bộ địa phương cho rằng thiếu hướng dẫn từ trung ương là một yếu tốt gây hạn chế việc lồng ghép bình đẳng giới vào công việc của họ và “lồng ghép giới” được coi là một yêu cầu mang tính hành chính” (Pham 2016), từ phân tích giới chương trình UN-REDD Việt Nam). Tuy nhiên, sự có mặt của phụ nữ trong số những nhà hoạch định chính sách công không thể hiện rõ trong ngành này do có những bất lợi đặc trưng đối với phụ nữ trong lĩnh vực công nói chung. Tuổi nghỉ hưu bắt buộc là 55 là một rào cản đáng kể trong việc tăng sự lãnh đạo của phụ nữ trong chính phủ (World Bank 2011). Tại một số Sở NN và PTNT hay các cơ quan kiểm lâm, chỉ phụ nữ được tuyển dụng làm kế toán (Sở NN và PTNT 2016). Nhân lực và và việc làm tại các cộng đồng nông thôn Các khu vực nông thôn của Việt nam có nhiều lực lượng lao động kỹ năng kém và trung tuổi không có bằng cấp, và một tỷ lệ phụ nữ không cân đối trong đó. Chỉ có 3% phụ nữ được coi là các công nhân được đào tạo vào năm 2015 trong ngành nông nghiệp, thủy sản và lâm nghiệp trên cả nước. Khoảng cách giới về tiền công cũng đáng kể đối với việc làm không được đào tạo tại Việt Nam: phụ nữ được bằng 75% số tiền công tháng của nam giới vào năm 2009. Tình hình đã kém hơn so với năm 2009, lúc đó tỷ lệ là 80%. Khoảng cách này được ghi nhận nhiều nhất đối với các công nhân lành nghề trong lĩnh vực nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản trong đó tiền công hàng tháng của phụ nữ chỉ được 65% so với đồng nghiệp nam của mình, điều này phản ánh sự thiên vị rất lớn về tổng thể trong những ngành này (World Bank 2011). Tại các tỉnh đồng bằng sông Hồng, lao động nông nghiệp chủ yếu là nữ, với 40% phụ nữ tham gia vào nông nghiệp so với con số chỉ 28% nam giới. Tại các vùng Bắc Trung bộ và ven biển Trung bộ, việc làm nông nghiệp đóng vai trò quan trọng hơn và cân đối hơn giữa nam giới và phụ nữ (UN Women tại Việt Nam vào năm 2016). Phụ nữ tham gia vào tất cả các giai đoạn sản xuất chăn nuôi, đặc biệt là lợn và gia cầm (UNIFEM 2008). Hiện có sự giảm đi đáng kể khoảng cách giới trong giáo dục đối với các thế hệ trẻ hơn. Trẻ em gái có cơ hội bình đẳng trong tiếp cận giáo dục trung học và có vẻ như khả năng tiếp cận của các em với các trường đại học đang tăng nhanh (UN Women và MOLISA 2016). Sở hữu và kiểm soát tài sản Sau gần 15 năm thực hiện Luật Đất đai năm 2003, số nông dân là nữ giới được chính thức có quyền đối với đất nông nghiệp còn ít ỏi. Năm 2013, tỷ lệ phụ nữ nông thôn được ghi là người chủ duy nhất (17%) hay đồng sở hữu với người chồng của mình (14%) trên chứng nhận quyền sử dụng đất vẫn còn thấp hơn so với tỷ lệ nam giới nông thôn được ghi là chủ sở hữu duy nhất (59%). Những hộ gia đình mà chủ hộ là nữ tại Việt Nam có ít cơ hội tiếp cận với đất nông nghiệp và lâm nghiệp (Bộ NN và PTNT 2016). Các hộ gia đình này thường không được đưa vào các chương trình quản lý rừng do họ bị đánh giá là không có đủ lao động (Bộ NN và PTNT 2016). Tuy nhiên, tại các tỉnh dự án, các hộ gia đình do phụ nữ làm chủ có ít bất lợi hơn so với các gia đình có nam giới làm chủ ở các vùng khác (UN Women, 2016). Nông nghiệp là một ngành kinh tế với sự phân biệt rất rõ ràng vai trò giới mặc dù những thông tin chia tách theo giới tính còn hạn chế. Nói chung, các đầu tư và nguồn lực thủy sản chủ yếu do nam giới kiểm soát. Lao động thuê ngoài chủ yếu là phụ nữ. Phụ nữ tích cực trong các hoạt động khai thác và bán các sản phẩm thủy sản giá trị thấp (UNIFEM 2008). Tiếng nói và cơ quan Có những khuôn mẫu rõ nét trong xã hội Việt Nam liên quan đến quá trình ra quyết định. Ví dụ, liên quan đến chuẩn bị cho thiên tai và thích ứng biến đổi khí hậu, những nhà nghiên cứu đã chỉ ra cách ra quyết định của nam giới trong các đầu tư lớn trong khi phụ nữ tham gia vào các thảo luẩn trong gia đình và đưa ra quyết định về những công việc có giá trị thấp (UNIFEM 2008). Hội Phụ nữ Việt Nam có mặt ở tất các cấp hành chính, từ trung ương tới xã. Tổ chức này hoạt động hiệu quả trong việc thúc đẩy phụ nữ thực hiện các chính sách quốc gia hoặc địa phương, nhưng kém hiệu quả hơn trong việc thể hiện và bảo vệ lợi ích của phụ nữ. Hội Phụ nữ thường được tham vấn về các vấn đề ảnh hưởng đến phụ nữ hoặc trẻ em, và đôi khi có cả những vấn đề chính sách phát triển kinh tế-xã hội. Trong những quá trình yêu cầu tham vấn cộng đồng như REDD+, hai yếu tố thực tế cản trở sự tham gia của phụ nữ đã được xác định. Yếu tố thứ nhất, chiếm yếu thế hơn đó là các thành viên nam của cộng đồng có xu hướng chi phối các cuộc thảo luận. Yếu tố thứ hai là, thời gian và vị trí của các cuộc họp có thể không thuận tiện cho phụ nữ (UN REDD Vietnam 2013). A1 3. Cơ hội và rủi ro tiềm ẩn Tóm lại, dự án là một cơ hội đem lại lợi ích tích cực cho phụ nữ, họ có cơ hội bình đẳng trong việc tiếp cận với một số hoạt động của dự án. Việc này cần có hành động cụ thể. Cần có hành động nhằm tránh hoặc giảm thiểu rủi ro tiềm ẩn xảy ra tác động tiêu cực tại một số địa phương hay đối với một số nhóm mục tiêu và tăng cường sự quan tâm đến các mức chi trả tiền công công bằng. Bảng A1 1. Tóm tắt các cơ hội và rủi ro
A1 3. Đánh giá tổng thể Không giống như lâm nghiệp thương mại ở vùng núi cao xa xôi, phục hồi rừng ven biển, là để hỗ trợ sự tham gia tích cực của những phụ nữ sống gần rừng tại các cộng đồng địa phương. Dự án có tiềm năng tăng cường quyền lợi thực tế và chiến lược của phụ nữ. Ngược lại, nếu không tiến hành các bước đi cụ thể trong quá trình thực hiện dự án, phụ nữ có thể chỉ được hưởng lợi chủ yếu từ những cơ hội việc làm không được đào tạo với tiền công thấp, và vị thế của họ trong cộng đồng có thể vẫn dậm chân tại chỗ hoặc thậm chí kém đi. Có thể thiết lập mối quan hệ lợi ích hai chiều giữa việc đưa quan điểm giới vào thiết kế và thực hiện dự án và đồng thời đảm bảo những kết quả thành công của dự án. Với sự tham gia của các thành viên cộng đồng gồm cả nam giới và phụ nữ, có thể xác định được các giải pháp toàn diện và hiệu quả hơn để quản lý tài nguyên bền vững và làm theo các giải pháp đó. Ngược lại, phụ nữ tham gia vào quản lý tài nguyên bền vững hơn sẽ được hưởng lợi từ việc vị thế của họ trong cộng đồng được nâng lên. Ngoài ra, cần có các giải pháp thực tế để giảm thiểu tác động do đóng rừng đối với các hộ gia đình dễ bị tổn thương sinh kế phụ thuộc vào rừng ven biển và phụ nữ trong những hộ này. A1 3.2. Tiếp cận công bằng Tập huấn kỹ thuật và khuyến nông. Thông qua tuyển dụng và chi trả cho các thành viên của cộng đồng, hầu hết là phụ nữ, cho trồng rừng ven biển, dự án sẽ đem lại cho phụ nữ cơ hội tạo thu nhập. Dự án có thể đảm bảo rằng những phụ nữ thực hiện việc trồng rừng cũng chính là những người được tập huấn khuyến nông và các kỹ năng cần thiết cần cho công việc của mình. Nếu không quan tâm đặc biệt đến việc tham dự trong khuyến nông và tập huấn, các hoạt động này có thể chỉ được tiếp cận bởi hầu hết là nam giới- những người không thực sự tham gia vào việc trồng rừng. Điều này có thể ảnh hưởng đến tỷ sống của cây. Và cũng có thể dẫn đến tình trạng trợ cấp cho tập huấn sẽ do các thành viên nam trong gia đình hưởng lợi, và thất bại trong việc công nhận vai trò của phụ nữ và kiến thức thực tế về trồng rừng. Rừng ngập mặn và các hợp đồng quản lý cộng đồng. Những khu rừng ngập mặn được giao cho các hộ gia đình hoặc nhóm hộ bảo vệ và quản lý với sự hỗ trợ của dự án sẽ làm thay đổi tình hình tiếp cận rừng từ mở sang đóng, đặc biệt là nếu các gia đình và cộng đồng phát triển nuôi trồng thủy sản quảng canh. Chỉ những người giám sát rừng mới có quyền khai thác nguồn lợi trong đó. Phụ nữ những người đây phụ thuộc vào những khu rừng ngập mặn được vào thoải mái để kiếm sóng có thể bị loại ra khỏi bố trí quản lý mới này. Các hợp đồng quản lý rừng hộ gia đình. Trong trường hợp ly dị hoặc chồng chết, phụ nữ có thể bị mất quyền tiếp cận với các nguồn lợi từ hợp đồng cá nhân hay tham gia vào một hợp đồng cộng đồng nếu những hợp đồng đó không có tên của họ. Nếu rừng được giao cho các nhóm cộng đồng, việc đưa một câu vào trong hợp đồng thành lập nhóm chỉ rõ rằng cả người vợ và người chồng có thể đại diện cho hộ thành viên sẽ nâng cao vị thế của người phụ nữ và bảo vệ tốt hơn quyền lợi của họ. A1 3.3 Những rủi ro tiềm ẩn của tác động khác biệt Phụ nữ trong trồng rừng. Nếu không có các hành động cụ thể, tiền công chi trả cho công nhân nữ để trồng và chăm sóc rừng có thể sẽ thấp hơn đáng kể so với trả cho nam giới. Việc này sẽ dẫn tới thu nhập thấp. Điều này cũng tiếp tục củng cố thêm nhận thức bất lợi về vai trò của phụ nữ trong các cộng đồng nông thôn. Ngoài ra, các chiến dịch trồng rừng có thể vừa bỏ qua những người phụ nữ mà gia đình họ không có nhiều lao động và vừa tăng quá mức khối lượng công việc của những phụ nữ tham gia. Chuỗi giá trị nuôi trồng thủy sản và chăn nuôi. Dự án dự kiến sẽ khuyến khích việc ký hợp đồng giữa các cộng đồng và hợp tác với các bên liên quan trong nuôi trồng thủy sản. Việc này có thể củng cố tình hình hiện tại mà phụ nữ hiện đang có xu hướng chỉ có vai trò rất hạn chế trong quản lý các nguồn lực nuôi trồng thủy sản. Trong ngành chăn nuôi như nuôi lợn, dự án có thể thúc đẩy việc chuyển đổi từ chăn nuôi gia đình quy mô nhỏ sang các hoạt động quy mô lớn hơn sử dụng lao động trả công, có tác động đến vị thế của người phụ nữ trong những hoạt động này. Các nhà đầu tư vào ngành du lịch và bảo vệ rừng. Các công ty phát triển những khu nghỉ dưỡng có thể đặc biệt quan tâm đến việc bảo vệ cảnh quan rừng ven biển quanh các cơ sở hạ tầng của mình và có thể tiếp cận với tín chỉ các-bon. Có khả năng sẽ xuất hiện mối quan hệ quyền lực không bình đẳng giữa các cộng đồng ven biển nghèo và các bên tham gia kinh tế trong ngành du lịch. Dự án xây dựng một khung tiến trình để đảm bảo hoạt động tham vấn và nhằm giảm thiểu các tác động dự án gây ra. Những phụ nữ dễ bị tổn thương xứng đáng là một nhóm mục tiêu đặc biệt trong tiến trình này. Có thể phát huy các biện pháp giảm nhẹ sáng tạo, ví dụ như tài trợ cho các nguồn năng lượng thay thế và trang thiết bị cho đun nấu. A1 3.4. Cơ hội để thu hẹp khoảng cách Hạ tầng nông thôn quy mô nhỏ. Nâng cấp và sửa chữa đường liên xã sẽ giúp người dân địa phương, đặc biệt là phụ nữ, giúp tiết kiệm thời gian đi lại và tăng tính lưu động và tiếp cận với các thị trường, với điều kiện là thiết kế đường phải lồng vào nhu cầu của địa phương. Các tác động tích cực của sự tham gia của phụ nữ trong quản lý tài nguyên bền vững. Trong ngành lâm nghiệp, nghiên cứu gần đây chỉ ra những tác động tích cực của sự tham gia của phụ nữ trong công tác quản lý rừng cộng đồng ở chính quyền địa phương và quản lý tài nguyên (Pham 2016). Mặc dù mang tính kinh nghiệm và trên thực tế không bắt nguồn từ Việt Nam, những kinh nghiệm này là cơ sở quan trọng để khuyến khích sự tham gia của phụ nữ trong các nhóm được dự án hỗ trợ. Một số xã đã tìm được cơ hội để phát triển du lịch sinh thái cùng với bảo tồn rừng ngập mặn. Phụ nữ có thể đóng vai trò tích cực trong việc phát triển các hoạt động như vậy, cả ở trong gia đình và ngoài cộng đồng. Vườn ươm cây giống. Khi phụ nữ tiếp cận được với nhiều hoạt động tập huấn kỹ thuật hơn về trồng cây, họ sẽ nghĩ đến việc phát triển các vườn ươm tư nhân và các ngành kinh doanh khác liên quan đến cây con. Nếu dự án cung cấp thêm tập huấn về phát triển và quản lý kinh doanh để bổ sung cho hoạt động tập huấn kỹ thuật, tác động của dự án sẽ không chỉ giúp phụ nữ thực hiện tốt nhiệm vụ trồng rừng ven biển của mình. Phụ nữ rất năng động trong các doanh nghiệp nhỏ ở Việt Nam vì thế hỗ trợ của dự án sẽ tiếp cận được với các doanh nhân nữ nếu kế hoạch vườn ươm tư nhân vẫn chỉ nằm ở quy mô nhỏ. Giảm rủi ro thiên tai. Nếu đảm bảo được sự kết nối giữa các hoạt động của dự án và giảm rủi ro thiên tai, phụ nữ có tiếng nói hơn trong quản lý những khu rừng có vai trò phòng hộ thiên tai có thể tham gia một cách bình đẳng vào quá trình ra quyết định để sẵn sàng cho thiên tai. Nhờ đó, những đối tượng phụ nữ dễ bị tổn thương được hưởng lợi từ các chương trình sẵn sàng với thiên tai, với điều kiện những cộng đồng tham gia vào dự án vẫn đủ điều kiện tham gia vào những chương trình đó. A1 4. Những bài học kinh nghiệm từ các chương trình và dự án tương tự Chiến lược giới của NHTG khuyến nghị xây dựng một hiểu biết tốt hơn và dựa trên những gì hoạt động tốt, trong mối quan hệ đối tác với nhiều tổ chức. Thông tin trong phần này dựa trên nhiều dự án do NHTG tài trợ tại Việt Nam cũng như từ dự án Phát triển ngành lâm nghiệp của Việt Nam vừa hoàn thành. Hệ thống khuyến khích trong các dự án lâm nghiệp. Lồng ghép quan điểm giới trong ngành lâm nghiệp với việc đưa cách tiếp cận “cây và con người” vào ngành lâm nghiệp. Điều này có nghĩa thiết lập sự cân bằng giữa các thành tựu về kỹ thuật trong lâm nghiệp (diện tích, giống được cải thiện, tỷ lệ sống) và các kết quả xã hội và kinh tế. Những người thực hiện và tư vấn của dự án cần được khuyến khích suy nghĩ về việc “hoạt động của dự án này ảnh hưởng đến người dân địa phương như thế nào, và ảnh hưởng đến phụ nữ và nam giới khác nhau như thế nào?”. Tiến trình có sự tham gia trong lâm nghiệp. Thiết kế dự án chi tiết thông qua sự tham gia cộng đồng được xây dựng tốt ở Việt nam. Tuy nhiên, quy mô và chi phí cho thiết kế có sự tham gia là một vấn đề thường trực do các xã được hình thành từ nhiều thôn, và tương tác ở cấp thôn mất nhiều thời gian. Những dự án thành công đã xác định được một tiến trình từng bước một đơn giản đảm bảo sự tham gia đầy đủ trong khi vẫn duy trì được hiệu quả về chi phí. Xác định vai trò của phụ nữ. Mạng lưới Hội Phụ nữ có thể được huy động nếu xác định rõ được những nhiệm vụ cụ thể và ngân sách. Những chi tiết thực tế trong thực hiện dự án có thể hiệu quả nếu nó tăng cường sự quan tâm đến khía cạnh giới. Bất kỳ mẫu tiêu chuẩn yêu cầu thông tin về “những người tham gia” cần phải thu thập tên và giới tính của chính người tham gia. A1 5. Tác động của thiết kế dự án A1 5. 1 Những nguyên tắc được khuyến nghị Dự án Hiện đại hóa ngành lâm nghiệp và tăng cường tính chống chịu vùng ven biển là một dự án sáng tạo thực hiện ở những vùng tương đối dễ tiếp cận với tiềm năng phát triển kinh tế từ nhiều ngành. Không khuyến nghị một chiến lược lồng ghép giới mà trong đó tất cả các hoạt động dự án phải chú trọng việc tiếp cận với cả nam giới và phụ nữ và phải đạt được các mục tiêu tham gia tối thiểu dành cho phụ nữ. Thay vào đó, một chiến lược được thiết kế cho các điểm đặc trưng của dự án được khuyến nghị. Chiến lược này sẽ dưới dạng một bộ ba nguyên tắc: Nguyên tắc 1: phụ nữ nhân tố của quản lý tài nguyên dựa vào cộng đồng tại các khu vực ven biển. Nguyên tắc 2: doanh nhân siêu nhỏ là nữ giới và những đối tượng phụ nữ dễ bị tổn thương cần được quan tâm đặc biệt trong quá trình thực hiện dự án Nguyên tắc 3: các doanh nghiệp tiếp cận với mối quan hệ đối tác trong dự án sẽ phải đảm bảo phụ nữ được tiếp cận công bằng với lợi ích dự án. Trong từng lĩnh vực như vậy, sự quyết tâm, chủ nghĩa thực tế và thúc đẩy công việc từng chút một trong thời gian dài sẽ đem lại những kết quả tốt hơn trong việc đạt được bình đẳng giới hiệu quả hơn so với cuộc chạy đua ngắn hạn. Chiến lược cấp dự án nhất quán với khung quốc gia của NHTG.
A1 5.2 Kế hoạch hành động giới Thực hiện các nguyên tắc của dự án về giới cần thực hiện các hành động chủ chốt sau đây: Đối với nguyên tắc 1: Thúc đẩy việc đưa phụ nữ vào các ban quản lý đồng quản lý cộng đồng gồm trong các vị trí lãnh đạo và xây dựng năng lực lãnh đạo Xác định các phương án đồng quản lý xây dựng trên cơ sở những ưu tiên của phụ nữ đã đề cập ở trên. Đối với nguyên tắc 2: Tích cực hỗ trợ phụ nữ thành các doanh nhân siêu nhỏ Giám sát mức tiền công và tiếp cận công bằng trong đào tạo cho lực lượng lao động nữ trong trồng cây Tài trợ cho các giải pháp thay thế vật liệu và trang thiết bị đun nấu cho những đối tượng hộ gia đình dễ bị tổn thương. Nguyên tắc 3: chịu trách nhiệm xã hội của các nhà điều hành kinh tế. Dự án sẽ: Đưa các tiêu chí liên quan vào các tiến trình lựa chọn cạnh tranh Mời cam kết chính thức của các nhà kinh tế chính. Bảng sau đây cung cấp chi tiết cho từng hợp phần. M viết tắt cho các hành động giảm thiểu, E cho các hành động cung cấp cơ hội công bằng cho phụ nữ, và/hoặc G cho các hành động góp phần lấp đầy những khoảng trống giữa nam giới và phụ nữ trong các lĩnh vực liên quan trong bối cảnh dự án. Những hành động viết bằng chữ in nghiêng yêu cầu một ngân sách cụ thể. Hợp phần 1 – Quản lý hiệu quả rừng ven biển
Hợp phần 2 – Phát triển và phục hồi rừng ven biển
Hợp phần 3 – Tạo thu nhập bền vững từ rừng ven biển
Ngoài ra, có những hành động được xác định dưới đây:
Hợp phần 4 – Quản lý, Giám sát và Đánh giá dự án
A1 5.3. Trách nhiệm và Ngân sách cho Kế hoạch hành động giới BQL các dự án lâm nghiệp, thông qua BQL dự án trung ương, và nhóm chuyên trách của NHTG cùng chịu trách nhiệm thực hiện, giám sát và đánh giá kế hoạch hành động giới. BQL dự án tỉnh và nhóm chuyên trách, nếu phù hợp, sẽ mời Hội Phụ nữ tỉnh hỗ trợ các chiến dịch truyền thông và tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nhân nữ quy mô siêu nhỏ, những đứng đầu cộng đồng là nữ giới và những đối tượng phụ nữ dễ bị tổn thương. Nếu không thể huy động được Hội Phụ nữ, việc tạo điều kiện thuận lợi sẽ được thực hiện nội bộ hóa trong phạm vi các BQL dự án tỉnh. Sẽ có một khoản ngân sách cụ thể cho những việc sau đây:
Ước tính một số chi phí cụ thể Bảng A1 P1.2: Dự toán kinh phí cho Kế hoạch Hành động Giới
Kinh phí: Dự toán kinh phí này được thực hiện cho 47 huyện thuộc 8 tỉnh dự án. Каталог: sonn new -> static -> uploads -> images images -> BỘ NÔng nghiệp và phát triển nông thôn ban quản lý CÁc dự Án lâm nghiệP images -> Thi c ng vµ nghiÖm thu líp mãng cÊp phèi ®¸ d¨m trong kÕt cÊu ®êng t images -> DỰ Án nguồn lợi ven biển vì SỰ phát triển bền vững báo cáO ĐÁnh giá Xà HỘI images -> Ban hành Danh mục sửa đổi, bổ sung sản phẩm xử lý, cải tạo images -> BỘ NÔng nghiệp và phát triển nông thôn số: 24 images -> Chi cục kiểm lâm số: 97/bc-kl cộng hòa xã HỘi chủ nghĩa việt nam tải về 3.22 Mb. Chia sẻ với bạn bè của bạn: |