BỘ NÔng nghiệp và phát triển nông thôn tổng cục thủy sảN


(3). Chủ động xúc tiến thương mại và mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm thủy sản, hội nhập kinh tế thế giới



tải về 1.37 Mb.
trang7/12
Chuyển đổi dữ liệu15.08.2016
Kích1.37 Mb.
#20549
1   2   3   4   5   6   7   8   9   ...   12

(3). Chủ động xúc tiến thương mại và mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm thủy sản, hội nhập kinh tế thế giới.


Hoạt động xúc tiến thương mại, mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm thủy sản đã gặt hái được những thành công nhất định trong giai đoạn vừa qua, góp phần thúc đẩy sản xuất phát triển và thu ngoại tệ về cho đất nước. Đến năm 2010, thủy sản Việt Nam đã có mặt tại gần 164 quốc gia và vùng lãnh thổ. Trong đó, tập trung xuất khẩu vào một số thị trường chính như Nhật Bản, EU, Mỹ, Hàn Quốc, Trung Quốc, Nga, Đài Loan, ASEAN và một số nước khác. Đạt được những kết quả đó là do những nỗ lực và cố gắng không ngừng của các cơ quan hữu quan, các doanh nghiệp chế biến xuất khẩu, người dân tham gia nuôi trồng, khai thác thủy sản để tạo ra nguồn nguyên liệu cung cấp cho chế biến xuất khẩu.

Bên cạnh đó, nhu cầu về mặt hàng thủy sản trên thị trường thế giới và trong nước ngày càng gia tăng, đây cũng là động lực để thúc đẩy ngành sản xuất nguyên liệu (khai thác và nuôi trồng) phát triển.

Với việc quán triệt những quan điểm cơ bản được thể hiện trong đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, sự vận dụng sáng tạo, tổ chức thực hiện phù hợp với quy luật tự nhiên, kinh tế - xã hội và tính đặc thù của nghề cá, Việt Nam ngày càng có vai trò quan trọng trong nghề cá khu vực và quốc tế, là thành viên của Tổ chức Nông lương Liên Hiệp Quốc (FAO), tham gia tích cực hội nhập nghề cá ASEAN, là thành viên của Trung tâm Phát triển nghề cá Đông Nam Á (SEAFDEC), Mạng lưới các Trung tâm nuôi trồng thủy sản châu Á (NACA). Nghề cá Việt Nam cam kết thực hiện Công ước Liên hợp quốc về Luật biển năm 1982, các Quy tắc ứng xử nghề cá có trách nhiệm của FAO, tham gia Diễn đàn hợp tác kinh tế châu Á - Thái Bình Dương (APEC), ký và hiện đang thực thi Hiệp định hợp tác nghề cá Vịnh Bắc bộ giữa Việt Nam - Trung Quốc và đặc biệt ngày càng chủ động hội nhập sâu rộng sau khi Việt Nam là thành viên của Tổ chức thương mại quốc tế (WTO) nhằm phát triển bền vững ngành thủy sản và đã thực sự góp phần bảo vệ an ninh chủ quyền vùng biển.

3.3. Những tồn tại, hạn chế và nguyên nhân trong quá trình phát triển

Bên cạnh những thành tựu đạt được, ngành thủy sản nước ta trong giai đoạn vừa qua cũng gặp phải không ít những khó khăn, tồn tại do nhiều yếu tố chủ quan và khách quan tác động.


3.2.1. Tồn tại, hạn chế

(1). Phát triển ngành Thủy sản còn mang nhiều yếu tố bất cập, rủi ro và không bền vững. Tăng trưởng cao, song hiệu quả chưa tương xứng; đang có sự mất cân đối giữa các lĩnh vực ngành và các khâu trong quy trình sản xuất. Sự liên kết và phân công sản xuất còn nhiều tồn tại, việc xây dựng thương hiệu gần như mới bắt đầu; nguồn nguyên liệu chưa ổn định.


(2). Trong sản xuất kinh doanh vẫn còn nhiều tồn tại, bấp cập:

- Về khai thác hải sản, tàu thuyền vẫn tập trung khai thác hải sản ven bờ, ảnh hưởng xấu đến môi trường, nguồn lợi.

- Về nuôi trồng thủy sản, thiếu sự phối hợp giữa hoạt động của các ngành trong công tác bảo vệ môi trường; công tác cảnh báo môi trường, giám sát dịch bệnh trong nuôi trồng thủy sản, kiểm dịch thủy sản còn nhiều yếu kém. Chất lượng sản phẩm nuôi trồng, quản lý con giống, vùng nuôi theo hướng tạo sản phẩm an toàn vệ sinh thực phẩm còn nhiều hạn chế.

- Về chế biến xuất khẩu: Thiếu thông tin về thị trường xuất khẩu, công tác dự báo thống kê chưa kịp thời; vấn đề truy xuất nguồn gốc sản phẩm thủy sản vẫn đang trong quá trình tháo gỡ, khắc phục.


(3). Nguồn lợi thủy sản vùng biển ven bờ và nước ngọt bị khai thác quá giới hạn cho phép; diện tích mặt nước ngọt, lợ đưa vào nuôi trồng thủy sản đã tăng đến mức giới hạn; môi trường sống của các loài thủy sinh vật ở một số khu vực bị xâm hại, chất lượng có xu hướng ngày càng giảm.

(4). Cơ sở hạ tầng kỹ thuật nghề cá chưa được đầu tư tương xứng với nhu cầu phát triển, nhất là hạ tầng thủy lợi phục vụ cho nuôi trồng thủy sản; hệ thống cảng cá, bến cá, chợ thủy sản đầu mối, khu neo đậu tránh trú bão...

3.2.2. Nguyên nhân của các tồn tại, hạn chế


(1). Công tác quy hoạch còn nhiều bất cập, không theo kịp và đáp ứng nhu cầu phát triển.

Hiện tượng quy hoạch “theo” vẫn còn xảy ra ở nhiều nơi, nhiều địa phương; quy hoạch thiếu căn cứ, cơ sở khoa học và thực tiễn; quy hoạch chi tiết ở các địa phương thường tiến hành trước các quy hoạch phát triển tổng thể, quy hoạch vùng. Quy hoạch đã được xây dựng song do công tác kiểm soát, giám sát yếu kém, thậm chí không thực hiên nên vẫn xảy ra tình trạng phát triển với quy mô nhỏ lẻ, tự phát và không theo quy hoạch.

(2). Đầu tư thấp, dàn trải và không đồng bộ.

- Vốn đầu tư cho xây dựng hạ tầng những năm qua còn nhiều hạn chế, được cấp nhỏ giọt, dàn trải và thường chậm so với yêu cầu đầu tư. Đến hết năm 2007, nhà nước mới chỉ cân đối được ngân sách với lượng vốn rất ít (chỉ hơn 22% so với yêu cầu) để đầu tư cho sản xuất và tái sản xuất. Các cơ quan quản lý nguồn vốn còn thụ động trong việc bố trí cơ cấu vốn đầu tư làm cho hiệu quả đầu tư giảm.

- Thủy lợi cho NTTS là vấn đề bức xúc đã được đặt ra, song đầu tư cho lĩnh vực này còn rất khiêm tốn, nhất là hệ thống cấp, thoát nước riêng biệt cho các vùng nuôi tập trung. Hệ thống xử lý nước thải và chất thải rắn cho các vùng nuôi tập trung chưa được xây dựng và thực hiện theo quy định.

- Việc lựa chọn chủ đầu tư các dự án chưa thống nhất, chưa chú ý đến tính liên tục của dự án đầu tư từ khâu xây dựng đến khâu quản lý vận hành sau đầu tư. Do đó khi kết thúc đầu tư, việc đưa các dự án vào sử dụng thường chậm, hạn chế hiệu quả.


(3). Khoa học - công nghệ chưa được quan tâm đúng mức nghiên cứu khoa học chưa thực sự gắn liền với thực tiễn sản xuất


Mặc dù đã có những đóng góp đáng kể trong việc thúc đẩy phát triển ngành thủy sản, tuy nhiên KHCN vẫn còn nhiều hạn chế thể hiện ở một số điểm sau:

- Công nghệ bảo quản sau thu hoạch được nghiên cứu, song việc áp dụng còn nhiều hạn chế; nghề khai thác còn mang nặng tính thủ công, lạc hậu về công nghệ và quy mô nhỏ, làm cho chất lượng sản phẩm thấp, khó quản lý và hiệu quả không cao.

- Chưa đủ khả năng tạo lập được bộ giống mới đáp ứng nhu cầu chất lượng và thị hiếu thị trường, đặc biệt là giống phục vụ nuôi biển và thủy sinh vật cảnh chưa nhiều.

- Tình trạng dịch bệnh thủy sản phát sinh và phát tán nhanh, nh­ưng chư­a có giải pháp khắc phục kịp thời và phòng trị triệt để.

- Khả năng áp dụng công nghệ nuôi tiên tiến chỉ được thực hiện ở các dự án lớn, các doanh nghiệp có khả năng về tài chính. Các công trình nghiên cứu thường được tiến hành đơn lẻ, thiếu tính hệ thống nhằm đáp ứng nhanh yêu cầu của sản xuất là chính; có quy trình công nghệ nhưng chưa thể làm chủ công nghệ.

- Trong khai thác thủy sản tỷ lệ hao hụt vẫn cao; tình trạng sử dụng công nghệ thiếu thân thiện với môi trường nguồn lợi thủy sản vẫn còn khá phổ biến, đặc biệt chất nổ, xung điện, chất có độc tố và các loại lưới có kích thước mắt lưới quá nhỏ.




tải về 1.37 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4   5   6   7   8   9   ...   12




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương