2. Triết học Tây Âu cận đại thế kỷ XVII - XVIII
Từ cuối thế kỷ XVI đến thế kỷ XVIII là thời kỳ của những cuộc cách mạng tư sản bắt đầu ở Hà Lan, sau đến Anh, Pháp, ý, áo, v.v. và đây cũng là thời kỳ phát triển rực rỡ của triết học Tây Âu. Sự phát triển của lực lượng sản xuất mới làm cho quan hệ sản xuất phong kiến trở nên lỗi thời và mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất trở nên gay gắt là nguyên nhân kinh tế của những cuộc cách mạng thời kỳ này. Nhưng đòn giáng mạnh nhất vào chế độ phong kiến Tây Âu là cuộc cách mạng tư sản Anh (giữa thế kỷ XVII) và cách mạng tư sản Pháp (cuối thế kỷ XVIII). Theo lời Mác, đó là những cuộc cách mạng có quy mô toàn châu Âu, đánh dấu thắng lợi của trật tự tư sản mới đối với trật tự phong kiến cũ. Thời kỳ này cũng là thời kỳ phát triển mạnh của khoa học kỹ thuật do nhu cầu của sự phát triển sản xuất; thế kỷ XVII - XVIII cơ học phát triển, thế kỷ XVIII - XIX, vật lý học, hóa học, sinh học, kinh tế học ra đời. Tất cả cái đó làm tiền đề cho sự phát triển triết học mới với nhiều đại biểu nổi tiếng.
Phranxi Bêcơn (1561 - 1626) là nhà triết học Anh, sống vào thời kỳ tích lũy tiền tư bản. Về lập trường chính trị, ông là nhà tư tưởng của giai cấp tư sản và tầng lớp quý tộc mới, là tầng lớp quan tâm đến sự phát triển của công nghiệp và thương nghiệp.
Bêcơn đặt cho triết học của mình nhiệm vụ tìm kiếm con đường nhận thức sâu sắc giới tự nhiên. Ông đặc biệt đề cao vai trò của tri thức. Ông nói: Tri thức là sức mạnh mà thiếu nó, con người không thể chiếm lĩnh được của cải của giới tự nhiên.
Ông phê phán phương pháp triết học của các nhà tư tưởng trung cổ chỉ biết ngồi rút ra sự thông thái của mình từ chính bản thân mình, muốn thay thế việc nghiên cứu giới tự nhiên và những quy luật của nó bằng những luận điểm trừu tượng, bằng việc rút ra kết quả riêng từ những kết luận chung chung, không tính đến sự tồn tại thực tế của chúng. Ông gọi phương pháp ấy của họ là phương pháp "con nhện".
Bêcơn cũng phê phán phương pháp nghiên cứu của các nhà kinh nghiệm chủ
nghĩa. Ông ví họ như những con kiến tha mồi, không biết chế biến, không hiểu gì cả.
Triết học của Bêcơn đã đặt nền móng cho sự phát triển của chủ nghĩa duy vật siêu hình, máy móc thế kỷ XVII - XVIII ở Tây Âu.
Tômát Hốpxơ (1588 - 1679) là nhà triết học duy vật Anh nổi tiếng, người kế tục và hệ thống hóa triết học của Bêcơn. Ông là người sáng tạo ra hệ thống đầu tiên của chủ nghĩa duy vật siêu hình trong lịch sử triết học. Chủ nghĩa duy vật trong triết học của ông có một hình thức phù hợp với đặc trưng và yêu cầu của khoa học tự nhiên thời đó.
Nhìn chung quan niệm của Hốpxơ về con người như một cơ thể sống cũng mang tính siêu hình rõ rệt. Dưới con mắt của ông, trái tim con người chỉ như lò xo, dây thần kinh là những sợi chỉ, còn khớp xương là các bánh xe làm cho cơ thể chuyển động.
Rơnê Đêcáctơ (1596 - 1654) là nhà triết học và khoa học nổi tiếng người Pháp. Ông đã được các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác đánh giá là một trong những người sáng lập nên khoa học và triết học của một thời đại mới chống lại tôn giáo, chống lại chủ nghĩa kinh viện, xây dựng nên một tư duy mới có thể giúp cho việc nghiên cứu khoa học.
Khi giải quyết vấn đề cơ bản của triết học, Đêcáctơ đứng trên lập trường nhị nguyên luận (thuyết về hai nguồn gốc). Ông thừa nhận có hai thực thể vật chất và tinh thần tồn tại độc lập với nhau. Ông cố gắng đứng trên cả chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm để giải quyết vấn đề mối quan hệ giữa vật chất và tinh thần, giữa tồn tại và tư duy, song cuối cùng đã rơi vào chủ nghĩa duy tâm, vì ông thừa nhận rằng hai thực thể vật chất và tinh thần tuy độc lập nhưng đều phụ thuộc vào thực thể thứ ba, do thực thể thứ ba quyết định, đó là Thượng đế.
Đêcáctơ đã đấu tranh chống lại triết học kinh viện thời trung cổ, phủ nhận uy quyền của nhà thờ và tôn giáo. Ông muốn sáng tạo một phương pháp khoa học mới nhằm đề cao sức mạnh lý tưởng của con người, đem lý tính khoa học thay thế cho niềm tin tôn giáo mù quáng. Theo ông, nghi ngờ là điểm xuất phát của phương pháp khoa
học. Nghi ngờ có thể giúp con người tránh được những ý kiến thiên lệch, xác định được chân lý. Đêcáctơ nhấn mạnh rằng, dù anh nghi ngờ mọi cái nhưng không thể nghi ngờ rằng anh đang nghi ngờ. Và ông đã đi đến một kết luận nổi tiếng: "Tôi suy nghĩ vậy tôi tồn tại".
Điểm tiến bộ của luận điểm trên là phủ nhận một cách tuyệt đối tất cả những cái gì mà người ta mê tín. Trong luận điểm đó cũng thể hiện chủ nghĩa duy lý, vì ông nhấn mạnh sự suy nghĩ, tư duy. Ông cho rằng không phải cảm giác, mà tư duy mới chứng minh được sự tồn tại của chủ thể. Và tư duy rõ ràng, mạch lạc là tiêu chuẩn của chân lý.
Nhưng luận điểm "Tôi suy nghĩ vậy tôi tồn tại" cũng bộc lộ chủ nghĩa duy tâm chủ quan của Đêcáctơ, vì ông đã lấy tư tưởng, lấy sự suy nghĩ của chủ thể làm khởi điểm của sự tồn tại.
Xpinôda (1632 - 1677) nhà triết học Hà Lan nổi tiếng, nhà duy vật và vô thần, nhà tư tưởng của tầng lớp dân chủ tư sản.
Trong lĩnh vực triết học, nói chung Xpinôda cố gắng khắc phục những sai lầm của triết học Tây Âu thời trung cổ. Khi chống lại quan điểm nhị nguyên của Đêcáctơ coi quảng tính và tư duy là hai thực thể hoàn toàn độc lập, Xpinôda là nhà nhất nguyên luận, khẳng định rằng quảng tính và tư duy là hai thuộc tính của một thực thể.
Ông đã có quan niệm duy vật về thế giới. Thế giới, theo Xpinôda, có vô vàn cách thức vận động và đứng im. Có những cách thức thì gắn với thế giới các sự vật riêng lẻ có quảng tính (khoảng cách); có những cách thức thì gắn với thế giới các sự vật riêng lẻ có thuộc tính tư duy (thế giới con người).
Về tôn giáo, Xpinôda quan niệm rằng, sự sợ hãi là nguyên nhân của mê tín tôn giáo. Tư tưởng chống giáo quyền của ông thể hiện ở chỗ coi vai trò chính trị của nhà thờ là ở sự liên minh của nó với chính quyền chuyên chế.
Những tư tưởng duy vật - vô thần của Xpinôda có ảnh hưởng sâu sắc đến các nhà duy vật Pháp thế kỷ XVIII sau này.
Giôn Lốccơ (1632 - 1704) nhà triết học duy vật Anh Lốccơ mở đầu nhận thức luận của mình bằng việc phê phán học thuyết thừa nhận tồn tại các tư tưởng bẩm sinh của Đêcáctơ và môn phái theo học thuyết trên.
Theo ông, toàn bộ các tri thức, chân lý đều là kết quả nhận thức của con người chứ không phải là bẩm sinh.
Từ việc phê phán học thuyết thừa nhận các tư tưởng bẩm sinh, Lốccơ đưa ra nguyên lý tabula rasa (tấm bảng sạch); "Linh hồn chúng ta khi mới sinh ra, có thể nói như một tờ giấy trắng, không có một ký hiệu hay ý niệm nào cả"1.
Theo tinh thần duy vật của nguyên lý tabula rasa, Lốccơ khẳng định: "Mọi tri thức
đều dựa trên kinh nghiệm, và suy cho cùng đều xuất phát từ đó"2.
Gioocgiơ Béccli (1684 - 1753) nhà triết học duy tâm, vị linh mục người Anh. Triết học của ông chứa đầy tư tưởng thần bí, đối lập với chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa vô thần. Ông dựa vào quan điểm của các nhà duy danh luận thời trung cổ để khẳng định rằng, khái niệm về vật chất không tồn tại khách quan, mà chỉ tồn tại những vật cụ thể, riêng rẽ; sự tranh cãi về khái niệm vật chất là hoàn toàn vô ích, khái niệm đó chỉ là cái tên gọi thuần túy mà thôi. Ông đưa ra một mệnh đề triết học nổi tiếng "vật thể trong thế giới quanh ta là sự phức hợp của cảm giác". Nói tóm lại, theo Béccli, mọi vật chỉ tồn tại trong chừng mực mà người ta cảm biết được chúng. Ông tuyên bố: tồn tại có nghĩa là được cảm biết.
Triết học của Béccli (như Lênin nhận xét trong tác phẩm Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán) là mẫu mực và là một trong những nguồn gốc của các lý thuyết triết học tư sản duy tâm chủ quan cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX.
Đavít Hium (1711 - 1766) nhà triết học, nhà lịch sử, nhà kinh tế học người Anh. Ông là người sáng lập những nguyên tắc cơ bản của thuyết không thể biết ở châu Âu thời cận đại.
Lý luận nhận thức của Hium xây dựng trên cơ sở kết quả cải biến chủ nghĩa duy tâm chủ quan của Béccli theo tinh thần của thuyết không thể biết và hiện tượng luận (một học thuyết triết học cho rằng con người, chỉ nhận biết được hiện tượng bề ngoài của sự vật, mà không thể xâm nhập được vào bản chất của chúng, tách rời hiện tượng và bản chất).
Trung tâm trong lý luận nhận thức của Hium là học thuyết về tính nhân quả. Ông đã giải quyết vấn đề mối liên hệ nhân quả theo lập trường thuyết không thể biết. Ông cho rằng sự tồn tại của các mối liên hệ này là không thể chứng minh được, bởi vì, cái mà người ta cho là kết quả thì lại không thể chứa đựng trong cái nguyên nhân, về mặt lôgíc không thể rút kết quả từ nguyên nhân, kết quả không giống nguyên nhân. Nói cách khác, theo Hium, tính nhân quả không phải là một quy luật của tự nhiên mà chỉ là thói quen tâm lý.
Chia sẻ với bạn bè của bạn: |