hai, trong giai đoạn này cơ quan có thẩm quyền phải xác định có sự việc phạm
tội xảy ra hay không; Thứ ba, cơ quan có thẩm quyền ban hành quyết định
khởi tố vụ án hình sự sau khi xác định dấu hiệu của tội phạm, hoặc không khởi
tố vụ án hình sự sau khi xác định không có dấu hiệu của tội phạm.
26
Tác giả đồng tình với khái niệm được GS.TSKH Lê Cảm đưa ra, trong
khái niệm này, ngoài các yếu tố thuộc về nội hàm của khởi tố vụ án hình sự
nêu trên, còn bổ sung yếu tố rất quan trọng, đó là các cơ quan tư pháp hình sự
phải “căn cứ vào các quy định của pháp luật tố tụng hình sự” khi tiến hành
việc xác định có hay không các dấu hiệu của tội phạm. Yếu tố này rất quan
trọng, vì hoạt động xác minh không tuân quy định của pháp luật tố tụng hình
sự sẽ không có giá trị chứng minh và không được sử dụng làm chứng cứ.
Từ nội hàm khái niệm khởi tố vụ án hình sự nêu trên, có thể rút ra
những đặc điểm của khởi tố vụ án hình sự như sau:
- Thứ nhất, với tính chất là một giai đoạn độc lập và đầu tiên của tố tụng
hình sự, giai đoạn khởi tố vụ án hình sự có chức năng thực hiện các nhiệm vụ
cụ thể để xác định các tiền đề pháp luật về nội dung (dấu hiệu tội phạm) và
tiền đề pháp luật về hình thức (quyết định khởi tố vụ án hình sự) của việc điều
tra vụ án hình sự, cũng như các giai đoạn tố tụng hình sự tiếp theo.
Dấu hiệu tội phạm là tiền đề pháp luật về nội dung, được xác định trên
cơ sở: tố giác của công dân; tin báo của cơ quan, tổ chức, tin báo trên các
phương tiện thông tin đại chúng; CQĐT, VKS, Tòa án, Bộ đội biên phòng,
Hải quan, Kiểm lâm, Cảnh sát biển và các cơ quan khác của CAND, QĐND
được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra trực tiếp phát hiện tội
phạm; Người phạm tội tự thú. Sau khi tiếp nhận thông tin về tội phạm, cơ
quan có thẩm quyền phải tiến hành kiểm tra, xác minh nguồn tin, tùy từng sự
việc mà đề ra biện pháp kiểm tra, xác minh phù hợp. Qua kiểm tra, xác minh
thông tin về tội phạm, xác định có dấu hiệu của tội phạm thì cơ quan có thẩm
quyền khởi tố vụ án hình sự phải ra quyết định khởi tố; nếu không có dấu hiệu
tội phạm thì ra quyết định không khởi tố vụ án hình sự, đây là các văn kiện tố
27
tụng đặc trưng của giai đoạn khởi tố vụ án. Dấu hiệu tội phạm được xác định
trong giai đoạn khởi tố vụ án hình sự là cơ sở, căn cứ để cơ quan có thẩm
quyền tiến hành hoạt động điều tra, nói cách khác giai đoạn khởi tố vụ án hình
sự đã xác định tiền đề pháp luật về nội dung của việc điều tra vụ án hình sự.
Quyết định khởi tố vụ án hình sự là tiền đề pháp luật về hình thức (tố
tụng) của giai đoạn điều tra, sau khi có quyết định khởi tố vụ án hình sự thì
các hoạt động điều tra mới được tiến hành, trừ trường hợp đặc biệt cần ngăn
chặn ngay tội phạm hoặc đảm bảo cho việc điều tra sau này được tiến hành
thuận lợi thì một số hoạt động điều tra như bắt khẩn cấp, phạm tội quả tang,
khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi… có thể thực hiện trước khi
khởi tố vụ án. Quyết định khởi tố vụ án hình sự là văn bản pháp lý làm cơ sở
để tiến hành một cách hợp pháp các hoạt động tiếp theo nhằm làm rõ vụ án
hình sự và là cơ sở pháp lý trực tiếp của các quan hệ pháp luật tố tụng hình sự
phát sinh liên quan đến việc giải quyết vụ án. Chính vì vậy, quyết định khởi tố
vụ án hình sự phải tuân theo quy định chặt chẽ khi ban hành, trong đó phải ghi
rõ thời gian (ngày, tháng, năm) để làm cơ sở cho các thời hạn tố tụng, vì ngày
khởi tố vụ án hình sự là thời điểm bắt đầu để tính thời hạn điều tra vụ án. Sau
khi ra quyết định khởi tố vụ án, hàng loạt các biện pháp tố tụng trong đó có cả
những biện pháp cưỡng chế đối với người thực hiện tội phạm sẽ được áp dụng
nên quyết định khởi tố phải ghi rõ các căn cứ khởi tố, điều khoản BLHS được
áp dụng và họ tên, chức vụ người ra quyết định để nâng cao trách nhiệm cá
nhân khi ra quyết định khởi tố vụ án. Với giá trị pháp lý và các quy định chặt
chẽ trong việc ban hành quyết định khởi tố vụ án hình sự nên giai đoạn khởi tố
kết thúc bằng việc ra quyết định khởi tố vụ án hình sự đã xác định tiền đề
pháp luật về hình thức của việc điều tra vụ án hình sự.
28
Chia sẻ với bạn bè của bạn: |