34
- Thứ nhất, người bị hại là cá nhân, đang tồn tại vào thời điểm bị thiệt
hại, không phải là cơ quan, tổ chức.
Tuy có quan điểm cho rằng trong trường hợp tổ chức, pháp nhân bị tội
phạm trực tiếp gây thiệt hại thì phải xem tổ chức hoặc pháp nhân đó là người
bị hại, với lập luận “Người bị hại đơn giản là thuật ngữ có tính đại diện để chỉ
một địa vị tố tụng và bên trong nó cần được giải thích gồm những ai?
trong
điều kiện nào. Cũng giống như nguyên đơn dân sự được BLTTHS giải thích
bao gồm cá nhân, cơ quan, tổ chức. Không nên hiểu máy móc từ người trong
nghĩa Tiếng Việt mà làm hẹp phạm vi chủ thể được coi là người bị hại chỉ là
cá nhân. Trong tố tụng hình sự, không chỉ có người bị hại mà còn có người có
quyền, nghĩa vụ liên quan đến vụ án. Thực tế người có quyền, nghĩa vụ liên
quan không chỉ là cá nhân mà còn có tổ chức, pháp nhân” [57, tr. 27].
Nhưng theo quy định của luật thực định thì người bị hại là một con
người cụ thể, không phải là cơ quan, tổ chức, pháp nhân. Giáo trình Luật tố
tụng hình sự Việt Nam của Trường Đại học Luật Hà Nội và một số cơ sở đào
tạo Luật khác ở Việt Nam đã phân tích: “Luật tố tụng hình sự nước ta chỉ coi
người bị hại là công dân; pháp nhân hay tổ chức xã hội không được coi là
người bị hại” [64, tr. 126].
Người bị hại là cá nhân bao gồm công dân Việt Nam, người nước ngoài,
và phải là người đang sống và tồn tại vào thời điểm mà người đó bị thiệt hại,
nghĩa là trước thời điểm sinh ra (thai nhi) và khi người đã chết (tử thi) không
được gọi là người. Hành vi loại bỏ thai nhi hoặc xâm hại đến tử thi thì
thai nhi
và tử thi đó không phải là người bị hại.
Người bị hại là cá nhân là đặc điểm cơ bản nhất của người bị hại trong
pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ trước đến nay. Trong lịch sử tố tụng
36
thiệt hại về tài sản như bị mất mát, hư hỏng hoặc chiếm đoạt tài sản; thiệt hại
về tinh thần như bị xúc phạm uy tín, danh dự, nhân phẩm hoặc thiệt hại các
quyền và lợi ích hợp pháp khác. Trong trường hợp hành vi phạm tội chưa gây
ra thiệt hại thì không có người bị hại.
Chia sẻ với bạn bè của bạn: