12 người lập ra nước Nhật Mục lục Lời tựa của dịch giả


Tại sao trở thành anh hùng dân tộc được?



tải về 1.61 Mb.
trang23/24
Chuyển đổi dữ liệu24.07.2016
Kích1.61 Mb.
#4415
1   ...   16   17   18   19   20   21   22   23   24

Tại sao trở thành anh hùng dân tộc được?

Khi luận về Matsushita Konosuke, điểm đáng nói nhất là từ một doanh gia ông đã trở thành anh hùng dân tộc vĩ đại nhất thời hậu chiến của Nhật Bản. Một nhà kinh doanh như ông có lẽ còn lâu mới lại xuất hiện.

Tại sao như vậy? Ta thử tìm hiểu qua thân thế, tư tưởng, hành động của ông xem sao. Như vậy, ta có thể thấy nhân vật này có ảnh hưởng thế nào đối với người Nhật thời nay, sẽ còn có ảnh hưởng gì tới người Nhật của thế kỷ XXI.

Ðiểm thứ nhất làm cho Matsushita Konosuke trở thành anh hùng dân tộc là truyện lập thân thành đạt của ông.

Nhà nghèo phải bỏ ngang trường tiểu học để đi ở đợ, rồi sau xây dựng nên một xí nghiệp khổng lồ, ông thật đáng gọi là "Thái tể đời nay188[1]."

Sinh ra ở một vùng quê nghèo nàn đến nỗi năm lên 9 tuổi phải bỏ ngang trường tiểu học đi ở đợ. Học lịch của ông như vậy là "bỏ ngang bậc tiểu học." Vậy mà ông đã gây dựng nên một đại xí nghiệp có tầm cỡ lớn nhất Nhật Bản, có hoạt động trên khắp thế giới. Truyện thành công như vậy đáng so sánh với truyện Thái tể Hideyoshi. Ðiều này ai cũng mơ ước đạt được và vì vậy đã trở thành yếu tố khiến Matsushita Konosuke trở thành anh hùng dân tộc của Nhật Bản.

Thêm nữa, thời nhỏ Matsushita yếu ớt cũng là điểm khiến người ta có cảm tình. Thật vậy, ông nhỏ con, gầy gò, chứ không có thân hình cứng cáp. Lại hay bệnh tật, tức là không được may mắn về mặt thể lực. Ðiểm này ông cũng giống như Hideyoshi.

Hideyoshi cũng thua kém người ta về mặt thể lực. Thời Chiến quốc, phải có thể lực mạnh mới trở thành hào kiệt được, nhưng Hideyoshi lại bé nhỏ, gầy yếu.

Cùng xuất thân nghèo nàn, cùng có thể lực yếu đuối, nhưng hai người đã thành công lớn trong thiên hạ. Với ý nghĩa đó, Matsushita Konosuke và Toyotomi Hideyoshi có nhiều điểm tương đồng. Ðiều này khiến cho mỗi người có cảm tình, và khi thành công rồi cũng thấy ít người ganh tị, ghen ghét. Nếu ông là con nhà giầu, tốt nghiệp trường đại học hạng nhất, rồi lại có thể hình đường đường một đấng nam nhi, thì có lẽ ông đã không được người ta coi là anh hùng dân tộc đâu.

Ðiểm thứ hai là con đường tới thành công của ông thật là trong sáng.

Từ phát minh ra đui đèn chĩa hai, đèn xe đạp, tới chế tạo ra radio "Kiểu trúng giải," rồi sau chiến tranh thì sản xuất "ba bảo bối" máy thu hình trắng đen, máy giặt và tủ lạnh, tất cả đều là những sản phẩm gia dụng gần gũi. Vì thế, ông được coi là người cải cách cuộc sống của người tiêu dùng.

Xưa nay, những người thành công trở thành tỷ phú có ít người là nhà cải cách mà phần lớn bị coi là đã dùng mánh lới buôn bán hoặc thủ đoạn chính trị bóc lột quốc dân đại chúng để tích lũy tài sản.

Chẳng hạn, người lập ra nhóm tài phiệt Mitsubishi, Iwasaki Yataro, quả là người tài. Thế nhưng, sự khởi nghiệp của ông là lập ra một công ty vận tải đường biển được chính phủ che chở. Rồi, nhờ có cuộc chiến tranh Tây Nam, ông chuyên chở lương thực quân nhu mà được lời to. Sau đó, "nhúng tay" vào than đá, ông cũng được cung cấp cho quân đội hay cơ quan nhà nước nên cũng lời lớn. Nghĩa là, có nhiều chi tiết về ông phải nói, song dù sao người đời cũng có ấn tượng rằng ông đã giầu to nhờ làm ăn với chính phủ.

Sau chiến tranh, còn nhiều doanh gia khác trở nên giầu sụ như Matsushita Konosuke. Nhưng phần đông những người đó đều nhờ trúng mánh về bất động sản, đường sắt hay than đá, nghĩa là dựa vào sự che chở của chính phủ, hoặc kinh doanh liều mạng, hoặc bám dính vào giới chính trị, nên nhiều khi bị nghi ngờ có sự mờ ám ở đằng sau lưng.

So với họ, Matsushita Konosuke chủ yếu phổ cập đồ điện gia dụng, nên được hâm mộ vì gần gũi với quốc dân hơn. Mỗi người cảm thấy cuộc sống được tiện nghi hơn nhờ sản phẩm mang nhãn hiệu National. Với hình ảnh một người cải cách về cả hai mặt, kỹ thuật và kinh doanh, Matsushita đã có những sáng kiến hay và dám mạnh bạo thực hiện những sáng kiến đó, vừa làm cho mỗi người được thoải mái đồng thời chính mình được giầu có. Người đời có ấn tượng tốt về ông là như vậy.

 

Khởi đầu kiểu "Kinh doanh Nhật Bản" với hình thức làm công suốt đời

Thứ ba là đã xây dựng nên kiểu Kinh doanh Nhật Bản thời hậu chiến.

Matsushita Konosuke là người đầu tiên có nhiều sáng kiến mới ở Nhật Bản. Trong những cái như vậy, sáng kiến dùng người suốt đời ông đưa ra trong những năm đại khủng hoảng kinh tế đầu thời Showa (tức là cuộc đại khủng hoảng kinh tế thế giới hồi năm 1930). Hình thức thuê người suốt đời như vậy về sau đã lan rộng ra khắp nước Nhật và trong thời hậu chiến đã được gọi là kiểu Kinh doanh Nhật Bản.

Thật ra, tập tục thuê người làm suốt đời ở Nhật Bản trước kia đã bị hiểu lầm là kiểu Kinh doanh Nhật Bản, chứ thật ra không phải vậy.

Thuê người làm suốt đời là tập tục có từ xưa của Nhật Bản.

Nhưng, trước đây đã có người thuyết giải như sau:

Thời Tokugawa, khi một đứa trẻ vào làm công cho một thương gia, nó bắt đầu bằng "thằng nhỏ," rồi "thằng nhỡ," cuối cùng là "quản gia" và được "chia màn cửa189[2]." Truyền thống này ngày nay được kế tục bằng hình thức thuê người suốt đời và thay cho sự "chia màn cửa" là khoản "tiền thôi việc190[3]."

Hoàn toàn sai. Việc chủ nhà "chia màn cửa" cho người làm thời Tokugawa là truyện bịa đặt sau thời chiến tranh. Ngay trong thời làm ăn thịnh vượng Genroku, thì năm người hay mười người mới có một người làm tới "quản gia." Rồi trong đám "quản gia" như vậy cũng phải mấy người mới có một người được "chia màn cửa." Sang thời Kyoho, nếu không vào ở rể, thì đừng hi vọng được "chia màn cửa."

Sang đến thời Taisho và Showa (tức là trước cuộc chiến tranh thế giới I tới đầu cuộc chiến tranh thế giới II), "tỷ lệ đổi ngang lao động" ở Nhật Bản cao nhất thế giới. Ðổi ngang lao động là đổi chỗ làm việc theo chiều ngang: tài xế lái xe nơi này lại đổi sang nơi khác cũng lái xe, thợ tiện ở xưởng này lại đổi sang xưởng khác cũng vẫn là thợ tiện. Người ta nói, không có nước nào trên thế giới mà người lao động lại dễ dàng bị sa thải như ở Nhật Bản thời đó. Cho đến năm 1939, cho đến khi "luật nhà máy" được sửa đổi, không có gì ngăn chặn được sự sa thải bừa bãi như vậy. Thậm chí còn có lý luận khẳng định sự sa thải vô tội vạ như vậy, chẳng hạn "lý thuyết về lao động tha phương."

Công nhân nhà máy Nhật Bản cơ bản là người lao động tha phương. Họ là con trai thứ hay con gái nhà nông. Vì thế, dù có bị sa thải, họ vẫn được cha anh hay bà con cô bác ở quê hương tiếp đón nồng hậu. Họ vẫn có thể trở lại làm nghề nông được, tuy thu nhập giảm đi nhưng không sợ chết đói. Rồi chờ có cơ hội tốt lại ra thành thị làm công nhân hay làm thuê cho nhà buôn.

Quanh đi quẩn lại như vậy từ sau khi tốt nghiệp tiểu học, con gái bắt đầu đi làm từ tuổi 13, 14 cho tới khoảng 20 tuổi, dành dụm tiền mua vật dụng chuẩn bị đi ở riêng, con trai đi làm tới khoảng 40 tuổi, nếu mua được dăm ba sào ruộng bằng tiền dành dụm để quy nông, thì như thế được coi là ăn nên làm ra rồi. Nhật Bản lấy chế độ đại gia tộc làm trật tự công cộng và thuần phong mỹ tục, cho nên người Nhật không câu nệ nơi làm việc. Người lao động không cần phải lập công đoàn đấu tranh phản đối sa thải. Ðó là chỗ đặc sắc của Nhật Bản.

Tóm lại, hầu hết người Nhật đều có nông thôn làm quê quán. Chỉ có một thời gian của đời người, họ đi làm tha phương ở nhà máy hay nhà buôn thôi. Như câu nói "nghề làm công lãnh lương là nghề bèo trôi bập bềnh," họ không quan niệm gửi gắm toàn thể cuộc đời mình cho nghề đi làm lãnh lương. Họ cũng không nghĩ rằng nơi làm việc có trách nhiệm với toàn thể cuộc đời mình.

Với bối cảnh trên, cuộc đại khủng hoảng kinh tế đã bùng ra vào những năm 1929, 1930. Lúc đó, Matsushita Konosuke đã không sa thải nhân viên. Ông cho làm việc nửa ngày. Ngày nghỉ thì nhân viên cùng nhau đi bán sản phẩm tồn kho. Công ty ông nhờ thế đã vượt qua khỏi tình thế khó khăn. Như vậy, ông đã nghĩ ra và thực thi chính sách xí nghiệp có trách nhiệm đối với đời sống của công nhân.

May thay, như đã kể trên, từ máy radio "Kiểu trúng giải," doanh thu gia tăng khiến công ty ông không phải lo tới sa thải người nữa. Tuy có may mắn thật, song sáng kiến cố gắng vượt qua khó khăn của ông là độc đáo. Quả là sáng kiến của một người xuất thân lao động, hiểu thấu tâm can của người lao động. Phương thức này sau chiến tranh đã lan rộng ra tất cả các xí nghiệp và trở thành kiểu "Kinh doanh Nhật Bản" vậy.

 

Kỹ thuật thì Honda, Kinh doanh thì Matsushita

Matsushita Konosuke thường được xếp ngang hàng với Honda So’ichiro như là đại biểu cho những nhà kinh doanh mở nghiệp. Một bên là đồ điện một bên là ôtô, tuy khác nhau, nhưng đều là những sản phẩm đại trà đã phát triển thời hậu chiến cả. Nhưng giữa hai người, có một điểm khác nhau căn bản. Cả hai cùng xuất phát từ cảnh ngộ giống nhau, nhưng phương pháp kinh doanh quản lý của họ khác nhau lắm.

Honda So’ichiro khởi nghiệp từ xe môtô rồi sau mới tiến sang xe ôtô, nghĩa là chỉ đeo đuổi một mục tiêu duy nhất. Ông xuất phát từ một nhà kỹ thuật thuần túy, rồi cũng giã từ cuộc đời với tư cách nhà kỹ thuật thuần túy.

Nghĩa là, Honda So’ichiro say mê xe môtô và xe ôtô nên đã dốc toàn tâm toàn lực vào đó. Nhờ ngành ôtô thành công mà ông đã thành đạt. Chứ nếu ngành ôtô không thành công thì chưa chắc gì Honda đã trở thành một doanh gia vĩ đại.

Trong cuốn sách của mình nhan đề là "Ðắc ý giương buồm lên," Honda So’ichiro có viết ông đã làm cái đắc ý nhất và đã xả thân ra thực hành điều đó. Trong sinh hoạt cá nhân, Honda cũng ngang nhiên làm những gì ưa thích, không để ý đến con mắt những người xung quanh, như đeo dây xuyến vàng, lái máy bay, v.v.. Về mặt kinh doanh, ông cũng tự biết giới hạn của mình, vì thế, ông đã giao hẳn quyền kế toán và quản lý vốn liếng cho người phó của ông, là Fujisawa Takeo. Làm được như vậy, quả Honda là người xuất chúng, đồng thời không hề che đậy những điểm yếu của mình, điều này cũng chứng tỏ Honda là người giỏi.

Khi từ chức tổng giám đốc, ông nói ông đã gây dựng nên một công ty là theo ý thích của mình nên chủ trương không truyền lại cho con trai, rồi cùng với người phụ tá của mình rút chân khỏi mọi chức vị trong công ty. Ðiều này chứng tỏ ông là người biết mình, một người hạnh phúc đã đặt cả cuộc đời mình cho việc làm ưa thích, một nhân vật sống theo niềm tin của mình.

Ðối lại, Matsushita Konosuke là một doanh gia có quan niệm hài hòa. Từ đui đèn chĩa hai cho tới những sản phẩm điện gia dụng khác, ông đã có rất nhiều phát minh và sáng chế. Người ta nói số bằng phát minh của ông đứng hàng nhất nhì trong giới điện cơ. Thế nhưng bản thân ông không câu nệ vào một lãnh vực sản phẩm nào cả. Thậm chí, ông khéo xây dựng tổ chức và quan hệ người đối người, đến nỗi người ta ví ông là "Kinh doanh thì Matsushita." Ở điểm này, ông khác hẳn với Honda So’ichiro.

Nói cách khác, Matsushita tuy là một kỹ thuật gia ưu tú, nhưng chính về mặt tổ chức và quan hệ con người, ông đã phát huy tài thiên bẩm còn hơn thế nữa. Vì thế, ông đã xây dựng nên được tư tưởng và hệ thống kinh doanh kiểu Nhật Bản, từ mạng lưới cửa hàng bán lẻ, tới chế độ thuê người suốt đời.

Chế độ thuê người suốt đời mới chính là bước đầu của nền kinh doanh kiểu Nhật Bản. Từ năm 1933, ông đã áp dụng chế độ kinh doanh bộ môn, nghĩa là phân chia doanh nghiệp ra thành nhiều bộ môn một để phân tán quyền hạn. Ðây chính là tạo ra một cơ cấu quyết định theo chủ nghĩa tập đoàn, một đặc điểm vô cùng lớn của nền kinh doanh kiểu Nhật Bản.

Ở nước ngoài, tổng giám đốc là người nắm toàn quyền của công ty. Vì thế, quyết định được mau lẹ và trách nhiệm được minh bạch. Công ty Matsushita Denki Sangyo cũng thế, Matsushita Konosuke là người khởi nghiệp, lại được coi là "ông thánh kinh doanh," thì hẳn ông có quyền tuyệt đối. Nếu giữ nguyên tổ chức như vậy, ông hẳn sẽ trở thành độc tài. Ðể tránh điều đó, Matsushita Konosuke đã tìm cách phân tán quyền hạn bằng cách áp dụng chế độ kinh doanh bộ môn. Làm như vậy cũng chẳng lu mờ cái tính thần thánh của cá nhân ông đi mà lại phân tán được quyền hạn trong tổ chức. Thật ra, có thể nói chính vì ông biết rằng ông vẫn có thể có quyết định tối chung được, nên mới dám áp dụng chế độ kinh doanh bộ môn như vậy. Nói cách khác, ông đã khéo kết hợp sự phân chia quyền hạn với sự tập trung quyền uy.

 

Công bố và thực thi phong trào PHP

Lý do thứ tư khiến Matsushita trở thành anh hùng dân tộc được, là ông còn là nhà triết học thuyết giảng khái niệm kinh doanh nữa.

Như đã nói, chẳng bao lâu sau chiến tranh, ông đã có sáng kiến và phát động phong trào PHP. Làm được như vậy là vì ông có tự tin vào thành công trong việc chế tạo ra nhiều sản phẩm làm cho đời sống người dân tiện nghi hơn, đồng thời nâng cao thu nhập của người làm công và tạo ra sự phồn vinh cho các cửa hàng đại lý.

Sản xuất thật nhiều đồ điện gia dụng tiện lợi, rồi bán ra với giá rẻ, sẽ làm cho nền kinh tế phát triển, làm cho công ty chế tạo có lời, nhân viên được lương bổng cao, cửa hàng đại lý kinh doanh vững bền với hợp đồng làm ăn lâu dài với nhà sản xuất. Nghĩa là như vậy có thể trông nom được toàn diện mọi mặt. Matsushita đã ngay từ sớm xây dựng mạng lưới như vậy rồi.

Với thành tựu như trên, Matsushita Konosuke nghĩ rằng con người ta nếu làm ăn cần cù sẽ được sung sướng. Vậy ở thời buổi ngày nay, người ta nên nhờ sự phồn thịnh kinh tế mà ổn định cuộc sống hòa bình và hạnh phúc. Ðây là phản đề đối với tư tưởng quân phiệt đã gây ra chiến tranh, đã tìm cách xây dựng vùng Ðại Ðông Á Cộng Vinh Quyển191[4].

Tư tưởng khuyến khích sự cần cù của Matsushita Konosuke có chỗ tương đồng với Ishida Baigan nói ở Chương VII. Có thể nói đó là tư tưởng "triết học cần cù" của thế kỷ XX. Song, khác với Baigan, ông không thuyết giảng sự tiết kiệm. Ðối với ông, việc sử dụng những sản phẩm văn minh như đồ điện gia dụng, là tốt. Nhờ dùng những sản phẩm như vậy mà công việc lao động giảm đi, các bà nội trợ có thêm thời giờ nhàn rỗi, thì đó là điều hay.

Năm 1946, khi Matsushita lập ra Viện Nghiên cứu PHP với mục đích chính là để quảng bá tư tưởng của ông, hơn là bắt tay vào công tác văn hóa xí nghiệp. Thời ấy, ở Nhật Bản chưa có khái niệm hoàn trả lại xã hội một phần lợi nhuận đã thâu được từ xã hội. Ông đã lập ra Viện Nghiên cứu PHP vào lúc mỗi người sống trong sự bất an của thời kỳ bị chiếm đóng. Bản thân Matsushita bị hạn chế đủ thứ bởi những luật lệnh mới về dân chủ và về kinh tế. Ông không nghèo nhưng cũng không lấy gì làm giầu. Tương lai thì u ám không có triển vọng tốt đẹp. Chưa kể, không chừng ông có thể bị tống giam lúc nào chưa biết.

Trước nhất, ông đã bỏ tiền riêng ra để truyền bá "triết học Matsushita". Nhiều người khuyên ông nên tổ chức thành Hội công ích để được lợi về mặt thuế khóa, nhưng ông đã không làm như vậy. Ông giữ nguyên hình thức công ty cổ phần. Có lẽ ông muốn tách rời hẳn vấn đề văn hóa xí nghiệp ra với những vấn đề văn hóa khác.

Viện nghiên cứu PHP, với mục đích quảng bá tư tưởng của Matsushita Konosuke, hướng dẫn quần chúng về mặt tư tưởng, nay đã trở thành một cơ quan xuất bản và tu nghiệp quy mô, truyền bá một loại tư tưởng mới đáng gọi là "văn hóa PHP." Viện nghiên cứu này chủ trương kinh tế tự do và chủ nghĩa dân chủ. Còn hơn thế nữa, hoạt động của viện đã chỉ nhờ vào sự kinh doanh cá nhân của Matsushita Konosuke. Ông quan niệm:

"Tiền hoạt động của mình do mình tự kiếm ra, như thế hoạt động mới phát triển và kéo dài vĩnh viễn được. Làm việc gì có ích cho đời, tự nhiên sẽ có tiền."

Thật là một ý thức tự giác kinh doanh mãnh liệt. Cho nên, sự kiện Viện Nghiên cứu PHP đã được tổ chức thành một công ty cổ phần, và hoạt động sao cho có lời, là triết lý độc đáo của chính Matsushita.

Qua những bài luận thuyết trên tạp chí cơ quan của Viện Nghiên cứu PHP và những tác phẩm khác, Matsushita đã liên tục biểu đạt tư tưởng của mình.

Ví dụ, xí nghiệp phải có nguồn vốn nội bộ như nước chứa trong đập, lúc tháo ra lúc đổ vào, chứ không nên làm ăn kiểu gạo ăn đong từng bữa. Ông triển khai lý luận về "kinh doanh kiểu đập nước," trong đó ông khẳng định quyền ưu tiên cho việc bảo lưu vốn nội bộ, và kết luận rằng giới kinh doanh Nhật Bản nên làm như vậy.

Lý luận trên của ông như vậy là ngược hẳn với tinh thần chủ nghĩa tư bản Âu - Mỹ, theo đó xí nghiệp chỉ là hình tức trá hình, lợi nhuận của xí nghiệp phải được chia đều cho cổ đông. Nhưng, lý luận của ông đã được người Nhật tiếp nhận và sự chia phần lời thấp cho cổ đông đã trở thành thông lệ ở Nhật Bản. Thậm chí, lời nói của ông khẳng định lợi nhuận thích đáng, như gọi đó là "phần thưởng" của người tiêu dùng, cũng đã được mỗi người đồng tình.

Xí nghiệp nhờ có lợi nhuận mới đứng vững được. Ðồng thời, giảm giá thành sản phẩm xuống, sản xuất đại trà để cung cấp được thật nhiều. Như vậy ổn định được sự sử dụng lao động, xúc tiến được sự tiêu dùng, và kết quả là mỗi người đều sung sướng cả. Ðó là "triết học tăng trưởng" của Matsushita.

Với niềm tin đối với chủ trương xí nghiệp phải có lời như vậy, Matsushita Konosuke cuối cùng đã trở thành người đề xuất cải cách chính trị ở tuổi quá 90. Trong những năm cuối đời, ông nói không ra tiếng nữa, người thường nghe không được, phải nhờ người thư ký riêng quen nghe tiếng nói của ông diễn đạt lại mới hiểu, nhưng sự nhiệt tâm của ông muốn làm cho Nhật Bản trở nên tốt hơn nữa, vẫn không hề suy giảm.

Trong những cải cách chính trị của ông, có những đề nghị như đại cải cách toàn quốc, bỏ hẳn mỗi thứ thuế, nghĩa là biến Nhật Bản thành một quốc gia không có thuế.

Matsushita đã chỉ dẫn thành công cho nhiều nhà kinh doanh cửa hàng đại lý, rồi nhiều nhà kinh doanh xí nghiệp. Sau cùng, ông cảm thấy cần phải đào tạo thêm nhiều nhân tài để cải cách Nhật Bản. Cho nên, ông đã lập ra trường "kinh tế chính trị Matsushita." Rồi ông lại tổ chức "Hội tọa đàm Kyoto," tự mình làm chủ tọa và tiếp tục tham gia cho tới 90 tuổi, chịu khó lắng nghe ý kiến của những học giả.

 

Xúc tiến chí hướng lập thân xử thế

Người Nhật ngày nay đã chịu ảnh hưởng gì, đã tiếp thu ý thức gì của Matsushita Konosuke?

Trước nhất, đó là tư tưởng về "nghề buôn bán là nghề bán hạnh phúc."

Xưa nay, người ta quan niệm rằng nghề buôn bán chỉ có mục đích ích kỷ là làm giầu. Hơn nữa, phần lớn người ta đều cho làm rằng lao động là cực nhọc, mà chỉ có tiêu tiền kiếm được sau khi lao động cực nhọc, mới là sung sướng.

Matsushita Konosuke đã thoát ra khỏi cái quan niệm đó, ông coi nghề buôn bán là nghề làm cho thiên hạ được sung sướng. Do đó, làm việc là thú vui, xí nghiệp là nơi có lẽ sống. Xí nghiệp là một cộng đồng sinh hoạt, từ đó chế tạo rồi bán ra sản phẩm làm cho đời sống gia đình tiện nghi, và như thế làm cho thế gian trở nên hạnh phúc. Với ông, bản chất của nghề buôn bán là đem lại hạnh phúc trước nhất cho nhân viên xí nghiệp, rồi cho gia đình người tiêu dùng và rốt cục cho toàn thế gian. Như vậy, ông đã đưa ra khái niệm mới coi "nghề buôn bán là nghề bán hạnh phúc" và suốt đời đã không ngừng cống hiến cho mục đích này.

Sự mỹ hóa nghề buôn bán, tư tưởng cộng đồng hóa xí nghiệp, đòi hỏi lòng ham muốn lao động và lòng trung thành của nhân viên với xí nghiệp, đều là sự "tán dương con người xí nghiệp."

Xem như trên, ta thấy Matsushita Konosuke đã làm thành một đôi tương xứng với Ikeda Hayato. Cái mà Ikeda Hayato nghĩ về mặt chính trị, thì Matsushita thực hành về mặt kinh doanh. Nhờ hai bánh xe chính trị và kinh doanh như vậy mới tạo ra nước Nhật tăng trưởng trong thời hậu chiến được.

Thứ hai, ông đã cổ súy cho triết lý lập thân xử thế.

Với hai bàn tay trắng dựng nên nghiệp lớn, Matsushita đã cưu mang hàng mấy chục ngàn người làm, làm giầu cho bao nhiêu cổ đông, mang lại tiện nghi hạnh phúc cho biết bao nhiêu gia đình trên toàn quốc Nhật Bản. Nhìn vào cái hình ảnh đó, nhiều người Nhật khác cũng đã ôm ấp một giấc mơ tương tự.

Thời hậu chiến, tỷ lệ học sinh trung học tiến lên bậc đại học, đã tăng lên gấp mấy lần so với thời tiền chiến. Sự thi đậu vào trường đại học trở nên khó khăn. Vì thế, ai nấy đều không lấy làm hổ thẹn khi nêu cao mục tiêu: đậu vào trường đại học hạng nhất, đỗ đạt rồi đi làm cho xí nghiệp hạng nhất.

Bản thân mình học đại học hạng nhất, con cái cũng cho vào đại học hạng nhất. Ðể được như vậy, từ bậc tiểu học đã đi học thêm, nào lớp tư thục, rồi lớp luyện thi. Ðậu đại học rồi, thì chen chân vào xí nghiệp có khả năng phát triển, mau chóng tiến thân đừng để chậm hơn người khác. Ðể được như vậy, thì làm thêm giờ hay làm cả ngày nghỉ cũng không quản ngại. Rồi mau mau mua nhà, con trai cũng lại cho vào đại học hạng nhất. Ngày nay nỗ lực của người ta, là để đạt được mục tiêu ấy. Sự nỗ lực không mệt mỏi, cái chủ nghĩa hướng tới tương lai, hướng tới thành công trong xử thế ấy, đã đóng vai trò to lớn là làm cho nền kinh tế Nhật Bản tăng trưởng.

Giấc mộng lập thân xử thế như trên đã ăn sâu vào lòng người Nhật thời hậu chiến. Nhưng, khôi hài thay, truyền bá giấc mộng ấy lại là Matsushita Konosuke, một người ít học chính quy nhưng đã thành công.

Thời Minh Trị, giấc mộng của người ta là "Sau này làm nên đại tướng hay đại thần (bộ trưởng)." Nhưng thực tế là có rất ít người đạt được như vậy. Phần đông người ta đã bỏ giấc mộng đó từ sớm, đã thôi học từ bậc tiểu học.

Thời hậu chiến, thanh thiếu niên Nhật ít người còn ôm những giấc mộng lớn không tưởng nữa. Họ bằng lòng với một giấc mộng nhỏ: đó là tốt nghiệp một đại học hạng nhất rồi vào làm cho một công ty hạng nhất. Chính vì như vậy, mà đông người có thể cùng có chung một giấc mộng được. Trong đám người như vậy, sự hiện diện của một vị anh hùng ít học như Matsushita Konosuke, đã cho người ta một lời bào chữa kỳ diệu. Họ nói: tụi tôi đeo đuổi giấc mộng cỏn con bằng cách chăm lo học thi, trở thành người xí nghiệp, nhưng quyết không hề coi thường hay miệt thị những người ít học. Hãy coi Matsushita Konosuke, không thấy toàn dân Nhật kính trọng ông đó sao?

Giấc mộng Mỹ (American Dream) là ai cũng có thể thành công lớn, ai cũng có thể trở thành đại phú hào. Ðó là giấc mộng từ ngôi nhà tranh thành tổng thống (Abraham Lincoln) hoặc từ một cái vali hành lý thành đại doanh gia, tức là giấc mộng xuất phát từ những cá nhân thành công.

Giấc mộng Nhật Bản (Japanese Dream) thì khác. Ðó là: học luyện thi, đậu trường đại học kha khá, vào làm công ty kha khá hay cơ quan công quyền để có cuộc sống ổn định, không lo bị sa thải, có tiền tiêu vặt, có nhà riêng. Rồi giá bất động sản tăng lên thì cũng trở nên giầu có vừa vừa. Ðó chính là một giấc mộng xã hội bình thường, mà Matsushita Konosuke ấp ủ với chế độ làm thuê suốt đời và chế độ phân tán quyền hạn của đường lối kinh doanh Nhật Bản thời hậu chiến.

 

Ðẻ ra "người xí nghiệp" và "xã hội chức lộc"

Như nói trên, thành tựu thứ ba của Matsushita Konosuke là "Kinh doanh kiểu Nhật." Hình thức kinh doanh này lan rộng ra đã đẻ ra "người xí nghiệp" và "xã hội chức lộc."

Với thành công ở công ty Matsushita Denki Sangyo, Matsushita Konosuke lý luận rằng mỗi xí nghiệp nên áp dụng đường lối thuê người suốt đời. Trong thời kỳ trước chiến tranh và ngay trong khoảng mười năm sau chiến tranh, hầu hết các nhà kinh doanh khác ở Nhật Bản đều phủ nhận đường lối đó. Họ vẫn tiếp tục đường lối sa thải tùy ý trong kinh doanh. Vì thế, đã xẩy ra nhiều cuộc đấu tranh gay gắt của người lao động, như vụ Shimoyama192[5] và vụ Matsukawa193[6] của Hệ thống đường sắt quốc doanh, hay những vụ khác như vụ đình công của ngành điện cơ, vụ ngày Lao động đẫm máu, v.v..

Thế rồi, kinh tế Nhật Bản phục hồi nhanh chóng. Năm 1950, cuộc chiến tranh Triều Tiên bùng nổ. Các xí nghiệp Nhật Bản bắt đầu tích cực giữ người làm. Thế rồi từ năm 1955 thì chế độ thuê người suốt đời mới bén rễ. Nghĩa là sự việc đã đúng như "Matsushita Konosuke đã nói."

Những nước công nghiệp tiến bộ phương Tây như Anh, Ðức, Mỹ, tất cả đều có một thời kỳ kinh tế phát triển mạnh. Ðó là thời kỳ các công nghiệp đại quy mô thành hình, hệ thống lưu thông vật tư và giao thông được hiện đại hóa. Trong quá trình ấy, xã hội địa vực và chế độ gia đình bị băng hoại, thành thị tràn đầy những người "lao động tự do." Nhưng sự phát sinh ra "người xí nghiệp" và "xã hội chức lộc" như ở Nhật Bản, thì không thấy có ở nước nào khác cả.

Tại sao như vậy? Ðó là vì trong thời kỳ kinh tế tăng trưởng cao độ sau chiến tranh, thanh niên nông thôn đã đổ xô ra thành thị, làm trong các xí nghiệp, ở trọ trong ký túc xá hay chung cư của xí nghiệp. Vì thế, một mặt thì cộng đồng xã hội địa vực ở nông thôn bị "băng hoại", mặt khác cộng đồng địa vực ở thành thị lại không thành hình. Do đó, đám người lao động từ nông thôn ra thành thị chỉ có nơi làm việc để nương tựa cho nên họ bám chặt lấy xí nghiệp.

Như vậy đó là lý do khách quan làm cho người Nhật thời hậu chiến phát triển thành "người xí nghiệp." Thêm vào đó, là chủ trương của Matsushita Konosuke cộng đồng hóa xí nghiệp thành nơi làm việc suốt đời. Như vậy đủ làm cho người Nhật có ý thức quy thuộc thân phận vào xí nghiệp. Xí nghiệp cũng lợi dụng ý thức đó cổ võ cho lòng trung thành đối với xí nghiệp.

Xí nghiệp xây ký túc xá cho người làm công từ thôn quê ra. Xí nghiệp chuẩn bị đầy đủ cơ sở an sinh phúc lợi, khuyến khích và tài trợ các hoạt động câu lạc bộ như câu lạc bộ thể thao, câu lạc bộ nghệ thuật cắm hoa, câu lạc bộ giải trí, v.v.. Ðể mua hàng, thì xí nghiệp tổ chức hợp tác xã bán hàng hóa với giá rẻ cho người làm công. Ði du lịch thì ở trọ ngay các cơ sở nghỉ ngơi của xí nghiệp, vừa rẻ vừa tiện lợi. Tóm lại, xí nghiệp làm mọi cách giữ người lại cho mình.

Kinh doanh kiểu Nhật Bản như vậy là do Matsushita Konosuke nghĩ ra và thực hiện trước nhất. Rồi sau khi "thể chế năm ’55" được xác lập thì kiểu kinh doanh như vậy lan rộng ra toàn nước Nhật, và dần dần trở thành "đặc điểm Nhật Bản."

Kết quả là "người xí nghiệp" không giao thiệp với người ngoài xí nghiệp. Họ trở nên kinh sợ đối với vấn đề chuyển đổi nơi làm việc, vì sợ mất hết bạn đồng nghiệp, mất hết bạn chơi.

Nói một cách tượng trưng, "xã hội chức lộc" do "người xã hội " tạo thành, là nơi dù gặp khó khăn cũng không sa thải nhân viên, như Matsushita Konosuke đã làm trong thời kỳ đại khủng hoảng kinh tế. Sự kiện Matsushita Konosuke không sa thải người trong hoàn cảnh khó khăn như vậy, ít nhất cũng đã trở thành truyện "thần thoại" có hiệu quả lớn đối với sự xác lập của hình thức kinh doanh Nhật Bản.

 



tải về 1.61 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   ...   16   17   18   19   20   21   22   23   24




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương