2. Giai đoạn đề xuất những nguyên lý triết học duy vật biện chứng và duy vật lịch sử
Thời gian từ năm 1844 đến năm 1848 là quá trình Mác - Ăngghen từng bước xây dựng những nguyên lý triết học duy vật biện chứng và duy vật lịch sử.
Trong tác phẩm Bản thảo kinh tế - triết học năm 1844, Mác đã trình bày những quan điểm kinh tế và triết học của mình thông qua việc phê phán kinh tế chính trị học cổ điển của Anh và tiếp tục phê phán triết học duy tâm Hêghen; đồng thời ông vạch ra "mặt tích cực" của nó là phép biện chứng. Những quan điểm mới của Mác được thể hiện trong việc phân tích sự tha hóa của lao động với phạm trù "lao động bị tha hóa"; từ đó, Mác cắt nghĩa tự tha hóa bản thân con người và vạch ra con đường khắc phục sự tha hóa
đó.
Thuật ngữ "tha hóa" đã được sử dụng rộng rãi trong sách báo triết học thời ấy. ở Hêghen, đó là sự "tự tha hóa" của "ý niệm tuyệt đối" thành giới tự nhiên; ở Phoiơbắc, đó là sự tha hóa "bản chất tộc loại" của con người trong Chúa. Mác muốn cắt nghĩa sự tha hóa con người từ chính điều kiện sống và các quan hệ xã hội của con người, từ chính hoạt động thể hiện năng lực bản chất của nó là lao động, Mác xem sự tha hóa của lao động như một tất yếu lịch sử: "tự tha hóa" của lao động. Sự tồn tại và phát triển của "lao động bị tha hóa" gắn liền với sở hữu tư nhân. Khác với các nhà tư tưởng trước đây, cắt nghĩa sự ra đời chế độ sở hữu tư nhân tư bản do tính tham lam, ích kỷ của con người. Mác cho rằng sở hữu tư nhân được sinh ra do "lao động bị tha hóa", nhưng sau đó lại trở thành nguyên nhân của sự tha hóa của lao động và sự tha hóa của con người. Sự tha hóa đó phát triển cao độ trong chủ nghĩa tư bản, thể hiện ở sức lao động bị biến thành hàng hóa cũng như ở quá trình hoạt động sản xuất và sản phẩm của lao động; từ đó, dẫn tới "sự tha hóa của con người khỏi con người". Bởi vậy, việc khắc phục sự tha hóa ấy chính là sự xoá bỏ chế độ sở hữu tư sản. Việc giải phóng người công nhân khỏi "lao động bị tha hóa" dưới chủ nghĩa tư bản cũng là khắc phục lao động bị tha hóa nói riêng, là sự giải phóng con người nói chung.
Với sự phân tích trên, Mác luận chứng cho tính tất yếu của chủ nghĩa cộng sản trong sự phát triển xã hội. Mặc dù sự luận chứng này còn ở trình độ chưa chín muồi về lý luận, song nó đã cho phép phân biệt quan niệm của Mác về chủ nghĩa cộng sản với những quan niệm chủ nghĩa bình quân vốn có của các môn phái chủ nghĩa cộng sản không tưởng. Mác cũng đã tiến xa hơn Phoiơbắc rất nhiều trong quan niệm về chủ nghĩa cộng sản tuy vẫn dùng những thuật ngữ triết học của Phoiơbắc. Theo Mác, "chủ nghĩa
cộng sản như vậy, với tính cách là chủ nghĩa tự nhiên hoàn bị, = chủ nghĩa nhân đạo"1.
Ông bác bỏ thứ chủ nghĩa cộng sản bình quân mà ông gọi là chủ nghĩa cộng sản thô thiển, phủ nhận cá tính của con người, là sự "quay trở về tính giản dị không tự nhiên của con người nghèo khổ và không có nhu cầu"2.
1. C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t.42, tr. 167.
2. Sđd, t.42, tr. 165.
Từ góc độ triết học, Mác đã nhận thức chủ nghĩa cộng sản như một nấc thang lịch sử cao hơn chủ nghĩa tư bản, bởi vì đến chủ nghĩa tư bản thì lao động bị tha hóa đạt tới độ phát triển cao nhất khiến cho sự phủ định chủ nghĩa tư bản trở nên tất yếu với những tiền đề do chính chủ nghĩa tư bản đã tạo ra. Những hạn chế về lý luận của tác phẩm ban đầu này từng bước sẽ được khắc phục với sự hình thành ở Mác quan niệm duy vật về lịch sử.
Tác phẩm Gia đình thần thánh do Mác và Ăngghen viết chung được xuất bản tháng 2-1845. Cùng với việc phê phán quan điểm duy tâm về lịch sử của "phái Hêghen trẻ", đứng đầu là anh em nhà Bauơ, hai ông đã đề xuất một số nguyên lý cơ bản của triết học mácxít và của chủ nghĩa cộng sản khoa học. Tác phẩm Gia đình thần thánh đã chứa đựng "quan điểm hầu như đã hình thành của Mác về vai trò cách mạng của giai cấp vô sản" và cho thấy "Mác đã tiến gần như thế nào đến tư tưởng cơ bản của toàn bộ "hệ
thống" của ông... tức là tư tưởng về những quan hệ xã hội của sản xuất"3.
Tác phẩm Hệ tư tưởng Đức, được Mác và Ăngghen viết chung vào cuối năm 1845 - đầu năm 1846, đánh dấu một mốc quan trọng trong quá trình hình thành triết học Mác. Hệ tư tưởng Đức không chỉ là tác phẩm có quy mô lớn nhất trong thời kỳ hình thành triết học Mác mà còn có thể xem như là tác phẩm chín muồi đầu tiên của chủ nghĩa Mác(*). Thông qua việc phê phán các trào lưu triết học và chủ nghĩa xã hội đương thời ở Đức, Mác và Ăngghen đã trình bày quan niệm duy vật lịch sử một cách hệ thống và nhiều nguyên
lý cơ bản của chủ nghĩa cộng sản khoa học như những hệ quả của quan niệm duy vật lịch sử.
Trong tác phẩm Hệ tư tưởng Đức, các ông đã làm sáng tỏ "thế giới quan mới" của mình mà những luận điểm xuất phát đã được Mác soạn thảo trong 11 luận đề vào tháng 4-1845, nay được gọi là Luận cương về Phoiơbắc. Luận cương về Phoiơbắc của Mác được Ăngghen đánh giá là văn kiện đầu tiên chứa đựng mầm mống thiên tài của một thế giới quan mới.
Tư tưởng xuyên suốt của "Luận cương" là vai trò quyết định của thực tiễn đối với đời sống xã hội; từ đó nêu lên sứ mệnh góp phần "cải tạo thế giới" của triết học Mác (luận đề thứ 11). Với quan điểm thực tiễn đúng đắn, Mác đã vạch ra "khuyết điểm chủ yếu" của toàn bộ chủ nghĩa duy vật trước kia, kể cả chủ nghĩa duy vật của Phoiơbắc; đồng thời cũng phê phán và bác bỏ quan điểm của chủ nghĩa duy tâm về tính năng động, sáng tạo của tư duy. Cũng từ quan điểm duy vật biện chứng về thực tiễn, Mác đi tới nhận thức về mặt xã hội của bản chất con người "Trong tính hiện thực của
nó, - Mác viết - bản chất con người là tổng hoà những quan hệ xã hội"1.
Quan niệm duy vật lịch sử xem xét lịch sử xã hội xuất phát từ con người. Trong Hệ
3. V.I.Lênin: Toàn tập, Nxb. Tiến bộ, Mátxcơva, 1963, t.29, tr. 11, 13 (theo bản tiếng Nga).
(*) Tác phẩm Hệ tư tưởng Đức chưa được xuất bản khi Lênin còn sống nên Lênin xem tác phẩm Sự khốn cùng của triết học là tác phẩm chín muồi đầu tiên của triết học Mác.
1. C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t.3, tr. 11.
tư tưởng Đức, hai ông khẳng định: "Tiền đề đầu tiên của toàn bộ lịch sử nhân loại thì dĩ nhiên là sự tồn tại của những cá nhân con người sống"2. Song, đó là những con người hiện thực mà sản xuất vật chất là hành vi lịch sử đầu tiên của họ. Phương thức sản xuất vật chất không chỉ đơn thuần là tái sản xuất sự tồn tại thể xác của cá nhân, mà hơn thế "nó là một phương thức hoạt động nhất định của những cá nhân ấy, một hình thức nhất định của hoạt động sống của họ, một phương thức sinh sống nhất định của họ"3.
Sản xuất vật chất là cơ sở của đời sống xã hội. Do đó, để hiểu được con người, Mác đã đi sâu tìm hiểu sự sản xuất vật chất của con người trong xã hội. Nghiên cứu biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất (trong tác phẩm này hai ông dùng thuật ngữ "hình thức giao tiếp"), phát hiện ra quy luật vận động và phát triển của nền sản xuất vật chất của xã hội, triết học Mác đã đi tới nhận thức đời sống xã hội bằng một hệ thống các quan điểm lý luận thật sự khoa học.
Với tác phẩm Hệ tư tưởng Đức, quan niệm duy vật về lịch sử ở Mác đã hình thành. Quan điểm duy vật lịch sử tạo cơ sở lý luận khoa học vững chắc cho sự phát triển tư tưởng cộng sản chủ nghĩa của Mác và Ăngghen. Tuy vậy, trong Hệ tư tưởng Đức, học thuyết về chủ nghĩa cộng sản được các tác giả của nó trình bày như một hệ quả trực tiếp của phát hiện mới về triết học: quan niệm duy vật về lịch sử. Do đó, một số quan điểm về chủ nghĩa xã hội khoa học được nêu lên nhưng chưa có được sự diễn đạt rõ ràng; song, điều quan trọng là Mác và Ăngghen đã đưa ra phương pháp tiếp cận khoa học để nhận thức chủ nghĩa cộng sản. Chủ nghĩa cộng sản là một lý tưởng cao đẹp của nhân loại, nhưng lý tưởng đó được thực hiện từng bước với những mục tiêu cụ thể nào, bằng con đường nào; điều đó tùy thuộc vào điểm xuất phát và chỉ có qua phong trào thực tiễn mới tìm ra được những hình thức và bước đi thích hợp. "Đối với chúng ta - C.Mác và Ph.Ăngghen viết - chủ nghĩa cộng sản không phải là một trạng thái cần phải sáng tạo ra, không phải là một lý tưởng mà hiện thực phải khuôn theo. Chúng ta gọi chủ nghĩa
cộng sản là một phong trào hiện thực, nó xoá bỏ trạng thái hiện nay"1.
Trong tác phẩm Sự khốn cùng của triết học (1847) và Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản (tháng 2-1848), chủ nghĩa Mác được trình bày như một chỉnh thể các quan điểm lý luận nền tảng với ba bộ phận hợp thành của nó. Trong Sự khốn cùng của triết học, Mác tiếp tục đề xuất các nguyên lý triết học, chủ nghĩa cộng sản khoa học và đặc biệt là, như chính Mác sau này đã nói, "chứa đựng những mầm mống của học thuyết được trình bày trong bộ Tư bản sau hai mươi năm trời lao động".
Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản là văn kiện có tính chất cương lĩnh đầu tiên của chủ nghĩa Mác; trong đó cơ sở triết học của chủ nghĩa Mác được trình bày một cách thiên tài, thống nhất hữu cơ với các quan điểm kinh tế và các quan điểm chính trị - xã
hội. "Tác phẩm này - Lênin nhận định - trình bày một cách hết sức sáng sủa và rõ ràng
2. Sđd, t.3, tr. 29.
3. Sđd, t.3, tr. 30.
1. Sđd, t.3, tr. 51.
thế giới quan mới, chủ nghĩa duy vật triệt để - chủ nghĩa duy vật này bao quát cả lĩnh vực sinh hoạt xã hội, - phép biện chứng với tư cách là học thuyết toàn diện nhất và sâu sắc nhất về sự phát triển, lý luận đấu tranh giai cấp và vai trò cách mạng - trong lịch sử toàn thế giới - của giai cấp vô sản, tức là giai cấp sáng tạo một xã hội mới, xã hội cộng sản"2.
Với Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, triết học Mác và chủ nghĩa Mác nói chung đã hình thành và sẽ được Mác và Ăngghen tiếp tục bổ sung, phát triển trong suốt cuộc đời của hai ông trên cơ sở tổng kết những kinh nghiệm thực tiễn của phong trào công nhân và khái quát các thành tựu khoa học.
Chia sẻ với bạn bè của bạn: |