2, Đặc trưng của truyền hình 10


Những đặc điểm chung của thể loại ký



tải về 1.25 Mb.
trang15/17
Chuyển đổi dữ liệu05.08.2016
Kích1.25 Mb.
#13034
1   ...   9   10   11   12   13   14   15   16   17

1.2 Những đặc điểm chung của thể loại ký

Trong các thể ký nói chung và trong ký truyền hình nói riêng, đều có những đặc điểm sau:



  • Ký phản ánh hiện thực thông qua vai trò cái tôi trần thuật – nhân chứng khách quan trước hiện thực được phản ánh và khách quan với tất cả đối tượng tiếp nhận thông tin.

  • Việc xuất hiện cái tôi trần thuật trong tác phẩm ký là yếu tố cực kỳ quan trọng. Nó giúp cho tác giả ký sự có điều kiện phản ánh hiện thực sinh động hơn, có bề dày và bản sắc hơn.

  • Chính cái tôi trần thuật là khâu nối các dữ kiện, mở ra cho các thể ký môi trường quan sát mới mẻ trước hiện thực, làm cho hiện thực được phản ánh trở nên sinh động, đa diện và có hồn hơn so với hiện thực được trình bày ở các thể loại khác.

  • Ký có kết cấu co giãn, linh hoạt giàu chất văn học, từ đặc điểm kết cấu này hiện thực được trình bày trong tác phẩm thuộc ký báo chí được hiện lên với nhiều tình huống khác nhau, đan xen nhiều mảng của hiện thực với những màu sắc, âm thanh, hoàn cảnh, sự kiện, con người vô cùng phong phú. Bút pháp giàu chất văn học giúp cho tác giả trình bày mềm mại, uyển chuyển có tính hình tượng, tính thuyết phục cao.

  • Ngôn ngữ của ký mang tính tổng hợp của các loại phong cách ngôn ngữ khác nhau, trong đó vừa mang phong cách chính luận và nghệ thuật nên giàu hình ảnh, có sức biểu cảm.

  • Với sự kết hợp khá nhuần nhuyễn giữa ngôn ngữ báo chí và các phong cách ngôn ngữ khác tạo cho người viết tác phẩm ký trình bày và thẩm định hiện thực ưu thế hơn hẳn sự gò ép bởi lối văn thông tấn vốn được coi là đặc điểm của thể loại thông tấn, lối văn nghị luận chính trị - xã hội của thể loại chính luận.


1.3, Yên cầu của ký sự truyền hình:

  • Nắm chắc yêu cầu sản xuất của tác phẩm ký sự truyền hình với các thể loại khác.

  • Hình thành phong cách trong quá trình dựng và viết lời bình của người sáng tạo tác phẩm.

  • Xác định chủ đề, tìm ra ý tứ và phát triển theo tư duy của mình.

  • Trong ký sự truyền hình vừa kết hợp với các yếu tố của truyện ngắn, tiểu thuyết, điều tra, phỏng vấn,... vừa kết hợp giữa tư duy trừu tượng với tư duy lôgic, tư duy khách quan, logic hình thức,...

  • Cơ sở để phản ánh phải dựa trên con người, sự việc, hoàn cảnh, tình huống đều có thật và logic của tác giả, lập luận, lý lẽ, luận chứng để nêu lên luận đề phải phù hợp với quan điểm của xã hội. Đây là “cái tôi” có thật, “cái tôi” chứng kiến, “cái tôi” nhân chứng, “cái tôi” điều tra.

Như vậy, trong ký sự truyền hình, “cái tôi” ở đây là “cái tôi” tác giả, “cái tôi” nhân chứng.

  • Ký sự phản ánh nguời thật, việc thật thông qua thủ pháp nghệ thuật và sức mạnh của nó thông qua những hình ảnh chi tiết để nói về nội dung của tác phẩm vì khi phản ánh một sự kiện, một quan điểm xuất phát từ sự kiện, sự việc, con người có thật.

  • Ký sự khác nghệ thuật ở chỗ, nó không dùng phương pháp điển hình hoá mà thông qua những sự việc, con người điển hình, tiêu biểu để hiểu tính cách, hành vi của con người đó thông qua những hành vi để hiểu tính cách của con người.

  • Trong ký sự truyền hình, con người không phải là sư tổng hợp các chi tiết mà nó phản ánh nhiều sự kiện khác nhau. Ví dụ: Ký chân dung chắt lọc từ những sự kiện, sự việc, hành động của họ. Nhưng yếu tố quan trọng nhất là sự việc, hành động, hành vi của họ (cả cái tốt và cái xấu) có ý nghĩa đối với xã hội như thế nào?

  • Khi nói về tình cảm, kể cả thiên nhiên hay con người bao giờ người ta cũng đánh thức cả nhân sinh quan và thế giới quan với ý nghĩa là thức tỉnh con người hành động.

  • Hình ảnh và âm thanh trong ký sự truyền hình có mối quan hệ biện chứng bổ sung cho nhau, nhưng hình ảnh thường chỉ phản ánh “bề nổi” còn lời bình là thể hiện “bề sâu” nhằm giải thích những gì hình ảnh chưa nói hết.


2, Phân biệt ký sự truyền hình với một số thể loại khác

Việc khu biệt giữa ký sự truyền hình và các thể loại khác trong cùng nhóm các thể loại báo hình là cần thiết bởi vì giữa chúng có chung các thủ pháp, quy trình sáng tạo, chẳng hạn: tác giả, chi tiết, bố cục,... Khi phân biệt cần được dựa trên cơ sở này.


2.1, Tác giả

Trong ký sự, tác giả không chỉ dừng lại ở việc kể mà còn có tính chất suy ngẫm, bộc lộ tư tưởng, tình cảm của mình sâu sắc hơn so với phóng sự, bình luận, phỏng vấn.

Trong ký sự truyền hình giàu chất tư liệu và mang tính khoa học, thể hiện tư duy lôgic chặt chẽ, các nhận xét, đánh giá xác đáng, lời bình đi kèm hình ảnh thể hiện những cảm xúc của tác giả.

Ở thể loại phóng sự, tác giả chỉ kể lại sự kiện, sự việc có con người tham gia nhưng không đi sâu vào chi tiết, hoàn cảnh như ký sự.


2.2, Chi tiết

Chi tiết trong ký sự thường hướng tới việc xây dựng hình tượng và nó có sự tác động mạnh mẽ đối với tác giả. Ký sự chú ý tới việc khắc hoạ hình tượng, con người, sự việc. Ngoài ra, nó có các chi tiết đắt, những hình ảnh đáng nhớ.

Chi tiết trong ký sự là làm thế nào để xây dựng hình tượng trong lòng khán giả. Nếu như các thể loại khác thường hướng vào vấn đề, nhân vật, sự kiện, sự việc, cố gắng giải thích cho người ta hiểu về sự kiện, sự việc đó.

Chi tiết trong ký sự có tác dụng giáo dục sâu sắc đối với người xem qua những cử chỉ, hành vi, thái độ của nhân vật,...


2.3, Bố cục

Bản chất của ký sự là tuân theo suy nghĩ, sự liên tưởng và cảm xúc của tác giả. Suy nghĩ này quán xuyến trong quá trình sáng tạo tác phẩm. Từ đó, người ta có sự liên tưởng không gian, thời gian, tính cách, việc làm suy nghĩ của tác giả đối với sự kiện, sự việc.

Những thể loại khác tuân theo quy trình lần lượt theo dạng kể, còn ký sự sử dụng lối văn trần thuật nhưng không “tuần tự”, lần lượt mà có thể đan xen cái hay, cái dở, tạo ra sự mâu thuẫn giúp cho người xem nhận thức con người đó, sự kiện, sự việc đó đúng với bản chất của nó.

Bố cục trong ký sự không tuân thủ theo một số thể loại khác như tin, phỏng vấn, phóng sự mà theo suy nghĩ, cảm xúc, sự liên tưởng của tác giả, từ đó đưa ra sự so sánh con người, sự việc.


2.4, Chủ đề

Chủ đề tư tưởng của các tác phẩm ký sự đi vào cuộc sống tinh thần của nhiều điển hình khác nhau, trong từng giai đoạn, thời điểm.

Trong Tin tức sự kiện, sự việc, ý kiến trở thành chi tiết mang tính bản chất, còn ký sự thiên về đời sống tinh thần, có tính chất lắp ghép (nhiều thời điểm, nhiều hoàn cảnh), nhưng lại có tính liên hoàn, sự tổng kết, lắp ghép từ nhiều chi tiết, sự kiện khác nhau.
2.5, Thông tin

Trong ký sự thường thông qua những sự kiện với các chi tiết điển hình, tính cách, tình huống, hoàn cảnh điển hình, làm toát lên nội dung và thông tin đó thường mang tính nhân văn sâu sắc.

Các thể loại khác mô tả bản chất của sự kiện, sự việc, ký thông qua sự kiện, lấy sự kiện, sự việc làm toát lên nội dung. Ký khắc hoạ được đầy đủ các nét điển hình, đi sâu vào tính cách, sự kiện, con người cụ thể và mang tính nhân bản.
2.6, Ngôn ngữ

Ngôn ngữ trong ký sự là ngôn ngữ nghệ thuật nhưng sử dụng ngôn ngữ hình tượng, mang tính ẩn dụ, phản ánh nội tâm của nhân vật, còn các thể loại khác thường sử dụng ngôn ngữ trần thuật, phân tích sự kiện, sự việc.

So sánh ký sự và phim tài liệu:


  • Đa số phim tài liệu đều có thể gọi là ký sự. Tuy nhiên ký sự không trùng với phim tài liệu trước hết về tầm cỡ và độ dài.

  • Ký sự có thể chỉ vài phút, cũng có thể có độ dài ngang tầm với phim tài liệu.

  • Phim tài liệu nói chung khác với ký sự ở chỗ nghiêng về góc độ khảo cứu, nó trình bày một cách logic những vấn đề xã hội, lịch sử và tìm biện pháp giải quyết các vấn đề đó.

Từ sự phân tích trên có thể đi đến khái niệm về ký sự truyền hình như sau: Phim ký sự truyền hình là thể loại báo chí truyền hình thuộc nhóm chính luận nghệ thuật. Trong đó, các nhân vật, sự kiện, sự vật có thật, được khắc hoạ và khái quát thanh hình tượng thông qua các phương pháp chính luận nghệ thuật nhằm mục đích không những thông tin mà còn tạo ra cảm xúc thẩm mỹ sâu sắc đối với khán giả.
3, Các dạng ký sự truyền hình

3.1, Ký sự mang tính phóng sự

Dựa trên cơ sở một hoặc những sự kiện xảy ra, mang ý nghĩa xã hội sâu sắc, các chất liệu để hình thành ký sự bao gồm cả chất liệu của phóng sự. Tuy nhiên, trong ký sự tác giả phải vượt lên trên các sự kiện không dừng lại ở việc kể lại sự kiện mà còn đưa ra nhận xét, đánh giá, bình luận về sự kiện, sự việc đó.

Ví dụ: Ký sự “Người lính xe tăng 390 ngày ấy” kể lại sự kiện mang tính lịch sử và có ý nghĩa lịch sử về bốn người lính lái xe tăng tiến vào Dinh Độc lập năm 1975. Những thước phim mang nhiều chất phóng sự, những hình ảnh về chiến tranh, cảnh vui mừng chiến thắng, những cảnh sinh hoạt trong cuộc sống đời thường của người lính năm xưa.

Nhưng không chỉ dừng lại ở đó, những thước phim còn khắc sâu trong lòng khán giả hình tượng những người lính Cụ Hồ. Nếu năm xưa họ là lính lái xe tăng dũng cảm tiến vào Dinh Độc lập, đập tan thành lũy cuối cùng của chế độ Mỹ – Ngụy đem lại độc lập tự do cho dân tộc thì ngày nay trong cuộc sống đời thường họ vẫn làm việc như bất cứ người dân nào. Điều đó đâu chỉ có vậy, đó là niềm tin vào cuộc sống, cuộc sống chỉ thực sự có ý nghĩa khi người ta biết lao động, cống hiến và hy sinh. Trong hoàn cảnh nào họ vẫn tràn đầy niềm tin vào cuộc sống. Đó là ý nghĩa sâu xa của ký sự “Người lính xe tăng 390 ngày ấy”.

Trong ký sự phóng sự, phim không chỉ dừng lại ở các chi tiết và cũng không phản ánh toàn bộ, nhưng ngược lại đi sâu vào một số chi tiết quan trọng mang tính điển hình giúp người xem suy nghĩ, phán đoán sâu về sự kiện, sự việc xảy ra (tức nó mang sắc thái của sự kiện, sự việc ấy).

Ví dụ: Ký sự: Sóng thần, nổ bom, bắt cóc... bằng những chi tiết điển hình cũng cho khán giả cảm nhận về sự kiện.


3.2, Ký sự vấn đề

Là loại phim không đề cập tới một sự kiện cụ thể mà là hàng loạt các sự kiện tạo thành một vấn đề nào đó, được người xem truyền hình quan tâm.

Mỗi sự kiện, con người cụ thể trở thành chi tiết được xâu chuỗi bằng một đường dây mà trong đó chủ đề được làm rõ bởi chính những chi tiết. Hơn nữa, sự suy ngẫm về các chi tiết này bộc lộ rõ mục đích của tác giả và tác phẩm.

Ví dụ: như ký sự về các vấn đề môi trường, vệ sinh an toàn thực phẩm, cải cách hành chính,…

Nguy cơ lớn nhất của ký sự là sa vào thông tin. Đó là sự kéo dài một cách vụng về của phóng sự, kể lể dài dòng về sự kiện.

Một ký sự thành công phải nhờ vào sự liên tưởng, suy ngẫm sâu xa, muốn như vậy phim phải tìm cấu tứ.

Trong ký sự vấn đề, con người lui lại tuyến sau, tác giả ưu tiên phân tích vấn đề quan trọng qua những biểu hiện cụ thể, hoạt động của con người và tập thể cụ thể. Việc tiếp thu một khối lượng lớn các sự việc, tổng hợp các nguyên liệu khác nhau cho phép nhà báo tiến hành cuộc nói chuyện quy mô về những vấn đề cấp bách.
3.3, Ký sự chân dung

Ký cho phép ta phản ánh một cách sinh động, sắc nét, dễ hiểu, kịp thời trước sự kiện, hé mở hình ảnh một con người thú vị, vẽ nên chân dung một tập thể, kể về sinh hoạt, truyền thống, tâp tục của con người một vùng đất. Cơ sở của ký chân dung là câu chuyện về con người, về cuộc sống, ý kiến của người đối thoại. Nhưng không phải số phận nào cũng có thể là đề tài để làm ký sự, mà chỉ số phận nào phản ánh rõ nét nhất về thời đại về hiện thực xã hội, về nhân cách, ý nghĩa của nó trong từng hoàn cảnh cụ thể mới có thể là chất liệu để làm ký sự. Phân tích tính biện chứng của cá thể đó trong quá trình hoạt động của tập thể cho phép nhà báo tìm thấy quy luật phát triển, đưa ra những biện pháp giải quyết mâu thuẫn, ý nghĩa của sự vận động đi lên.

Tuy nhiên, đôi khi nhà báo quá say mê với việc kể lại tỉ mỉ về tiểu sử nhân vật, dùng quá nhiều tư liệu ở nhiều thời điểm, giai đoạn khác nhau thì khó mà tạo nên được bản sắc riêng của chân dung.

Khi nói đến ký sự chân dung tức là đi vào một con người hoặc một tập thể nhằm mục đích khắc hoạ hình tượng nghệ thuật, điển hình hoá tính cách mà không phải bằng hư cấu mà bằng người thật, việc thật.

Trong ký sự chân dung cần tập trung vào:


  • Con người đó phải là con người có thực, thể hiện bằng những việc làm, hành động cụ thể được thể hiện trong đời sống ở một lĩnh vực nào đó (sản xuất, lao động, học tập, nghiên cứu khoa học...) về những vấn đề chính trị, kinh tế, văn hoá - xã hội.

  • Nội dung phản ánh là phải tạo nên đời sống nội tâm phong phú và nêu bật lên được số phận cuộc đời có tính tiêu biểu.

  • Phải có tính cách (phẩm chất): cái tốt, cái xấu.

  • Việc làm của con người hoặc tập thể ấy có vai trò và ảnh hưởng gì trong đời sống xã hội.

  • Ngoài những hình ảnh nói về một nhân vật hoặc nhóm tập thể của một đơn vị thì những chi tiết trong phim là để mở ra các ý tưởng, vấn đề gắn chặt với nhân vật, cuộc đời và sự kiện của họ phải phản ánh được tính chất của thời đại, hoàn cảnh, điều kiện lịch sử.

  • Trong phim ký sự, lời bình rất quan trọng, lời bình phải mang tính biểu cảm cao và phải có sự liên tưởng: quá khứ – hiện tại – tương lai.

Ví dụ: Những thước phim tư liệu về : Cụ Hồ, Đại tướng Võ Nguyên Giáp, các anh hùng dựng nước, anh hùng trong lao động sản xuất, chiến đấu,….
3.4, Ký sự mang tính du lịch

Ký sự mang tính du lịch là một trong những hình thức cổ nhất của thể loại chính luận nghệ thuật có nguồn gốc là sách vở và chuyện kể của những người ham thích du lịch.

Ký sự du lịch thường mang tính dư địa chí, phục vụ trong khoa học - địa linh nhân kiệt, con người,vùng đất hoặc vùng quê nào đó, giới thiệu đất nước, con người, lịch sử, truyền thống và khái quát lên thành cộng đồng của vùng quê.

Phim ký sự mang tính du lịch giúp cho người xem có một tư duy, sự nhận thức và hiểu biết về hoàn cảnh, đất nước, con người. Trong đó bao gồm: tiện nghi, lịch sử, văn hoá, truyền thống, phong tục tập quán nhằm khai thác tiềm năng. Ví dụ: các phim giới thiệu về đất nước, con người trong nước và thế giới,….

Trong những ký sự du lịch thường xuất hiện “cái tôi” nhân chứng, cái tối xúc động trước thiên nhiên, con người, “cái tôi” suy tư, liên tưởng. Trong nhiều trường hợp, “cái tôi” rung cảm đó là tác giả.
3.5, Ký sự Montage

Nền tảng của ký sự Montage là những thước phim tư liệu ở nhiều thời kì, nhiều giai đoạn khác nhau. Những tư liệu này được sắp xếp theo trình tự tư duy của tác giả, tạo ra những ý nghĩa mới, tác động mạnh mẽ đến người xem.

Mỗi thế hệ nhìn lại tư liệu bằng con mắt của mình, lý giải phải theo cách của mình, có thể là hoàn toàn khác với ý đồ quay phim ban đầu. Nhưng đó là loại tác phẩm mà nguời làm phim hướng tới.

Cũng là một tư liệu nhưng qua Montage mà hướng vào ý nghĩa khác, hình tượng hoá, điển hình hoá mà trước đó tư liệu chưa làm được.


4, Sáng tạo tác phẩm ký sự truyền hình

4.1, Tính xác thực của hình ảnh trong ký sự truyền hình được thể hiện qua ghi hình và Montage.

4.1.1, Ghi hình

Đối với mọi tác phẩm truyền hình thì ghi hình là khâu quan trọng và quyết định nhất trong tác phẩm. Có thể là ghi hình những sự kiện, hiện tượng, con người đang diễn ra hoặc cũng có thể trên cơ sở những hình ảnh, sự kiện, sự việc đã diễn ra rồi, nhưng cũng có khi sử dụng tư liệu cũ.

Ghi hình những sự kiện hiện tượng đang diễn ra: Phương pháp ghi hình này thường xuất hiện ở ký sự, làm theo phương pháp của phóng sự, ký sự du lịch... Đòi hỏi với người quay phim là rất khắt khe, từ khâu chuẩn bị đến xử lý hình ảnh, không thể bằng cách sắp xếp lại các hình ảnh hoặc không thể ghi lại lần thứ hai: quay phim phải nắm bắt được ý đồ của tác giả kịch bản, diễn biến của sự việc, tiến trình công việc có cách thích hợp trong việc xử lý hình ảnh.

Ghi hình về những sự kiện, sự việc đã xảy ra: Thông thường, phương pháp ghi hình này thường tạo ra những hình ảnh mang tính ẩn dụ. Những cảnh này thường được tính toán kỹ trong mạch tư duy của tác giả, kế cấu của tác phẩm. Rất khó tạo dựng lại những cảnh cũ có thời gian lâu, thậm chí rất lâu, có khi không còn đối tượng để phỏng vấn. Trong trường hợp này nên lựa chọn những kỷ vật, những dấu vết còn lại để làm cơ sở cho việc đưa ra những lời bình hợp lý.

Sử dụng tư liệu cũ: Trong ký sự, tác giả được phép khai thác những hình ảnh tư liệu có mối quan hệ trực tiếp đối với hiện thực và phù hợp với nội dung tác phẩm để làm rõ nội dung tác giả muốn truyền tải. Việc khai thác tư liệu cũ để đưa vào đó một ý nghĩa mới phải đảm bảo sự chính xác, dẫu không phải là tuyệt đối thì cũng phải được hoàn cảnh, địa điểm... Tránh tuỳ tiện trong sử dụng hình ảnh, tư liệu.

Để tạo lập hình ảnh đảm bảo tính xác thực của nó, trong ký sự truyền hình, việc sử dụng phương pháp nào là phụ thuộc vào ý đồ của tác giả, mạch của phim. Thông thường, để tạo hiệu quả, những người làm phim kết hợp tốt những phương pháp này.


4.1.2, Montage

Chức năng của Montage là tạo ra sự mạch lạc, rõ ràng giúp người xem hình dung ra các chuyện và tạo ra cảm xúc, suy nghĩ với người xem. Quá trình Montage thường diễn ra ở hai giai đoạn quay phim và dựng phim.

Trong khi quay phim, trên cơ sở đan kết những hình ảnh theo ý đồ đã có sẵn, người quay phim sẽ chọn lọc, sắp xếp cỡ cảnh, khuôn hình, góc máy... để có thể tạo ra những hình ảnh vừa có giá trị thông tin, vừa có giá trị thẩm mỹ. Khi ý đồ Montage được thể hiện trong quá trình quay phim thì đó không phải là phủ nhận Montage, mà là khẳng định nó ở mức độ cao hơn.

Trong dựng phim, người ta thường so sánh việc này với việc đánh bóng và lấy ra viên kim cương. Dựng phim là trên cơ sở những hình ảnh đã được ghi thành chuỗi hình ảnh có ý nghĩa theo trình tự xảy ra, theo yêu cầu của đạo diễn, tạo nên sự sâu lắng, ấn tượng đối với những cảnh quay đơn lẻ để cạnh nhau.

Có nhiều thủ pháp để dựng phim, mỗi thủ pháp có một thế mạnh riêng. Nếu sử dụng tốt, phù hợp với ý đồ của tác phảm, tính xác thực sẽ được đảm bảo.

Ký sự truyền hình tuyệt đối tôn trọng tính chân thực của sự kiện tái hiện và phản ánh hiện thực bằng sự kiện chân thực. Tính chân thực không chỉ là nguyên tắc báo chí mà nó còn chứa đựng khả năng tạo ra sức thuyết phục rất cao. Vì thế đối với bất cứ tác phẩm ký sự truyền hình nào được dàn dựng thái quá đều làm hỏng bộ phim. Khó có thể dàn dựng được những số phận nghiệt ngã, những mảnh đời đau thương, những công việc của một nhà khoa học nào đó đã qua đi từ rất lâu. Người xem có thể bị đánh mất những tình cảm của mình khi những số phận long đong, nghèo khó của xã hội thực tại lại được các diễn viên diễn xuất bởi vì trong những hoàn cảnh ấy, không ai có thể đóng thay họ.

Ký sự truyền hình là một thể loại báo chí nên nó đòi hỏi thật như nó đã có, không hư cấu, không dàn dựng. Khán giả có quyền đòi hỏi nhà báo có năng lực nhìn thấy thiên nhiên, hiện thực không phải như một ống kính máy ảnh mà như một con người. Hình ảnh trong ký sự truyền hình là những hình ảnh có thực trong cuộc sống, đang diễn ra trước mắt chúng ta. Khi tái hiện hiện thực thì tác giả có thể sử dụng các nhân vật, nhân chứng, hồi tưởng, kể lại và khéo léo sử dụng các hình ảnh tư liệu về sự kiện ấy, nhân vật ấy.
4.1.3, Lời bình trong ký sự truyền hình

Lời bình giữ vai trò cực kỳ quan trọng trong tác phẩm báo chí truyền hình nói chung và trong ký sự truyền hình nói riêng. Có thể thấy hình ảnh là yếu tố khách quan, hàm chứa trong nó sự sống động của môt cuộc sống có thực, không bị dàn cảnh, không bị khuấy động. Nó mang ý nghĩa hết sức to lớn trong toàn bộ ngôn ngữ của loại hình báo chí này. Còn đối với lời, trong một số loại hình nghệ thuật, lời giữ vai trò không nhỏ. Tính chất chủ quan của lời bình trong tác phẩm là không thể tránh khỏi, mặc dù trong rất nhiều trường hợp, người ta cố gắng giảm liều lượng của nó.

Lời bình trong ký sự truyền hình có thể thiên về ngôn ngữ văn học hoặc báo chí, nhưng điều đó tuỳ thuộc vào chủ đề của tác phẩm, cách khai thác, xử lý đề tài của tác giả.

Ở mỗi dạng ký sự, có thể có nhiều cách viết khác nhau: tự sự, chính luận thậm chí là miêu tả. Viết lời bình cho ký sự đòi hỏi người viết thông qua cuộc sống thực tế, không chỉ tìm tòi tích luỹ kinh nghiệm để biểu hiện cho người xem những sự thật, mà còn giúp họ cảm thụ một cách sâu sắc. Cần chú ý khai thác những biểu hiện các khía cạnh của ngôn ngữ, cân nhắc ý nghĩa của từng danh từ, động từ đến việc tạo câu ngắt đoạn cho sáng nghĩa.

Lời bình trong ký sự truyền hình được thể hiện trong ngôn ngữ biểu đạt của tác giả, trong đó:


  • Cái tôi” tác giả xuất hiện trong lời bình. Trong các tác phẩm báo chí nói chung, “cái tôi” tác giả rất ít khi xuất hiện trực tiếp. Trong ký sự truyền hình cũng vậy. Nhưng khi xuất hiện thì hiệu quả lời bình được bộc lộ rõ ràng nhất, nó không những mang màu sắc của ngôn ngữ sự kiện mà nó là tình cảm, tấm lòng, là cảm nghĩ của tác giả.

“Cái tôi” tác giả xuất hiện trong lời bình không chỉ mang tính chất của ngôn ngữ viết mà còn là tất cả những gì mà tác giả có được trong quá trình chiêm nghiệm cuộc sống. Những lúc xuất hiện “cái tôi” tác giả là những đoạn tâm huyết, có sức chở rất lớn cho ý tưởng của tác giả. Đó là cách nhìn, cách cảm riêng của từng tác giả.

  • Giọng văn độc thoại nội tâm nhân vật. Với giọng văn độc thoại nội tâm nhân vật nhiều ký sự có vóc dáng riêng, không lẫn lộn, không pha tạp với bất cứ một cái gì khác. Ngoài ra, trong giọng điệu này, tác giả đã thổi cảm xúc của mình vào nhân vật, từ ý tưởng và những quan niệm của mình, tạo ra nguồn cảm hứng chính với màu sắc riêng.

  • Sử dụng bút pháp văn học kết hợp với ngôn ngữ chính luận. Sử dụng bút pháp văn học trong tác phẩm ký sự truyền hình có tác dụng làm mềm hoá vấn đề, các sự kiện mang tính thời sự, đồng thời tạo ra vùng cảm xúc cho người xem. Tuy nhiên, câu văn mang tính chất ngôn ngữ văn học thường không chứa đựng yếu tố quyết định, vì thế nhiều tác phẩm được sử dụng ngôn ngữ sự kiện. Việc sử dụng ngôn ngữ sự kiện là cầu nối dẫn công chúng tới bản chất sự kiện, vấn đề, suy ngẫm về vấn đề, sự kiện ấy nhằm làm rõ bản chất.

Giá trị của lời bình trong phim ký sự là nó phải được nói cái gì đó ngoài sự kiện, ẩn nấp đằng sau sự kiện. Để đạt được điều này, người viết lời bình phải đạt được tính văn học của ngôn ngữ và tính chính luận của báo chí để taọ nên sức mạnh trong lời bình của ký sự truyền hình.
KẾT LUẬN

Ký sự truyền hình là một thể loại báo chí truyền hình thuộc nhóm chính luận nghệ thuật. Ký sự truyền hình trước hết mang những đặc điểm chung của thể loại ký nói chung, đó là: Trong ký thường sử dụng nhiều biện pháp điển hình hoá nghệ thuật, đưa ra những phương diện của nó như chân dung nhân vật, những lối nói điển hình của nhân vật, phong cảnh, sự việc, chi tiết, hư cấu và phỏng đoán. Nguyên liệu cho ký được coi là đạt nếu có cơ sở là vạch ra mâu thuẫn, cũng như phân tích tâm lý chính xác. Bố cục và cốt truyện rất quan trọng – nó là các móc câu không bao giờ để rơi sự tò mò của con người.

Ký sự phản ánh sự thật, đó là những con người, tình huống, hoàn cảnh có thật trong cuộc sống. Trong ký sự có thể “đan xen” nhiều thể loại khác nhau: Phóng sự, Tin, Bình luận, Thư tín,…. Điều này chứng tỏ một sự tự do về thể loại và tính linh hoạt của ký sự. Tuy nhiên, ký sự có những đặc trưng riêng. So với các thể loại khác, ký sự không chỉ khắc hoạ và khái quát nhân vật, sự kiện, sự việc thành hình tượng nhằm mục đích thông tin nói chung mà còn tạo ra cảm xúc thẩm mỹ sâu sắc đối với khán giả. Hay nói cách khác, ký sự nói đến chiều sâu của vấn đề và tính nhân văn.

Ở ký sự truyền hình, lời bình đóng một vai trò quan trọng và quyết định chiều sâu của tác phẩm ký sự. Để viết được lời bình tốt, người viết cần có sự trải nghiệm cuộc sống thực tế, có khả năng cảm thụ một cách sâu sắc ngôn ngữ và vốn sống dồi đào để lồng vào tác phẩm “cái tôi” của mình, hoà cùng giọng văn độc thoại của nhân vật bằng bút pháp văn học kết hợp với ngôn ngữ chính luận. Chính lời bình sẽ tạo được nét riêng của thể loại ký sự truyền hình, nói được những ý nghĩa ngoài sự kiện, những điều còn ẩn nấp dằng sau sự kiện.

Như vậy, ký sự truyền hình mang một nét riêng, cái riêng đó là xúc cảm thẩm mỹ sâu sắc đối với người xem truyền hình và trong chiều sâu của sự kiện, sự việc, con người có thật. Vì vậy, trong khâu biên tập cần chú ý:


  • Những cảnh quay phải thực giữa hình ảnh và âm thanh.

  • Lời bình đóng vai trò quan trọng.

  • Lời bình phải sát với hình ảnh, tạo cảm xúc cho người xem liên tưởng.

  • Lời bình phải sát thực với đề tài.

  • Người thể hiện lời bình cũng rất quan trọng.

PHIM TÀI LIỆU TRUYỀN HÌNH
1, Khái niệm

Cho tới nay, trên thế giới có rất nhiều quan niệm về phim tài liệu. Tuỳ theo góc độ nghiên cứu khác nhau của các tác giả sẽ có những quan niệm riêng về thể loại này. Tuy còn tồn tại nhiều quan niệm khác nhau, nhưng phần lớn vẫn tập trung vào hai khuynh hướng.



Khuynh hướng thứ nhất, đề cao tính chân thực của phim tài liệu truyền hình, coi tính chân thực là đặc tính chi phối toàn bộ tác phẩm phim tài liệu truyền hình. Hầu như báo chí phương Tây chủ yếu theo khuynh hướng này.

Khuynh hướng thứ hai, đề cao tính nghệ thuật của phim tài liệu truyền trình lẫn tính báo chí của nó. Phim tài liệu là một thể loại của điện ảnh, không những thế mà còn là thể loại đầu tiên xuất hiện khi điện ảnh ra đời. Nó mang trong mình những đặc điểm nghệ thuật của điện ảnh. Khi được sử dụng trên truyền hình, phim tài liệu truyền hình làm nhiệm vụ của một thể loại báo chí được biến đổi để phù hợp với đặc trưng của loại hình truyền thông đại chúng. Phim tài liệu truyền hình chuyển tải những sự kiện, hiện tượng nóng bỏng của cuộc sống thông qua những thủ pháp nghệ thuật. Vì vậy, phim tài liệu truyền hình thể hiện rõ nét tính chính luận và tính thời sự của báo chí.

Từ điển bách khoa toàn thư Encarta (ở mục từ docmumentaries) của Mỹ cho rằng: Phim tài liệu truyền hình là những tác phẩm truyền hình có cấu trúc chặt chẽ nhằm mục đích khám phá sự kiện, hiện tượng, con người trong đời sống hiện thực một cách chi tiết. Phim tài liệu theo quan điểm này liên quan chặt chẽ với mọi mặt của đời sống xã hội, từ lịch sử, văn hoá, chính trị cho tới thế giới tự nhiên. Phim tài liệu truyền hình tạo điều kiện tốt chưa từng có giúp con người giải phóng tầm mắt, đi khắp ngóc ngách mọi châu lục, dưới đáy đại dương, chiêm ngưỡng cả thế giới vi mô, đóng góp lớn trong sự nghiệp nâng cao dân trí và đấu tranh xã hội.

Như vậy, Từ điển bách khoa toàn thư Encarta đề cao tính chi tiết của tác phẩm, coi chi tiết như tiêu chí duy nhất của một phim tài liệu truyền hình. Đó đơn thuần là một tác phẩm truyền hình có cấu trúc được xây dựng kỹ lưỡng và chi tiết. Với quan điểm này, Encarta coi phim tài liệu chính luận báo chí mà quên đi tính nghệ thuật của thể loại này.

Trong cuốn sách mang tên “Nghệ thuật điện ảnh: một giới thiệu đại cương”, hai tác giả David Bordwell và Kristin Thompson, thuộc Trường đại học Wisconsin, định nghĩa: Phim tài liệu là một tác phẩm chứa đựng trong nội dung của nó những thông tin chân thực về thế giới bên ngoài. Định nghĩa này của Bordwell và Thompson cũng nhấn mạnh vào tính chân thực của phim tài liệu truyền hình như Từ điển bách khoa toàn thư Encarta. Tính chân thực được hai tác giả coi như đặc tính quan trọng nhất, quy định những đặc tính khác của phim tài liệu. Tất cả những sự kiện, hiện tượng, quá trình con người trong hiện thực đều là đối tượng phản ánh của phim tài liệu truyền hình .

Nó dùng sự chân thực để thuyết phục người xem thừa nhận sự tồn tại của những sự vật đó.

Phim tài liệu có thể đưa ra một cách nhìn, một chính kiến và cách giải quyết vấn đề của người làm phim. Tuy nhiên, phim tài liệu của Bordwell và Thompson không tránh khỏi bị rơi vào tự nhiên chủ nghĩa. Nhà làm phim tài liệu đưa ra hệ thống luận chứng, luận cứ để chứng minh cho luận điểm mà họ nêu lên trong tác phẩm của mình. Và chính hệ thống luận chứng đó sẽ thuyết phục người xem về tính chân thực của tác phẩm tài liệu truyền hình,

Hai tác giả cuốn “Nghệ thuật điện ảnh: một giới thiệu đại cương”, chia thể loại phim tài liệu một số dạng như sau:


  • Phim tài liệu dựng lại trên cơ sở những nguồn tư liệu lưu trữ (compilation documentary). Đó là những phim gồm toàn hình ảnh tư liệu được ghép nối lại với nhau nhằm chuyển tải ý đồ của tác giả. Phim dạng này thường là những phim về đề tài lịch sử .

  • Phim tài liệu phỏng vấn (interview documentary). Trong dạng phim này, các nhà làm phim ghi nhận một cách trung thực về sự kiện, hiện tượng, về những biến động xã hội chủ yếu qua lời kể của các nhân chứng.

  • Phim tài liệu của sự thực (cinema- verite documentary) là dạng phim tài liệu trong đó các nhà làm phim ghi lại sự kiện như nó diễn ra trên thực tế, không mang dấu ấn chủ quan của tác giả. Dạng phim này bắt đầu xuất hiện từ khoảng những năm 50,60 của thế kỷ 20 khi các loại camera gọn nhẹ ra đời, cho phép người quay phim cơ động nhanh, theo kịp diễn biến của sự kiện.

Trong cuốn sách nghiên cứu điện ảnh đại cương, Andrew Britton cho rằng: “Trước hết, một bộ phim tài liệu có giá trị phải phản ánh được những góc cạnh khác nhau của sự thực, một sự thực không đơn giản như chúng ta nhìn thấy mà là một sự thực được đặt trong bối cảnh lịch sử, xã hội đã tạo ra chúng”. Quan niệm này của Andrew Britton đã thoát khỏi được tính tự nhiên chủ nghĩa mà nhiều nhà làm phim tài liệu phương Tây mắc phải. Sự thực trong phim tài liệu phải được đặt trong bối cảnh đã sinh ra nó, nằm trong mối quan hệ biện chứng với những sự kiện, hiện tượng khác.

Bản thân sự kiện chỉ là nguyên liệu cho một bộ phim tài liệu chứ sự kiện không bao hàm trong nó một phim tài liệu. Bằng những thủ pháp làm phim đạo diễn tìm kiếm, lựa chọn những chi tiết đắt giá nhất, phục vụ tốt nhất tư tưởng chủ đề của mình để xây dựng tác phẩm tài liệu.

Phát triển quan điểm của Britton, nhiều nhà làm phim cho rằng phim tài liệu là một thể loại của truyền thống điện ảnh, trong đó giải quyết sự kiện một cách sáng tạo trên cơ sở sự việc, sự kiện, con người có thật. Quan điểm này chia phim tài liệu thành các dạng sau:


  • Phim thời sự tài liệu

  • Phim tài liệu địa chí

  • Phim tài liệu giáo khoa

  • Phim tài liệu phân tích

Trên đây là một số quan điểm khác nhau về phim tài liệu thuộc khuynh hướng thứ nhất, coi tính chân thực là đặc tính quan trọng nhất,chi phối những đặc tính khác của thể loại này. Tuy nhiên cho dù tính chân thực là điểm chủ chốt, là đặc tính quan trọng nhất nhưng phim tài liệu không đơn thuần phản ánh sự kiện như nó diễn ra một cách tự nhiên. Phim tài liệu thông qua những sự kiện, hiện tượng, con người có thực để nói lên tư tưởng chủ đề.

Những sự kiện, hiện tượng, con người đó là nguyên liệu cho nhà làm phim xây dựng hình tượng trong tác phẩm của mình.

Việc xây dựng hình tượng là thao tác không thể thiếu của một tác phẩm nghệ thuật. Phim tài liệu truyền hình trước hết là một thể loại của nghệ thuật điện ảnh. Nó mang trong mình đầy đủ những đặc tính của nghệ thuật thứ bảy. Cả phim truyện và phim tài liệu đều phản ánh thế giới hiện thực thông qua việc xây dựng hình tượng nghệ thuật. Phim truyện dùng diễn xuất của diễn viên trong những bối cảnh được dàn dựng theo chủ quan của đạo diễn để nói lên tư tưởng của tác phẩm. Còn trong phim tài liệu không có diễn xuất của diễn viên mà nó nói lên chủ đề tư tưởng thông qua những sự kiện, hiện tượng, những quá trình, những con người có thật trong đời sống. Nói cách khác, phim truyện là nghệ thuật chủ quan còn phim tài liệu là nghệ thuật khách quan.

Với những lợi thế vượt trội của mình, không lâu sau khi ra đời, truyền hình đã được xem là phương tiện chiếm ưu thế tuyệt đối và ngày càng tiến dần tới vai trò quan trọng trong hệ thống các phương tiện truyền thông đại chúng. Với những ưu thế về loại hình và những điều kiện hết sức thuận lợi trong thời đại khoa học- công nghệ hiện nay, truyền hình đã phát huy được thế mạnh của mình trong quá trình trao đổi thông tin. Một trong những ưu điểm vượt trội của truyền hình là ngoài khả năng thông tin nhanh chóng, kịp thời như các loại hình báo chí khác, loại hình truyền thông này tác động tới tư tưởng và tình cảm của công chúng một cách mạnh mẽ nhờ sự kết hợp giữa hình ảnh và âm thanh mà chưa một loại hình truyền thông nào sánh kịp.

Trong quá trình phát triển với tư cách là một loại hình báo chí, truyền hình liên tục làm giàu hệ thống thể loại của mình bằng cách tiếp nhận nhiều thể loại của các loại hình khác. Trong số đó có phim tài liệu. Nhưng sự xuất hiện của phim tài liệu truyền hình là sự hợp tác hai chiều. Truyền hình tìm thấy những khả năng to lớn của phim tài liệu trong việc định hướng dư luận xã hội. Đồng thời, những nhà làm phim tài liệu tìm thấy ở truyền hình những điều kiện đảm bảo cho phim tài liệu phát huy được hết khả năng của mình.

Phim tài liệu truyền hình khác với người anh em của nó, phim tài liệu điện ảnh, ở chỗ nó là một thể loại trong hệ thống thể loại báo chí truyền hình. Có nghĩa là nó chịu sự chi phối của những đặc tính của báo chí. Trong đó, đặc tính quan trọng nhất là tính thời sự. Tính thời sự trong phim tài liệu truyền hình là một yêu cầu không thể thiếu.

Từ những phân tích trên có thể đưa ra khái niệm về phim tài liệu truyền hình: phim tài liệu truyền hình là một thể loại báo chí truyền hình nằm trong nhóm thể loại chính luận nghệ thuật. Nó nói lên tư tưởng chủ đề, tức là tính chính luận của báo chí, thông qua việc xây dựng hình tượng từ những sự kiện, hiện tượng, con người cụ thể có thật trong đời sống xã hội. Nói cách khác, phim tài liệu truyền hình dùng sự thật để xây dựng hình tượng nghệ thuật, qua đó làm nhiệm vụ giáo dục thẩm mỹ và định hướng cách nhận thức sự thật đó cho công chúng.
2, Sự ra đời và phát triển của phim tài liệu

Từ những phát minh sáng chế của Êđixơn, Tagiê, anh em nhà Luymier, Anbertini, Đrancôp… đến những mét phim đầu tiên và phim "hiện thực"- sự mở đầu của nhóm thể loại phim thời sự - tài liệu, đồng thời cũng là sự mở đầu cho sự xuất hiện nền điện ảnh nhân loại.

Những thước phim tài liệu đầu tiên là của anh em nhà Luymier (Pháp) xây dựng và trình chiếu ở nơi công cộng với Tầu vào ga Giờ tan tầm ở nhà máy. Tiếp theo đến bộ phim tài liệu của Fláecti (Mỹ) về những người dân Exkimô; Mêliex và bộ phim Vụ án Đrâyphuyx ….

Nước Nga Xô Viết và những mét phim tài liệu đầu tiên của Đrancôp và Dziga Vertốp,…

Đây là nhóm thể loại phim ra đời sớm nhất của điện ảnh, với đặc điểm ghi lại hình ảnh người thật việc thật đã hoặc đang tồn tại trong cuộc sống.

Hiện nay, hầu hết các nước đều có xưởng phim làm phim tài liệu tạo ra nhiều tác phẩm có giá trị, trong đó những phim về hai cuộc chiến tranh thế giới, các cuộc đấu tranh cách mạng và giải phóng dân tộc, đã làm nhiệm vụ thông tin kịp thời, động viên hàng trăm triệu người đấu tranh cho hoà bình, tiến bộ xã hội, dân chủ, tự do, độc lập dân tộc. Phim tài liệu tạo điều kiện tốt chưa từng thấy giúp con người giải phóng tầm mắt, đi khắp mọi ngóc ngách trên các châu lục, xuống đáy đại dương hay vào vũ trụ, chiêm ngưỡng đến cả thế giới vi mô, đóng góp lớn trong nâng cao dân trí và đấu tranh vì sự tiến bộ xã hội.

Ở Việt Nam, những phim thời sự - tài liệu ra đời trước Cách mạng tháng Tám đều do người nước ngoài quay. Những thước phim tài liệu đầu tiên về Cách mạng hiện nay còn giữ được là những hình ảnh về ngày độc lập 2/9/1945, về cuộc mittinh khổng lồ tại vườn hoa Ba Đình, những đoạn phim về Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn độc lập, những đoạn phim về Chủ tịch Hồ Chí Minh và đồng chí Phạm Văn Đồng sang Pháp dự hội nghị Fôngtenơblô (Fontainebleau; 1946). Từ những ngày đầu Kháng chiến chống thực dân Pháp, các nhà quay phim tài liệu đã lăn lộn trên các chiến trường ghi lại hình ảnh chiến đấu của quân và dân ta tại nhiều nơi (chiến khu 7, 8, 9 Nam Bộ; chiến khu Việt Bắc). “Trận Mộc Hoá”, “Chiến dịch Cao Bắc Lạng” (1948), “Chiến dịch La Ban- Cầu kè” (1950), “Trận Đông Khê” (1950), “Chiến thắng Tây Bắc” (1952), “Giữ làng giữ nước” và đặc biệt là phim “Chiến thắng Điện Biên Phủ” (cùng làm năm 1954). Từ sau ngày 19/3/1953 (ngày Hồ Chủ Tịch ký Sắc lệnh thành lập ngành Điện ảnh Việt Nam), phim tài liệu Việt Nam có nhiều chuyển biến, đặc biệt trong thời kỳ chống Mỹ đã đạt được những thành tựu đáng ghi nhận. Có nhiều phim tiêu biểu: “Nước về Bắc Hưng Hải”(1959), “Đầu sóng ngọn gió” (1967), “Lũy thép Vĩnh Linh” (1970), “Tiếng trống trường” (phim tài liệu vô tuyến truyền hình, 1973), “Mở đường Trường Sơn” (1973 –1974), “ Thành phố lúc rạng đông” (1975), “Đường dây lên sông Đà”. Những thước phim tài liệu phản ánh trực tiếp cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của quân dân miền Nam như: “Du kích Củ Chi” (1967), “Đường ra phía trước” (1969), “Những người dân quê tôi” (1970), “Những người săn thú trên núi Đắksao” (1970), “Làng nhỏ ven sông Trà” (1971).

Những thước phim tài liệu ghi được về cuộc đời hoạt độngcủa Chủ tịch Hồ Chí Minh, về sinh hoạt của Bác Hồ ở Việt Bắc, “Hình ảnh về đời hoạt động của Hồ Chủ Tịch” (1960), “Tiếng gọi mùa xuân’ (1968), “Bác Hồ của chúng em” (1969), “Bác Hồ sống mãi” (1970), “Mùa sen nhớ Bác” (1969), “Chúng em còn nhớ Bác” (1970), “Con đường mang tên Bác”, Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh” (1975),…

Trong thời ký chiến tranh, một số nghệ sĩ điện ảnh nước ngoài như Xương Hạc Linh (Chang Heling), Kacmen (R.L.Karmen) đã sang Việt Nam cùng chúng ta chịu đựng cảnh bom đạn, gian khổ, vất vả để làm nên các phim: “Việt Nam kháng chiến” (Trung Quốc, 1951- 1952), “Việt Nam trên đường thắng lợi” (Liên Xô, 1954-1955) hoặc phản ánh những ngày đầu thắng Pháp, Việt Nam đang xây dựng, phục hồi kinh tế: “Cây tre Việt Nam” (Ba Lan, 1955), “Rừng già Việt Nam” (1975), “Trên những dòng sông Việt Nam” và “Chợ miền xuôi” (1959) của điện ảnh Tiệp Khắc, “Việt Nam Tổ quốc tôi” (Liên Xô, 1960), “Bông sen nở tự do” (Bungari, 1960),…

Trong suốt hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ phim tài liệu Việt Nam đã phát triển mạnh cả hai miền Nam - Bắc, phản ánh được thực tế chiến đấu, sản xuất ở chiến trường lớn và hậu phương lớn góp phần vào thắng lợi vẻ vang ngày 30/4/1975. Sau khi đất nước thống nhất, phim tài liệu chuyển dần sang chương trình phim tài liệu của đài truyền hình, đi vào những phóng sự, tường thuật dài hơn phản ảnh những sự việc, sự kiện xảy ra hàng ngày trong nước và thế giới. Tính từ 1954 đến 1983 phim tài liệu Việt Nam nói chung đã dành được 46 giải Bông sen vàng, 71 Bông sen bạc trong các liên hoan phim quốc gia, 15 Huy chương vàng, 7 Huy chương bạc trong các liên hoan phim quốc tế. Những phim tài liệu truyền hình có giá trị tư liệu và lịch sử quý báu, góp phần vào xây dựng hàng trăm phim tài liệu có giá trị của điện ảnh Việt Nam. Trong giai đoạn hiện nay, cùng với sự phát triển của khoa học và công nghệ, phim tài liệu truyền hình trở thành món ăn tinh thần hàng ngày không thể thiếu được của đại chúng, đóng góp đắc lực vào sự nghiệp nâng cao dân trí và đấu tranh tư tưởng.


3, Chức năng của phim tài liệu truyền hình.

3.1. Chức năng thông tấn và báo chí.

Chức năng quan trọng nhất, chi phối toàn bộ quá trình sáng tạo phim tài liệu truyền hình,dẫn tới quan niệm phim tài liệu truyền hình là một thể loại tác phẩm báo chí truyền hình.

Tính thời sự trong phim tài liệu truyền hình thể hiện qua việc phản ánh sự kiện, vấn đề, nhân vật… hằng ngày với những thông tin nóng hổi, kịp thời, xác thực. Yếu tố chính trị, phục vụ kịp thời mục đích tuyên truyền (các sự kiện chính trị nổi bật, những ngày lễ lớn , các dịp kỷ niệm..)
3.2, Chức năng giáo dục và nhận thức

Nâng cao nhận thức và tư duy của người xem, thông qua những hình ảnh có thật về con người, đất nước, thiên nhiên, sự kiện, sự việc, với tất cả sự phong phú đa dạng của nó.

Phát hiện bản chất có ý nghĩa triết học của hiện tượng và sự kiện, nâng sự kiện lên tầm khái quát hoá bằng hình tượng tiêu biểu, qua việc sử dụng một cách có hiệu quả các thủ pháp nghệ thuật ( điều mà các thể loại tác phảm báo chí truyền hình khác khó có thể thực hiện được do đặc điểm thể loại,độ dài thời gian (thời lượng) và mục đích thông tin).

Nhấn mạnh ý nghĩa xã hội của hiện tượng và sự kiện qua việc sử dụng các chi tiết điển hình, kết hợp với âm nhạc, tiếng động, lời bình, các thủ pháp dựng phim..


3.3. Chức năng thẩm mỹ và giá trị tư liệu lịch sử

Hiện tượng thẩm mỹvà chất thơ; yếu tố ẩn dụ, tượng trưng… trong các loại phim tài liệu nghệ thuật, phong cảnh, du lịch…

Giá trị tư liệu lịch sử của phim tài liệu truyền hình nói riêng cũng như phim tài liệu nói chung, đặc biệt đối với các sự kiện, sự việc chỉ xảy ra một lần hoặc những sự kiện, sự việc, con người… thuộc về lịch sử, với những hình ảnh không gì hay tái tạo được.
4, Điểm khác nhau giữa phim tài liệu truyền hình và phim tài liệu điện ảnh

Như phần trên chúng tôi đã phân tích, phim tài liệu truyền hình được thừa hưởng rất nhiều đặc điểm của phim tài liệu điện ảnh. Nó chính là một thứ phim tài liệu điện ảnh được cải biến đi cho phù hợp với những đặc tính kỹ thuật và đặc điểm tiếp nhận của truyền hình để sử dụng trên loại hình báo chí này. Những thay đổi đó tạo nên sự khác biệt căn bản giữa phim tài liệu của hai loại hình truyền thông - điện ảnh và truyền hình.


4.1 Về công chúng

Trạng thái tiếp nhận của điện ảnh và truyền hình rất khác nhau. Công chúng tiếp nhận tác phẩm điện ảnh ở một điều kiện lý tưởng cho việc tiếp thu nội dung tác phẩm. Còn truyền hình phải đối mặt với rất nhiều trở ngại của cuộc sống hàng ngày, cả nguyên nhân khách quan lẫn nguyên nhân chủ quan, đến quá trình tiếp nhận của người xem.

Công chúng tiếp nhận tác phẩm điện ảnh trong không gian rạp chiếu. Đó là một khoảng không gian riêng biệt người xem ngồi trong bóng tối gần như hoàn toàn, trong những hàng ghế đối diện với một màn ảnh lớn. Trên đó chiếu những hình ảnh ngoại cỡ, không thể thấy trong cuộc sống thường nhật. Cùng với nó là những chuỗi âm thanh với âm lượng lớn.

Người xem của điện ảnh là một thành viên trong một lượng công chúng nhỏ, chỉ khoảng vài trăm người. Đó là một môi trường lý tưởng cho tiếp nhận một tác phẩm nghệ thuật. Hình tượng nghệ thuật điện ảnh đi thẳng vào trực giác người xem, dễ đem lại những cảm xúc mạnh mẽ, kể cả tiếng khóc tiếng cười đột khởi. Chính vì khả năng gây cảm xúc mạnh mẽ của điện ảnh cùng với môi trường tiếp nhận nhỏ hẹp, chỉ khoảng vài trăm người, nên những hình ảnh trên phim gây được "phản ứng dây chuyền" trong cảm xúc của khán giả. Những cảm xúc do điện ảnh gây ra lan nhanh trong không gian rạp chiếu, tạo nên sự cộng hưởng về mặt tình cảm. Vì vậy, người xem càng bị tác động mạnh bởi hình ảnh, lời thoại tiếng động âm nhạc của bộ phim hơn, khả năng tiếp nhận của khán giả trở nên cao hơn. Và tác phẩm điện ảnh do đó được tiếp nhận đầy đủ hơn.

Hơn nữa, khi xem một tác phẩm điện ảnh, người xem bị tách rời ra khỏi bối cảnh sống hàng ngày, không bị chi phối bởi bất cứ tác động nào của ngoài cảnh,hoàn toàn chú ý tiếp thu tác phẩm. Nội dung tác phẩm điện ảnh được người xem tiếp thu khá trọn vẹn. Xuất phát từ đặc điểm tiếp nhận này nên tác phẩm điện ảnh có thể được dồn nén đến cao độ các chi tiết mà không sợ người xem khó hiểu. Tuy nhiên,khả năng tập trung cao độ của người xem không thể duy trì lâu. Đồng thời, khi đang xem dở một buổi chiếu,khán giả không thể ngừng xem nếu muốn tiếp thu trọn vẹn tác phẩm. Vì hai lý do nêu trên, mỗi tác phẩm điện ảnh không nên kéo dài hơn 90 phút, tối đa là 100 phút để khán giả có thể hiểu được toàn bộ tác phẩm. Với những tác phẩm đồ sộ, đòi hỏi thời lượng lớn thì nên tách ra thành nhiều phần, mỗi phần khoảng 90 đến 100 phút. Mỗi đêm chiếu một phần cho tới khi hết bộ phim.

Một đặc điểm nữa có tác động khá lớn đến quá trình tiếp nhận tác phẩm điện ảnh là việc người xem được phép lựa chọn tác phẩm mình thích. Công chúng thưởng thức điện ảnh là công chúng có chọn lọc. Chọn lọc ở đây có nghĩa là họ chỉ xem những tác phẩm mình thích,không ai có thể ép buộc người khác xem một tác phẩm điện ảnh mà họ không thích và không mong muốn được thưởng thức. Điều này khiến cho người xem có một tâm lý tiếp nhận rất ổn định trước và trong suốt quá trình xem phim.

Khác với điện ảnh, truyền hình, với tư cách là một phương tiện truyền thông đại chúng, đến với mọi nhà, sục vào mọi ngõ ngách, mọi vùng xa xôi hẻo lánh trên trái đất. Truyền hình trở thành cửa ngõ để mỗi người, không cần phải ra khỏi nhà mình mà vẫn biết tất cả những sự kiện xảy ra trên thế giới, từ những sự kiện địa phương, sự kiện trong nước, cho tới những sự kiện xảy ra ở nơi cách xa hàn vạn km. Không chỉ mang đến cho người xem tin tức, truyền hình còn là phương tiện chuyển tải nhiều loại hình nghệ thuật, nhiều chương trình giải trí. Do đó, truyền hình trở thành một nhà hát tổng hợp, một phương tiện giải trí toàn năng.

Người xem truyền hình ngồi tại nhà mình, trong không gian quen thuộc. Với chiếc điều khiển từ xa trong tay, họ có thể tự do lựa chọn chương trình hấp dẫn nhất, phù hợp nhất với mình. Điều này khiến cho các tác phẩm truyền hình phải luôn tìm cách thể hiện sinh động nhất, có khả năng hấp dẫn nhất để giữ khá giả bên máy thu hình. Do đó, truyền hình phải không ngừng hoàn thiện cách thức xây dựng chương trình của mình để thu hút được người xem .

Đồng thời các tác phẩm truyền hình còn phải đối phó với tất cả những tác động của ngoại cảnh đến tâm lý tiếp nhận của người xem. Họ luôn bị quấy nhiễu bởi những tác động của cuộc sống hàng ngày, tạo ra những chuỗi đứt đoạn trong quá trình tiếp thu thông tin. Chính vì vậy mà tác phẩm truyền hình đòi hỏi phải rất dễ hiểu, và cụ thể trong từng khuôn hình, đồng thời phải có một độ dư thông tin nhất định để người xem có thể hiểu được những đoạn họ không tập trung nhờ logic phát triển của sự kiện. Sự dễ hiểu của tác phẩm truyền hình còn do việc truyền hình có khả năng phủ sóng một khoảng không gian lớn, cùng một lúc phục vụ hàng triệu khán giả với nhiều trình độ văn hoá khác nhau, thuộc nhiều tầng lớp khác nhau, nhiều dân tộc khác nhau. Có nghĩa là công chúng của truyền hình là quảng đại quần chúng. Để thu được hiệu quả truyền thông lớn nhất, tác phẩm truyền hình, một tác phẩm truyền thông đại chúng phải được xây dựng cho công chúng dù trình độ văn hoá như thế nào cũng tiếp nhận được thông điệp của tác phẩm.

Như vậy, trạng thái tiếp nhận một tác phẩm điện ảnh rất khác trạng thái tiếp nhận một tác phẩm truyền hình. Công chúng tiếp nhận tác phẩm điện ảnh trong rạp chiếu, với lượng công chúng nhỏ. Họ luôn sẵn sàng và tập trung cao độ cho việc tiếp thu nội dung tác phẩm và không hề bị chi phối bởi bất cứ tác động nào của môi trường bên ngoài. Trong khi đó tác phẩm truyền hình đến với công chúng trong môi trường quen thuộc của họ, luôn phải đối phó những tác động bên ngoài đến công chúng,cản trở quá trình tiếp nhận tác phẩm. Đồng thời một tác phẩm truyền hình cụ thể luôn bị đặc trong tình trạng phải cạnh tranh với các tác phẩm khác, các chương trình truyền hình khác để giữa khán giả lại với mình. Những khác biệt về trạng thái tiếp nhận của công chúng là nguyên nhân dẫn đến một số điểm khác biệt giữa tác phẩm điện ảnh và tác phẩm truyền hình.


4.2, Về thiết bị thể hiện

Thiết bị thể hiện của điện ảnh và truyền hình rất khác nhau. Các tác phẩm điện ảnh được chiếu trên những màn hình lớn với diện tích hàng chục mét vuông, có tỷ lệ giữa chiều ngang với chiều cao là 7:4 (1:0,57) còn màn hình máy thu truyền hình truyền thống có kích thước rất nhỏ (diện tích một màn hình 21inch chỉ vào khoảng 0,137m2 mà thôi), và có tỷ lệ 4:3 (1:0,75), Như vậy khuôn hình của điện ảnh sẽ bao quát được một không gian chiều ngang rộng hơn nhiều so với hình ảnh truyền hình. Do đó, lượng thông tin trong một khuôn hình điện ảnh cũng lớn hơn nhiều so với một khuôn hình truyền hình.

Toàn bộ hình ảnh trên phim được thể hiện hết trên màn ảnh. Thông tin được thể hiện đầy đủ, bố cục khuôn hình không bị phá vỡ. Nhưng với màn hình của máy thu hình thì việc thể hiện đầy đủ khuôn hình là một khó khăn. Đây là điều kiện khách quan mà người làm truyền hình không thể khắc phục. Một máy thu hình còn mới khả dĩ thể hiện hết hình ảnh gốc của tín hiệu truyền hình nhưng với một máy thu cũ chẳng hạn, hình ảnh gốc trong tác phẩm truyền hình sẽ không được thể hiện đầy đủ. Hình ảnh bị thiếu hụt sẽ làm giảm lượng thông tin tới người xem, đồng thời phá vỡ bố cục của khuôn hình. Bố cục bị phá vỡ rất có thể làm sai lệch nội dung thông điệp mà tác giả muốn chuyển đến người xem. Một người làm truyền hình có kinh nghiệm phải lường trước được tình trạng này để có cách thể hiện hình ảnh phục vụ tốt nhất cho ý đồ của tác phẩm.
4.3, Về đặc trưng phương tiện truyền tải

Hình ảnh và âm thanh của tác phẩm truyền hình được đưa đến với người xem thông qua sóng điện từ. Trước hết,tín hiệu hình ảnh và âm thanh được mã hoá thành dạng tín hiệu điện từ, sau đó được đưa vào máy phát, gửi lên không trung bằng làn sóng vô tuyến điện. Trong điện ảnh, tín hiệu hình ảnh và âm thanh được ghi đồng bộ trên phim. Sau đó được tái tạo lại bằng máy chiếu, màn ảnh và hệ thống hoá.

Hình ảnh video sử dụng trong truyền hình được ghi lại bằng những tín hiệu điện từ trên băng từ tính. Máy ghi hình video (Máy VHS, Umatic, Betacam hayDigital) thu tín hiệu ánh sáng qua hệ thống ống kính quang học của mình. Sau đó tín hiệu ánh sáng này được biến đổi thành tín hiệu điện từ và được ghi lại trên băng từ tính. Như vậy, chỉ trong khâu ghi hình, tín hiệu ánh sáng đến từ vật thể đã phải chịu hai lần mã hoá. Một lần để biến đổi tín hiệu ánh sáng thành tín hiệu điện tử, và lần thứ hai là khi ghi tín hiệu điện từ đó lên bằng từ. Cho dù máy có hiện đại đến đâu thì tín hiệu hình ảnh cũng bị suy giảm chất lượng ít nhiều. Khi đến máy thu, hình ảnh được tái tạo bằng cách tín hiệu video được ống phóng ra tia âm cực biến thành những chùm điện tử, rồi phóng những chùm điện tử tới bắn phá các nguyên tử phosphor trên bề mặt của đèn hình. Điều này một lần nữa làm suy giảm chất lượng hình ảnh thu được trên máy thu. Trong khi đó, hình ảnh của phim nhựa thu được bằng cách cho ánh sáng tác động trực tiếp lên các phân tử nhạy sáng trên phim ảnh. sau đó, những hình ảnh trên phim được chiếu lên màn ảnh bằng hai chùm sáng từ nguồn sáng của máy chiếu. Như vậy hình ảnh của điện ảnh không bị mã hoá lần nào nên chất lượng hình ảnh không bị suy giảm, hình ảnh thu được sẽ trung thực hơn so với hình ảnh video.

Khác biệt đáng kể thứ hai giữa phim nhựa và video là độ tương phản. Nếu như độ tương phản giữa khu vực sáng nhất và tối nhất của phim nhựa có thể đạt tỷ lệ100:1 thì trên hình ảnh video, tỷ lệ đó chỉ đạt 20:1 ở những điều kiện lý tưởng, thông thường chỉ đạt khoảng 15:1. Như vậy phim nhựa có khả năng chuyển tải một dải sắc độ lớn hơn rất nhiều so với hình ảnh video. Độ tương phản cao của hình ảnh cho phép phim nhựa tạo ra những khuôn hình có chiều sâu bối cảnh lớn. Do đó, phim nhựa có được những cảnh toàn và viễn vô cùng hoành tráng mà hình ảnh video không thể tạo ra. Sự vượt trội về khả năng tạo cảm giác không gian của điện ảnh là hơn tuyệt đối so với truyền hình.

Ngoài những hạn chế trên, hình ảnh video còn tối, mờ, không sắc nét, khó xác định ranh giới giữa sắc độ đỏ và da cam. không những thế mà nó còn phải đối phó với tình trạng "đuôi sao chổi" là những vệt sáng xuất hiện khi thể chuyển động trên màn ảnh. Tình trạng này càng trở nên tồi tệ khi vật thể chuyển động càng nhanh.

Không chỉ gặp phải những hạn chế và độ phân giải, độ tương phản của thiết bị thu - phát mà truyền hình còn phải đối phó với nhiều rào cản kỹ thuật khác. Việc sử dụng sóng điện từ để chuyền tài tín hiệu tạo ra cho truyền hình khả năng đến với lượng công chúng lớn, trên một không gian rộng, không phân biệt biên giới hành chính nhưng nó cũng tạo ra nhiều khó khăn. Sóng điện từ có thể bị nhiễu bởi nhiều nguyên nhân như: các nguồn phát sóng điện từ khác,tia lửa điện, điều kiện địa hình, điều kiện thời tiết… làm cho hình ảnh thu được ở máy thu không đẹp và ổn định,làm giảm chất lượng tác phẩm truyền hình. Điều kiện địa hình và thời tiết là một trở ngại khó vượt qua của truyền hình. Trong không gian, sóng điện từ truyền thẳng. Do bề mặt cong của trái đất,chúng ta chỉ thu được tín hiệu truyền hình trong một bán kính nhất định kể từ chân cột phát sóng. Ngoài khoảng cách giới hạn đó không thể thu được sóng truyền hình cho dù có tăng công suất máy phát lên đến bao nhiêu đi chăng nữa. Mặt khác sóng điện từ không vượt qua được các chướng ngại vật hoặc một phần tín hiệu bị trễ pha khi gặp phải vật cản, tạo ra những hình ảnh không sắc nét, hình ảnh có bóng trên màn hình máy thu. Do đó, điều kiện lý tưởng của ăngten thu là ở vị trí "nhìn thấy" cột ăngten của đài phát. Địa hình không bằng phẳng, đặc biệt là địa hình đồi núi là hạn chế rất khó vượt qua của truyền hình vô tuyến. Những vùng bị các dãy núi ngăn cách với cột ăngten phát sóng sẽ không thể thu được tín hiệu truyền hình,tạo nên các vũng lóm,vùng tối.

Như vậy, hình ảnh video của truyền hình kém hơn hình ảnh của điện ảnh về độ phân giải, độ tương phản. Ngoài ra, truyền thông truyền hình còn vấp phải rất nhiều rào cản do các yếu tố kỹ thuật, cơ học, xã hội, tự nhiên,… gây nên. Điều này khiến cho truyền hình không thể thừa hưởng nguyên vẹn ngôn ngữ hình ảnh của điện ảnh mà nó chỉ có thể trên cơ sở kế thừa hệ thống ngôn ngữ đó để xây dựng cho mình một hệ thống ngôn ngữ hình ảnh phù hợp với những đặc trưng kỹ thuật của mình.
5, Những điểm phim tài liệu truyền hình được kế thừa từ phim tài liệu điện ảnh

Truyền hình là phương tiện truyền thông đại chúng dùng hình ảnh động và âm thanh dể chuyển tải thông điệp tới người xem. Chính vì vậy mà ngay từ khi ra đời, truyền hình đã kế thừa được hệ thống ngôn ngữ của điện ảnh. Vì điện ảnh sử dụng hình ảnh động kết hợp với âm thanh. Những yếu tố này được kết cấu theo một phương pháp ghép nối gọi là montage. Truyền hình đã được thừa hưởng những vũ khí lợi hại nhất tạo nên sức mạnh của loại hình truyền thông đại chúng này từ điển ảnh yếu tố ngôn ngữ chính của điện ảnh và truyền hình là hình ảnh động. Đây cũng là yếu tố ngôn ngữ mà truyền hình được thừa hưởng nhiều nhất từ những thành quả của nghệ thuật điện ảnh. Trước hết là hệ thống cỡ cảnh. hệ thống cỡ cảnh trong truyền hình gồm:



  • Viễn cảnh (extreme long shot - ELS)

  • Toàn cảnh rộng (very long shot-VLS)

  • Toàn cảnh (long shot - lịch sử)

  • Trung toàn cảnh (medium long shot - MLS)

  • Trung cảnh (medium shot - MS)

  • Trung cận cảnh (medium close up - MCU)

  • Cận cảnh (close up - CU)

  • Đại cận cảnh (big close up - BCU)

  • Đặc tả (extrenme close up - ECU)

  • Cảnh đôi (Two shot- TS)

  • Qua vai (over shoulder shot-OSS)

Các cỡ cảnh quay chân dung:
Sau hệ thống cỡ cảnh là góc quay. Nếu như cảnh quyết định cho ta xem cái gì góc quay sẽ cho ta xem như thế nào. Những góc quay căn bản của truyền hình cũng được kế thừa từ điện ảnh. Đó là quay bình điện, quay nghiêng, quay chúc, quay hất… Cùng với góc quay là hệ thống động tác máyvới lia, zoom, zoom giật, travelling…

Không chỉ học được ở điện ảnh những biện pháp bố cục khuôn hình, truyền hình còn tiếp thu được nghệ thuật sử dụng ánh sáng của điện ảnh. Tuy nhiên, hiệu quả ánh sáng trên chất liệu bằng từ không tốt bằng phim nhựa, đồng thời yêu cầu về nghệ thuật của tác phẩm truyền hình không cao nên nhiều khi ánh sáng không được chú trọng lắm trong truyền hình.

Yếu tố ngôn ngữ thứ hai của truyền hình là âm thanh. Âm thanh trong truyền hình gồm lời nói, tiếng động và nhạc nền. Một lần nữa, truyền hình được thừa hưởng ở điện ảnh kỹ thuật xử lý âm thanh,đặc biệt là kỹ thuật xử lý và nghệ thuật sử dụng tiếng động và nhạc nền. Đây là hai yếu tố âm thanh đóng vai trò khá quan trọng trong tác phẩm tài liệu truyền hình. Tiếng động được dùng để phản ánh thiên hiên, cuộc sống góp phần làm tăng tính chân thực của sự kiện, hiện tượng trong phim. Nhạc là một phần không thể thiếu trong phim tài liệu truyền hình. Nhạc được sử dụng như một phương tiện biểu cảm, tạo không khí cho phim.

Chỉ có ngôn ngữ thôi thì chưa đủ, truyền hình tiếp tục vay mượn điện ảnh cả hệ thống ngữ pháp hình ảnh- thủ pháp montage. Montage có nhiệm vụ bố cục tác phẩm truyền hình thành những câu hình ảnh (những xen hình) và những trường đoạn. Montage tạo nên chỉnh thể cho tác phẩm truyền hình.

Như vậy, truyền hình khi ra đời đã được thừa hưởng hầu như toàn bộ những hệ thống ngôn ngữ hình ảnh và âm thanh từ điện ảnh. Truyền hình chỉ phải làm cái việc chọn lọc và cải biến hệ thống ngôn ngữ đó cho phù hợp với những đặc điểm loại hình của mình.
6, Các thể loại phim tài liệu truyền hình

Phim tài liệu truyền hình là một trong bốn loại hình của nghệ thuật điện ảnh mà nguyên tắc hàng đầu là loại bỏ sự hư cấu, chất liệu của nó là những hình ảnh quay người thực việc thực. Phim tài liệu truyền hình có thể chia làm ba nhóm: chân dung, phóng sự, chính luận và nhằm vào ba đối tượng là: con người, sự kiện, vấn đề. Cả ba nhóm thể loại này thường có sự giao thoa, hoà nhập và hỗ trợ lẫn nhau.


6.1, Phim tài liệu chân dung

Là thể loại phim trong các loại hình phim tài liệu khoa hoc, phim truyện. Đối tượng thể hiện chính là nhân vật có thực với đầy đủ số phận, tính cách trong cuộc đấu tranh giữa con người với thiên nhiên, với con người, với bản thân mình. Trong phim tài liệu chân dung, tác giả phải tôn trọng các sự kiện trong thời gian, không gian lịch sử, nhưng có quyền giới thiệu những nhân vật có thực ấy theo cách nhìn và cách hiểu của riêng mình; việc hư cấu các chi tiết hoặc sự kiện của nhân vật, đôi khi có sự khác biệt thậm chí ngược hẳn lại với quan niệm đương thời. Ở Việt Nam các hãng phim tài liệu và truyền hình đã làm nhiều phim chân dung về những nhân vật điển hình trong chiến đấu và sản xuất, đó là các phim tài liệu về những nhân vật thực như: Kim Đồng, Lý Tự Trọng, Lê Mã Lương, Thiếu tướng tình báo Vũ Ngọc Nhạ (Ông cố vấn),…. Các tác giả cố gắng qua chân dung một con người đã làm nổi lên những sự kiện lịch sử của các phong trào các thời đại.




tải về 1.25 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   ...   9   10   11   12   13   14   15   16   17




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương