12 người lập ra nước Nhật Mục lục Lời tựa của dịch giả


Chế độ quan liêu (công chức) đã không thể thiếu được cho sự hiện đại hóa



tải về 1.61 Mb.
trang15/24
Chuyển đổi dữ liệu24.07.2016
Kích1.61 Mb.
#4415
1   ...   11   12   13   14   15   16   17   18   ...   24

Chế độ quan liêu (công chức) đã không thể thiếu được cho sự hiện đại hóa.

Còn một mặt nữa, là sự hình thành và chức năng của cơ chế quan liêu. Phần lớn các bộ sở Nhật Bản đều tự hào là cơ quan nuôi dưỡng ra nhiều nhân tài, nhiều doanh nghiệp và thực hiện nhiều chức năng hiện đại. Không những chỉ nuôi dưỡng, mà đối với mỗi lãnh vực, họ còn hăng say trong công tác xây dựng thể chế cộng tác hài hòa, chỉ đạo hướng dẫn cho thông suốt các quy cách, các tiêu chuẩn. Nếu nhìn từ mặt trái của sự việc này, thì quy chế của cửa quan là ban cho giới doanh nghiệp cái lợi ích được bảo hộ chống lại sự cạnh tranh của kẻ mới nhập cuộc. Chính nhờ cơ chế đó, mà việc nới rộng quy chế bao giờ cũng bị giới chuyên gia và giới doanh nghiệp phản đối.

Những lãnh vực mà quan liêu chỉ đạo mạnh mẽ nhất, là giáo dục, y tế, xây dựng, giao thông vận tải, truyền thông và an ninh. Những lãnh vực này chưa bao giờ bị phơi bày ra trước sự cạnh tranh quốc tế, cho nên sự đồng lõa của cơ quan công quyền và giới doanh nghiệp đã tạo ra tình trạng giá cả cao, phí tổn cao. Xe ôtô, hàng điện - điện tử đều là những ngành sản xuất phải cạnh tranh khốc liệt trên thương trường quốc tế, nhưng ở trong nước, thì họ lại được hưởng ân huệ không ít của quy chế về cơ chế lưu thông hàng hóa. Thế nhưng, hiện nay, cái đảm phụ về giá cả cao của các ngành nghề khác, mà họ phải gánh chịu thì ngày một lớn.

Người ta thường nói: "Ở Nhật Bản, những ngành nghề bán hàng cạnh tranh ra nước ngoài có hối suất 1 đôla bằng 100 Yen, những ngành nghề được bảo hộ chống lại sự cạnh tranh quốc tế có hối suất 1 đôla bằng 200 Yen, và sau cùng là những ngành nghề không bị cạnh tranh ngay cả ở trong nước lại có hối suất 1 đôla bằng 360 Yen."

Chẳng hạn, phí thông hành (giá vé) trên các tuyến đường cao tốc so với nước ngoài thì rất cao. Dĩ nhiên là vì có sự khác nhau về giá cả đất đai, về địa hình địa vật phải khắc phục, song ngay cả với những nơi địa hình tương tự như ở Âu Mỹ, phí tổn xây dựng ở Nhật Bản cũng đắt khoảng gấp đôi. Lý do thường được nói tới từ lâu, là vì Nhật Bản có nhiều động đất, nên phải xây kiên cố hơn.

Năm 1994, ngày 17 tháng 1, ở Los Angeles, Mỹ, có động đất lớn, làm đổ nhiều nhà cửa, cầu đường. Lúc đó, từ giới doanh nghiệp xây dựng cho tới cơ quan công quyền Nhật Bản, nơi nơi đều đồng thanh lên tiếng rằng, nhà cao tầng và đường cao tốc Nhật Bản được chú trọng đến tính an toàn nên nhất định không hề gì, khác với Mỹ coi ưu tiên sự thi công xây dựng ít tốn kém và nhanh.

Thế nhưng, chỉ đúng một năm sau thôi, ngày 17 tháng 1 năm 1995, trận động đất lớn Hanshin - Awaji130[8] đã xẩy ra, và nhà đã đổ cũng như đường cao tốc bị phá hủy nhiều hơn ở bất cứ một nước nào khác. Dĩ nhiên, mức độ của trận động đất khác nhau, địa bàn xảy ra trận động đất khác nhau, nên khó có thể kết luận chính xác hậu quả được, nhưng có một điều chính xác: đó là lời tuyên bố của giới chức xây dựng rằng đường cao tốc Nhật Bản tuyệt đối an toàn, là sai lầm.

Nghĩa là, mặc dầu giá cả xây dựng công cộng tương đối cao, song tính an toàn lại không cao lắm. Ngược lại, sở dĩ giá cả cao là vì giới xây dựng phen với nhau, ăn ý với nhau, đồng lõa với nhau nâng giá lên. Rồi, thủ tục rườm rà làm tốn tiền hơn. Thế thôi.

Ở Nhật Bản, trong mỗi ngành nghề, ở mỗi lãnh vực, đều có những cơ chế khác nhau, mỗi cái đều tốn tiền cả. Những cơ chế như vậy, đã làm cho giới kinh doanh lớn lên, đồng thời làm cho quyền hạn của quan liêu mạnh lên.

Trong giáo dục, y tế, giao thông vận tải cũng vậy, sự việc cũng tương tự hay có phần còn tệ hơn. Cái căn bản coi thường người tiêu dùng, coi trọng người cung cấp của giới quan liêu, đã hình thành từ thời Minh Trị.

Chính phủ Minh Trị vì muốn hiện đại hóa gấp, nên một mặt đã lập ra nhiều cơ quan công quyền chuyên đào tạo ra nhà sản xuất, mặt khác đã lập ra Bộ Nội Vụ làm cơ quan công quyền có chức năng bảo vệ quần chúng (người tiêu dùng). Những người làm việc cho các cơ quan công quyền này đều được tuyển lựa qua kỳ thi, chứ không quan tâm gì đến lai lịch hoặc giai cấp xuất thân của họ. Người đã lập ra chế độ quan liêu như vậy, chính là Okubo Toshimichi vậy.

Với ý nghĩa đó, người ta có thể nói không quá lời rằng những vấn đề phải đương đầu hiện nay, như sự giảm bớt quy chế, sự khác biệt giá cả trong và ngoài nước, v.v., thật ra đã bắt đầu từ thời Okubo. Có rất nhiều người đáng được suy tôn là "bậc nguyên huân của thời Duy tân Minh Trị," song, xét cái ảnh hưởng đối với Nhật Bản ngày nay, thì phải kể Okubo Toshimichi chính là một trong "Mười hai người lập ra nước Nhật."

 

Dùng quyền hạn và mưu lược phân hóa phe phản đối

Cái tên Okubo Toshimichi được mỗi người biết đến, song thực thể về ông ta thì không hẳn được biết đến rõ ràng. Vây ông ta là người như thế nào?

Okubo Toshimichi sinh năm 1830 tại phiên bang Satsuma (bây giờ là tỉnh Kagoshima), tức là năm thứ nhất của niên hiệu Tenpo (Thiên Bảo), niên hiệu được quen biết với "cuộc cải cách Thiên Bảo." Cha là môt phiên sĩ Satsuma, tức là một võ sĩ samurai hạng trung của phiên bang Satsuma.

Năm 1846, (niên hiệu Hoàng Hóa năm thứ ba), ở tuổi 17 (tuổi đếm), ông được tuyển làm thư ký sở đăng ký của phiên bang Satsuma. Mới 17 tuổi đã được tuyển làm thư ký, thì hẳn Okubo Toshimichi phải là người văn hay chữ tốt, biết sử dụng bàn toán rành rọt. Sau đó, nhân cái gọi là "vụ đổ bể Takasaki," tức là một vụ tranh chấp trong phiên ban, cha ông bị trục xuất và ông bị cách chức. Toshimichi bị mất chức thư ký từ lúc 21 tuổi tới lúc 24 tuổi.

Năm 1857 (niên hiệu An Chính năm thứ tư), ở tuổi 28, ông trở thành một hạ sĩ quan. Năm ấy, Saigo Takamori131[9] cũng trở thành hạ sĩ quan. Nghĩa là ở thời điểm đó, cả hai bậc nguyên huân của thời Duy tân Minh Trị đều đã xuất hiện trên sân khấu. Tuy nhiên, chẳng bao lâu sau, vì cùng với nhà sư Gessho (Nguyệt Chiếu) và đồng bọn nổi loạn, bị đi đày, nên Saigo Takamori đã không ở chức này được lâu.

Okubo Toshimichi thực sự hoạt động là kể từ năm 1859, lúc 30 tuổi. Lúc đó, phiên chúa Satsuma đã thay đổi, Toshimichi lân la lại gần người cha của phiên chúa Shimazu Hisamitsu. Biết chúa Hisamitsu thích đánh cờ vây, Toshimichi đã học đánh cờ rồi mon men tới làm bạn chơi cờ. Thành công, năm sau, ông đã được phong làm tổ trưởng kế toán. Thời đó, 30 tuổi có thể coi tương đương với tuổi 40 ngày nay. Nghĩa là, đã tới tuổi trung niên rồi mới đi học đánh cờ để tìm cách tiếp cận phiên chúa. Như vậy, ông đáng được coi là một người có chí, một người ham địa vị.

Năm 1862 (niên hiệu Văn Cửu năm thứ hai), Toshimichi lần đầu tiên lên thành Edo (Tokyo ngày nay). Hai năm sau, ông trở về phiên bang Satsuma, lo việc cải cách hành chính của phiên bang, nhưng gặp phải sự chống đối từ nhiều mặt. Lúc đó, phiên bang Satsuma đã chuyển từ phe ủng hộ sang phe lật đổ mạc phủ Tokugawa. Okubo thì chuyên tâm vào việc vận động cải cách.

Thế rồi bốn năm sau tức là năm 1868 (niên hiệu Khánh ứng năm thứ tư), năm đổi niên hiệu thành Meiji (Minh Trị), mạc chúa đời thứ 15, Tokugawa Yoshinobu (1866-1867), sau khi đã hoàn trả quyền cai trị cho vua Minh Trị, lại gây hấn ở Toba Fushimi nhưng thua trận, phải bỏ thành Edo mà về quê ở Mito. Có người chủ trương phải đuổi đánh. Okubo là một trong số những người chủ trương mạnh nhất như vậy. Nghĩa là cho đến lúc này, ông xứng đáng được gọi là chí sĩ của cuối thời mạc phủ với tinh thần cách mạng như vậy.

Nhưng thật ra, Okubo Toshimichi đã phát huy thực lực, là sau khi cuộc cách mạng Duy tân Minh Trị đã thành công, sau khi chính phủ mới của vua Minh Trị đã thành lập. Năm thứ hai sau cuộc cách mạng Duy tân, tức là năm 1869, ông được phong Tham nghị, một chức quan trọng yếu trong triều, rồi năm 1871, ông được phong làm Bộ trưởng Kho bạc. Thời đó, Tham nghị là chức quan lớn hơn Bộ trưởng Kho bạc, và như vậy có nghĩa là ông bị giáng chức ít nhiều. Song vì biết cái vị trí tế nhị của mình nên ông đã nhận lãnh chức vụ mới này.

Thế nhưng tháng 11 năm ấy, ông tổ chức đoàn đại biểu thị sát nước ngoài, tôn Iwakura Tomomi làm đại sứ toàn quyền, còn chính mình nhậm chức phó sứ. Ðoàn đại biểu đã bỏ ra một năm rưỡi tuần sát các nước Âu Mỹ để rồi trở về nước tháng 5 năm 1873. Lúc đó Okubo được 44 tuổi. Từ đó trở đi mới là lúc Okubo phát huy thực quyền.

Trong lúc Iwakura và Okubo xuất ngoại, ở trong nước có cuộc tranh luận sôi nổi về vấn đề "chinh Hàn132[10]." Vừa ngoại du trở về, Okubo chủ trương đặt ưu tiên cho công tác chỉnh đốn việc trong nước. Và sau một cuộc tranh luận kịch liệt với nhóm Saigo Takamori, Eto Shinpei, Itagaki Taisuke, ông đã đè bẹp được chủ trương "chinh Hàn." Ðây là đầu mối cho cơ hội phát huy thực lực của Okubo.

Okubo Toshimichi được phục chức Tham nghị, đồng thời kiêm nhiệm chức Bộ trưởng nội vụ. Sau cuộc cải cách quan chế năm 1885, chức năng của Bộ trưởng nội vụ bao chùm tất cả các vấn đề nội chính. Với quyền hạn rộng lớn này, Okubo đã tìm mỗi cách cô lập hóa Saigo Takamori.

Năm 1875, cuộc hội đàm Osaka133[11] mở ra giữa Okubo Toshimichi, Kido Takayoshi (tức là Katsura Kogoro, một cựu phiên sĩ phiên bang Satsuma) và Itagaki Taisuke được mở ra, trong đó Okubo đã thuyết dụ được họ tham gia nội các. Năm trước đó, Okubo đã chấp nhận cho xuất binh sang Ðài Loan, và nhân cơ hội đó, đã lôi kéo được em trai Saigo Takamori là Saigo Tsugumichi.

Dùng thủ đoạn, Okubo lần lần chia rẽ phe đối lập. Chẳng hạn, bọn Eto Shinpei đã có lúc có thế lực chia hai dư luận trong nước, song dần dần đã bị cô lập hóa. Okubo quả là người có thủ đoạn. Kết quả là Chính phủ Minh Trị đã trở thành dụng cụ cho Okubo chuyên quyền. Nhân đó, ông đã thực thi chính sách "gia tăng sản xuất, tân hưng kỹ nghệ134[12]," tức là chính sách chấn hưng các ngành nghề sản xuất.

 

Xây dựng một quốc gia không để cho ngoại quốc coi thường

Những chí sĩ thời cuối Edo, như Takasugi Shinsaku, Katsura Kogoro, Saigo Takamori, đều là những người chủ trương "nhương di (sua đuổi man di)" để giữ vững chính sách "tỏa quốc," tức là đóng cửa đất nước, tức là "bế quan tỏa cảng." Họ đã cho ám sát những người khác chủ trương "mở nước" như Ðại lão135[13] Ii Naosuke và những người cùng chủ trương. Thế nhưng, chỉ mười năm sau đó, tất cả đám người "nhương di" này đều đã chuyển hướng thành chủ trương "mở nước." Nghĩa là những chí sĩ "tôn hoàng nhương di", sau khi trở thành quan cao của Chính phủ Minh Trị, đều đã chủ trương "khai hóa văn minh136[14]." Ở điểm này, họ đáng gọi là những kẻ "thất tiết," những người không giữ được tiết nghĩa, nhưng tuyệt nhiên không thấy họ có vẻ gì là ngượng nghịu, là xấu hổ trước hành vi đổi chiều, thái độ chuyển hướng như vậy của họ cả. Thật là một hiện tượng lạ lùng của thời kỳ Duy tân Minh Trị.

Sở dĩ như vậy là vì những chí sĩ Duy tân này không phải là những nhà tư tưởng. Họ chỉ là những người hành động thực tế. Ðối với họ, chủ nghĩa chủ trương không bằng lòng ái quốc, không bằng tinh thần không chịu thua kém người khác.

Những người sau này được tôn vinh là chí sĩ Duy tân, trước sự kiện "đoàn tàu đen xuất hiện137[15]," đã chỉ nghĩ làm sao dựng nên một nước Nhật không bị coi thường, làm sao xây dựng một tổ quốc Nhật Bản không bị ngoại quốc khinh thị. Muốn vậy, họ nghĩ, cần phải có võ lực mạnh. Nếu dùng võ lực đánh đuổi được đoàn tàu đen đi, thì ngoại quốc không thể khinh thường Nhật Bản được nữa. Võ sĩ samurai Nhật Bản thời ấy đã chỉ suy nghĩ đơn giản như vậy mà thôi.

Cũng có phiên chúa tưởng thế là thật, đã thực sự thử sức với ngoại quốc. Chẳng hạn, phiên bang Choshu đã nã pháo vào thương thuyền Mỹ hoặc chiến hạm Pháp và Hà Lan trong khi những tàu này chạy ngang qua Bakan (nay là Shimonoseki); phiên bang Satsuma thì từ pháo đài trên bờ nã pháo vào chiến hạm Anh khi tàu này xâm nhập vịnh Kagoshima. Vụ trước gọi là trận chiến tranh Bakan, vụ sau là trận chiến tranh Satsu-Anh.

Thế nhưng đoàn tàu đen trang bị hơn 100 khẩu đại bác thì quá mạnh. Sự hơn thua về hỏa lực giữa địch và ta đã rành rành. Không thể chỉ lấy áo giáp, mũ sắt, đao kiếm, súng hỏa mai và vài nòng pháo cổ điển mà có thể đương đầu được. Muốn đánh thắng ngoại bang, thì phải có tàu chiến tố tân trang bị đại bác lớn. Mà phải có thật nhiều cơ.

Khi biết rõ sự thực như trên, các phiên chúa cũng như mạc chúa Tokugawa bèn chạy tới các thương gia Hà Lan ở Nagasaki, hỏi mua súng đại bác, tàu chiến. Nhưng đại pháo và chiến hạm thì giá đắt. Hơn nữa, mua bằng tiền giấy của phiên bang đâu có được. Phải mua bằng vàng bạc. Thế là các võ sĩ samurai mới tỉnh ngộ ra rằng, phải dựng xưởng đúc đại pháo, phải xây xưởng đóng tàu mới có thể có được những võ khí mạnh đó.

Việc này không dễ dàng gì. Họ dần dần nghĩ ra rằng, muốn có vàng bạc thì phải dựng nên những ngành nghề chế tạo sản phẩm có thể bán ra nước ngoài được. Muốn thế, muốn gây dựng những ngành nghề sản xuất mới, thì phải học kỹ thuật, học chế độ ngoại quốc để công nghiệp hóa đất nước, chứ không thể cứ một mực "tôn hoàng nhương di (tôn vua đuổi man di)" được nữa. Muốn xây dựng một nước khiến ngoại quốc không còn khinh rẻ được nữa, thì không còn có chỗ nào khác hơn là "khai hóa văn minh."

Nói tóm lại, các chí sĩ Duy tân, xuất phát từ chủ nghĩa dân tộc đã đi tới kết luận "khai hóa văn minh" để xây dựng nền công nghiệp hiện đại. Người ta có cảm tưởng như điểm xuất phát và điểm đích hình như nghịch đảo. Nhưng đây là kết luận đúng. Nhưng chỉ vì quá hăng say, nên có lúc họ đã đi quá trớn. Vì muốn du nhập kỹ thuật hiện đại, cơ chế hiện đại của ngoại quốc, họ đã truyền bá ý nghĩ bỏ hết truyền thống có sẵn của Nhật Bản. Chẳng hạn, hạng người như Mori Arinori138[16] đã chủ trương bỏ hẳn tiếng Nhật và lấy tiếng Pháp làm ngôn ngữ chính thức thay thế.

Mục đích của Duy tân là làm cho Nhật Bản thành một nước không bị ngoại quốc khinh thị, nên nếu những người ban đầu chủ trương dùng võ lực xua đuổi ngoại bang đi, nhưng sau đó cũng chính những người này lại khởi xướng việc học hỏi ngoại quốc, thì cứu cánh vẫn là một, dầu cho thủ đoạn có khác đi. Người theo chủ nghĩa dân tộc chủ trương "tôn hoàng nhương di" cũng đồng thời lại là người tôn thờ chủ nghĩa Âu hóa chủ trương "khai hóa văn minh." Thế mà những người như vậy không hề coi mình là kẻ thất tiết. Quả thật đây là tiến trình chuyển biến tư tưởng rất Nhật Bản, mà Okubo Toshimichi là một đại biểu vậy.

Như thế, trở thành người chủ trương Khai hóa Văn minh, Okubo Toshimichi đã dùng mọi thủ đoạn cô lập Saigo Takamori, chèn ép Eto Shinpei, mà hẳn vẫn cho mình đã làm việc chính đáng. Trong Chính phủ Minh Trị, lập ra cái mà người đời gọi là "thể chế độc tài Okubo," rồi áp dụng chính sách khai hóa văn minh và chủ trương gia tăng sản xuất, tân hưng sản nghiệp để làm cho Nhật Bản giầu mạnh không bị ngoại bang khinh thị nữa, hẳn Okubo đã làm với niềm tin của ông vậy.

 

Xây dựng cơ chế trong nước rập theo đế quốc Ðức.

Nhật Bản thời Minh Trị đứng về phe đế quốc Anh trên mặt ngoại giao, nhưng mỗi cơ chế trong nước thì lại rập theo khuôn mẫu của đế quốc Ðức. Ðây là biểu hiện của đường lối thực tế của Okubo Toshimichi.

Thật ra, sự kiện Nhật Bản thuộc phe đế quốc Anh về mặt ngoại giao, không phải là tự ý Nhật Bản lựa chọn như vậy.

"Ðoàn tàu đen" gồm bốn chiến hạm, do đô đốc Perry chỉ huy, tới đòi Nhật Bản mở cửa năm 1853 (niên hiệu Gia Vĩnh năm thứ sáu), là của Mỹ. Năm sau, Perry lại tới đòi đàm phán. Nhưng ngay sau đó, ở Mỹ đã xẩy ra cuộc nội chiến Nam Bắc quanh vấn đề giải phóng nô lệ, gây tổn hại lớn đến nội lực, khiến Mỹ không còn bụng dạ nào quan tâm đến một đảo quốc nhỏ bé ở vùng Cực Ðông nữa.

Một mặt, giữa lúc Nhật Bản chìm đắm trong sự hỗn độn thời cuối Edo, thì Âu châu đang ở thời kỳ đại loạn với cuộc chiến tranh Phổ - Áo (1866), rồi chiến tranh Phổ - Pháp (1870-1877). Ðế quốc Phổ với trung tâm là thành phố Berlin ngày nay, đã liên tiếp thắng Áo rồi Pháp. Kết quả là năm 1871, nước Ðức đã được thống nhất và đế quốc Ðức với nước Phổ làm trung tâm đã ra đời. Thời điểm này, nước Italia cũng được thống nhất thành một quốc gia. Châu Âu đã trải qua một thời kỳ 10 năm ly loạn. Do đó, cả Pháp, Ðức, Áo đều không có ý định dùng quân sự xen vào nội bộ Nhật Bản. Trong các cường quốc ở châu Âu lúc đó, chỉ còn có Anh và Nga là còn có thể gửi quân lực tới miền Cực Ðông. Thế nhưng, đế quốc Nga lúc đó tuy có quân lực hùng mạnh luôn luôn có tham vọng bành chướng, nhưng trình độ kinh tế, kỹ thuật lại thấp kém, và chế độ xã hội thì lại có phần thua kém Nhật Bản. Vào thời kỳ Duy tân Minh Trị của Nhật Bản, thì đế quốc Nga chỉ mới bắt đầu cuộc giải phóng nông nô, nên khó có kỹ thuật cũng như tư bản để viện trợ cho Nhật Bản.

Ðến thế này, thì Nhật Bản chỉ còn Anh quốc để về hùa mà thôi. Tình huống này được lặp lại sau trận Chiến tranh thế giới lần thứ hai. Thật vậy, năm 1951 (niên hiệu Chiêu Hòa năm thứ 26), Nhật Bản ký hòa ước San Francisco để thuộc vào phe các nước Tây phương, nhưng Nhật Bản bị Mỹ chiếm đóng, rồi cuộc chiến tranh Triều Tiên bùng nổ, nên Nhật Bản không còn cách lựa chọn nào khác hơn là về phe với Anh quốc trên mặt ngoại giao.

Thời Minh Trị, Nhật Bản cũng chỉ còn cách về phe với Anh quốc. Kể từ sau khi "đoàn tàu đen" tới Nhật Bản, thì tin tức ngoại quốc xuất phát từ Anh quốc đã lần lần thay thế cho tin tức ngoài nước trước đó xuất phát từ Hà Lan. Người Nhật thời Minh Trị quan niệm rằng, một quốc gia hiện đại là một nước có chủ nghĩa dân chủ và nền kinh tế tự do như Anh quốc vậy. Thế nhưng, khi Okubo Toshimichi đóng vai phó sứ của phái đoàn Iwakura sang tới châu Âu, ông mới thấy rằng chẳng riêng gì Anh quốc, mà cả Ðức, Pháp, Áo - Hung (năm 1867, đế quốc Áo đã cải tổ thành đế quốc Áo-Hung) đều là các quốc gia hiện đại. Mỗi nước đều có thể chế khác nhau. Trong các nước này, Okubo Toshimichi đã đặc biệt quan tâm tới đế quốc Ðức, một thế lực tân hưng đang sục sôi khí thế bá chủ.

Trong các nước châu Âu, Anh quốc là nơi đã dấy lên làn sóng cách mạng công nghiệp hiện đại đầu tiên. Theo sau đó là Pháp, Hà Lan. Chậm hơn nữa là đế quốc Ðức. Ðể đuổi kịp Anh quốc, đế quốc Ðức đã áp dụng chính sách mạnh mẽ nuôi dưỡng các ngành nghề sản suất. Với hỗn danh "Tể tướng máu sắt," Thủ tướng Otto von Bismarck đã áp dụng chủ nghĩa quan liêu, một chế độ và tổ chức khác hẳn với Anh quốc.

Từ khoảng giữa thế kỷ thứ XVIII, ở Anh quốc đã nổ ra cuộc cách mạng công nghiệp. Nhiều kỹ thuật, nhiều phương pháp mới đã được phát minh ra. Nhưng, kỹ thuật nào tốt, phương pháp nào hay, thì thực ra chưa ai biết được. Bởi đó là thời kỳ mà người ta đã mất niềm tin của cả ngàn năm trước, tức là "lời Chúa" trong Kinh Thánh. Nào Kinh Thành nói "đất không chuyển động," nhưng có vẻ là "trái đất chuyển động" mới đúng. Nào Kinh Thánh nói "Chúa sáng tạo ra con người," nhưng không chừng con người là do loài vượn tiến hóa mà thành. Nếu "lời Chúa dạy" đã được tin là đúng không lay chuyển cả ngàn năm rồi, mà nay còn bị nghi ngờ, thì lời nói của bọn quan lại, học giả, v.v. làm sao tin được? Nói cách khác, tiền lệ cũng như tiêu chuẩn, tất cả đều trở thành vô dụng.

Trong bối cảnh như vậy, người Anh thế kỷ thứ XVIII đã nghĩ như sau. Mỗi người đều đáng được "bình đẳng trong cơ hội" trở thành người cung cấp sản vật. Cho tới thời bấy giờ, những người sản xuất đều họp thành một "tổ ngành nghề (guild)." Chỉ những ai ở trong "tổ ngành nghề" mới được phép sản xuất và bán ra sản phẩm. Ðồ sắt thép phải là do những người trong "tổ thợ rèn" mới được chế tạo và bán ra. Hàng len phải là do "tổ dệt len" mới được dệt và bán ra.

"Bình đẳng về cơ hội" có nghĩa là mỗi người đều được phép chế - bán ra sản phẩm không phân biệt họ xuất thân từ giai tầng nào. Nói cách khác, đây là sự tự do cạnh tranh.

Thế rồi, sản phẩm nào tốt, ai khéo tay, sẽ để cho người tiêu dùng lựa chọn. Nghĩa là thực hiện chủ quyền của người tiêu dùng qua sự quyết định "hàng bán chạy là hàng tốt." Người cung cấp sản phẩm bán chạy trên thị trường sẽ được phát đạt. Ðây là triết lý "kẻ thích nghi sinh tồn," "kẻ thích nghi phồn vinh." Sau này, trong sách "On the Origin of Species by Means of Natural Selection (Bàn về nguồn gốc chủng loại bằng sự chọn lọc {đào thải} tự nhiên)," Charles Robert Darwin đã nâng triết lý này lên hàng "nguyên lý tự nhiên," song thật ra, người Anh đã thực hành điều này cả trăm năm trước đó rồi.

Ðiều vừa kể mới thực sự là hình thức kinh tế tự do kiểu Anglo-Saxon. Nền kinh tế tự do Anh quốc bảo đảm sự "bình đẳng về cơ hội," tức là sự "tự do về nghề nghiệp." Ai cũng có thể trở thành nhà cung cấp. Kết quả sẽ được quyết định bởi cạnh tranh. Ai được đông đảo người tiêu dùng ủng hộ thì phát đạt, ai mất sự ủng hộ của người tiêu dùng thì tiêu diệt.

Ý nghĩ như vậy về kinh tế tự do, về chủ quyền thuộc về người tiêu dùng, đem áp dụng vào chính trị thì trở thành chủ nghĩa dân chủ. Trong chế độ chính trị dân chủ chủ nghĩa, ai ai cũng có thể, trên nguyên tắc, ứng cử làm chính khách được. Nghĩa là ai ai cũng có cơ hội trở thành người cung cấp chính trị. Và sự lựa chọn ai làm chính khách là quyền của cử tri, tức là người tiêu dùng chính trị. Ứng viên nào được sự ủng hộ của đông đảo cử tri, sẽ đắc cử đại biểu quốc hội. Ðảng có chính kiến hay nhất sẽ nắm được chính quyền. Nói cách khác, chủ nghĩa dân chủ là mọi người dân làm chủ, là phiên bản chính trị của chủ nghĩa kinh tế tự do.

Ngày nay, chúng ta chỉ còn biết rằng người Anh đã chế ra những máy móc tuyệt diệu như máy kéo sợi Hargreaves, đầu máy xe lửa Stevenson. Nhưng những thứ còn được truyền tụng như vậy ngày nay đều là những phát minh thành công cả. Thật ra, phần lớn những máy móc được sáng chế ra trong thời kỳ của cuộc cách mạng cơ giới đó, là đồ bỏ, là đồ vô dụng. Một số những máy móc như vậy ngày nay vẫn còn được triển lãm ở tầng hầm của Viện Bảo Tàng Ðế Quốc Ðại Anh ở London. Chẳng hạn có những thứ như "máy vừa ngủ vừa được uống cà phê," v.v.. Trong khoảng từ hậu bán thế kỷ thứ XVIII sang thế kỷ thứ XIX, những máy như vậy được chế ra rất nhiều ở Anh quốc. Có nhiều người đã xuất vốn cho chế tạo ra, rồi cũng có người đã cất công đi rao bán những máy như vậy.

Buôn bán lừa đảo, cưỡng đoạt, cướp giật cũng hoành hành. Nước Anh vào thời kỳ cách mạng công nghiệp, thật ra là một xã hội méo mó hỗn tạp. Tình trạng như vậy đã kéo dài gần một trăm năm, và kết quả là những cái tốt, cái hay sống sót, và nền công nghiệp hiện đại chế tạo những cái đó đã phát đạt vậy.

Thế rồi sau cuộc chiến tranh Napoléon, kể từ khoảng năm 1830 trở đi, thì Pháp, Ðức cũng gia tăng tốc độ công nghiệp hóa. Ðến khoảng năm 1870, Bismarck lãnh đạo đế quốc Ðức đã quyết tâm học hỏi tiền lệ để đuổi kịp Anh quốc về mặt công nghiệp hóa.

Nghĩa là Anh quốc đã làm cuộc thí nghiệm về chủ quyền của người tiêu dùng rồi, nay không cần chờ đợi sự đào thải bởi cạnh tranh tự do nữa. Ðức chỉ cần nhìn vào kết quả đó, thấy cái gì thành công hãy bắt tay vào công nghiệp hóa, thì như vậy không phí phạm. Ðồng thời, để cho những người hiểu biết tinh tường về tiền lệ ở Anh quốc lựa chọn cái nào tốt nhất mà sản xuất công nghiệp, thì như thế có thể hoàn thành sự hiện đại hóa một cách có hiệu quả. Như vậy, chuyện lừa bịp sẽ không có, phá sản sẽ không xẩy ra, quốc dân khỏi bị lừa đảo mà có thể sống an tâm hạnh phúc được.

Vậy ai là người hiểu biết tinh tường về tiền lệ ở Anh quốc? Ðó chính là đám quan liêu (công chức) ưu tú, các giáo sư đại học. Vậy, cứ để cho những người này chỉ dẫn đường hướng, chuẩn định quy cách sản phẩm, rồi cho giới công nghiệp chế tạo ra và cho quốc dân mua dùng. Ðây là chủ nghĩa khai sáng do quan liêu (công chức) chỉ đạo, nền tảng cho đế quốc Ðức vậy.

Phái bộ Okubo Toshimichi sang châu Âu, được nghe giải thích chế độ này của đế quốc Ðức, đã bị mê hoặc. Họ nghĩ "Nhật Bản nên du nhập và thực hiện chế độ này." Có thể là từ trước đó, Okubo Toshimichi đã thấy những mâu thuẫn của chủ nghĩa dân chủ kinh tế tự do của Anh và do đó có ác cảm với chủ nghĩa này.

 

Giữ chức Bộ trưởng Nội vụ nắm toàn thể nền chính trị quốc gia

Trở về Nhật, Okubo Toshimichi đã chống lại đường lối "chinh Hàn" của bè phái Saigo Takamori, Itagaki Taisuke, Eto Shinpei. Ông chủ trương cải cách nội chính chứ không gửi quân đội viễn chinh sang bán đảo Triều Tiên. Rồi ông thuyết phục mọi người chung quanh rằng đường lối tốt nhất là áp dụng cơ chế đế quốc Ðức mà ông đã học hỏi được. Khi quan điểm lý luận của ông chiếm được đa số trong Chính phủ Minh Trị, ông bèn loại bỏ Saigo và Eto đi, rồi lôi kéo Itagaki vào bè phái của mình. Ðồng thời, để thực hiện đường lối "Thực sản hưng nghiệp" ông đã đích thân nắm chức bộ trưởng nội vụ, một mình quán xuyến mọi chính sách nội bộ.

Ðường lối của Okubo Toshimichi ngày nay nhìn lại, là chỉ tôn trọng bọn êlít, tức là đám người ưu tú, còn quốc dân thì bị khinh miệt là ngu dốt. Tuy vậy, so với chủ trương phân biệt dòng dõi (thị tộc) của bọn Saigo, thì đường lối này hãy còn tiến bộ hơn nhiều.

Ðồng thời, đối với đại đa số quốc dân, ông tỏ ra nhiệt tình với hoạt động khai sáng, hoạt động phổ biến kỹ thuật sản xuất. Chứng cớ là việc mở hội chợ.

Okubo Toshimichi đã đích thân đứng ra chủ trì ba lần hội chợ. Những hội chợ này là để trưng bầy kỹ thuật ưu tú của ngoại quốc, và chiêu mộ người trong nước đứng ra công nghiệp hóa những kỹ thuật đó. Ai dám đứng ra làm, sẽ được chính phủ trợ giúp vốn làm ăn. Thế rồi, áp dụng đường lối giáo dục bằng vật thực, ông cho dựng nhà máy mẫu bằng cách rập khuôn nguyên xi nhà máy kéo sợi của Pháp và nói "cứ bắt chước y hệt thế này là được." Tất cả những việc như vậy, chính Bộ trưởng nội vụ Okubo đã đích thân đứng ra làm.

Xem như vậy, thì thời đó, phạm vi hoạt động của Bộ Nội vụ bao gồm những bộ ngày nay như Bộ Thương mại quốc tế và công nghiệp, Bộ Nông thủy sản, Bộ Y tế, Bộ Xây dựng, Bộ Lao động, Bộ Tự trị, Tổng cục công an và tất cả nghiệp vụ của các Tỉnh trưởng.

Từ Bộ Nội vụ như vậy, công tác chuyên ngành lần lần thành hình và các bộ chuyên môn dần dần tách ra thành các bộ riêng. Trước nhất là Bộ Nông thương vụ được độc lập. Rồi năm 1925 (niên hiệu Ðại Chính năm thứ 14), bộ này lại tách ra thành Bộ Nông lâm và Bộ Công thương. Sang thời Showa (Chiêu Hòa, từ năm 1926 tới 1989), thì Bộ Y tế (1938), rồi sau cuộc Chiến tranh thế giới thứ II thì Bộ Lao động (1947), Bộ Xây dựng (1948) được tách ra độc lập. Rồi các tỉnh trưởng được trực tiếp bầu ra, và Bộ Nội vụ sau cùng được chia thành Bộ Tự trị và Tổng cục cảnh sát, với chức năng giám sát điều chỉnh hoạt động hành chính của các tỉnh mà thôi.

Nói cách khác, Bộ Nội vụ thời Minh Trị đã quán xuyến từ vấn đề nội vụ tới việc tân hưng công nghiệp. Thời ấy, ngoài Bộ Nội vụ ra, còn có các bộ sau: Bộ ngoại giao coi việc ngoại giao, Bộ Lục quân và Bộ Hải quân lo việc quân sự, Bộ Cung đình coi việc hoàng gia, Bộ Tư pháp lo việc pháp luật, Bộ Văn coi việc học (giáo dục đào tạo), Bộ Kho bạc coi việc tài chính, Bộ Ðường sắt quản lý kinh doanh hệ thống đường sắt, Bộ Ðệ tín lo việc bưu chính, điện tín cùng những vấn đề khác như điện lực, vận tải đường biển.

Nghĩa là, trừ giáo dục, tài chính và các ngành nghề quốc doanh, còn mọi việc nội chính đều nằm trong tay Bộ Nội vụ. Những sản nghiệp như nông nghiệp, lâm nghiệp, khoáng sản (hầm mỏ), công nghiệp, vận chuyện hàng hóa, xây dựng, y tế, lao động, v.v., tất cả đều do một tay Okubo Toshimichi nắm giữ hết.

Chế độ quan liêu (công chức) Nhật Bản là rập theo khuôn mẫu của chủ nghĩa khai sáng kiểu quan liêu chỉ đạo của đế quốc Ðức. Trước hết là thành lập một loạt cơ quan công quyền có mục đích gây dựng những nhà cung cấp. Ví dụ, Bộ Văn (tương đương với Bộ Giáo dục và Ðào tạo ở ta) là cơ quan đào tạo thày giáo, phổ cập giáo dục học đường. Bộ Văn ngày xưa cũng như ngày nay, không hề để tâm tới học trò. Bộ Ðường sắt lo trải đường sắt ra toàn quốc, đào tạo kỹ sư và gây dựng xí nghiệp vận hành hệ thống đường sắt. Bộ Kho bạc trông coi việc phát triển của ngân hàng. Bộ Ðiện tín lo toan sự nghiệp phát triển điện tín và vận tải đường biển.

Mặt khác, cơ quan nhà nước để bảo vệ người tiêu dùng, tức là quốc dân nói chung, cũng đã được lập ra. Trước cuộc Chiến tranh thế giới thứ hai, đó là Bộ Nội vụ với các tỉnh trưởng và cảnh sát nắm quyền địa phương.

Bộ Nội vụ trước thời chiến tranh, là trung tâm của quyền hành chính địa phương, với đám quan liêu nặng đầu óc chăn dắt con dân. Chính họ đã tự ví mình là "mục dân quan (quan chăn dắt con dân)." Từ này đã được thông dụng cho tới khoảng năm 1970 (niên hiệu Chiêu Hòa năm thứ 45). Nếu các bộ sở khác chú trọng việc cung cấp, thì Bộ Nội vụ chăm lo việc bảo hộ, dẫn dắt đám dân đen yếu hèn. Cái ý thức êlít của họ là như thế đấy.

Sự chỉ đạo của quan liêu theo kiểu đế quốc Ðức gồm có, một mặt là cơ quan nhà nước chuyên lo việc tạo dựng các ngành nghề sản xuất, mặt khác là Bộ Nội vụ chăm sóc quốc dân. Một sự cân bằng đã phát sinh ra giữa hai thế lực, một bên là phát triển quốc gia, một bên là bảo hộ quốc dân. Okubo Toshimichi đã rập khuôn nguyên xi chế độ đó của đế quốc Ðức, song, tự ông đã nắm giữ luôn Bộ Nội vụ và trong một thời gian khá dài, Bộ Nội vụ của ông đã làm luôn cả hai việc. Vì vậy, dẫu có bị gọi là "Okubo độc tài" cũng đáng lắm.

Hãy gác chuyện ấy sang một bên. Từ khi có chế độ quan liêu thời Minh Trị, người ta thấy đã lan rộng trong quần chúng cái ý thức nương tựa vào quan liêu, bởi vì "quan liêu học rộng hiểu nhiều," còn ở quan liêu, người ta thấy phát sinh ra cái ý thức coi "quần chúng ngu dốt, nên phải được bảo hộ." Nghĩa là, quan sẽ dạy bảo tất cả kỹ thuật, chế độ ưu việt của châu Âu cho, còn dân thì thành chân tay làm việc tại hiện trường là được.

Do đó, từ chủng loại và quy cách sản phẩm, tiêu chuẩn thiết bị tới thời gian lao động và chế độ thuê mướn lao động, tất cả đều do quan liêu định trước. Ðó là điều mà giới quan liêu cho là cần phải có, để gây dựng các ngành nghề sản xuất hiện đại, và như vậy mới có lợi cho người tiêu dùng. Một mặt, để bảo đảm cho dân ngu hèn khỏi bị đám con buôn lưu manh bóc lột, một lực lượng cảnh sát quốc gia đã hình thành, gồm có đám quan liêu Bộ Nội vụ, các tỉnh trưởng thị trưởng và cảnh sát hành chính, luôn luôn để mắt nhòm ngỏ, sẵn sàng bắt giữ trừng trị bọn người phạm pháp. Chế độ này quả thật đã có ích cho việc xây dựng Nhật Bản thành một quốc gia công nghiệp hiện đại.

 



tải về 1.61 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   ...   11   12   13   14   15   16   17   18   ...   24




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương