12 người lập ra nước Nhật Mục lục Lời tựa của dịch giả


Sự hình thành của bản tính "đảo quốc" và tính "nghi kỵ ngoại quốc"



tải về 1.61 Mb.
trang12/24
Chuyển đổi dữ liệu24.07.2016
Kích1.61 Mb.
#4415
1   ...   8   9   10   11   12   13   14   15   ...   24

Sự hình thành của bản tính "đảo quốc" và tính "nghi kỵ ngoại quốc"

Cuối cùng, nếu xem những chính sách do mạc phủ Tokugawa thực thi dựa trên tư tưởng của Ieyasu, đã ảnh hưởng tới Nhật Bản ngày nay như thế nào, ta có thể tóm lược chúng lại thành ba điểm sau đây.

Thứ nhất, mạc phủ Tokugawa đã triệt để thực thi chế độ tập quyền trung ương, đã xác lập được chế độ quan lại. Ðiều này cũng chính là ý nguyện của Ieyasu. Rồi, ông đã thống trị được toàn quốc, kể luôn cả hoàng gia. Như vậy, cái xã hội dưới sự chỉ đạo gần như quá đáng của quan lại ngày nay, có thể nói là đã có mầm mống từ đó vậy.

Thứ hai, như đã kể, là sự khích lệ tính tiết kiệm, cái cảm nghĩ lo sợ đối với ý chí tăng trưởng. Nhất là sự tiết kiệm thì đã được triệt để đề cao trong đời trị thế của vì chúa thứ tám tên là Yoshimune. Ðây là do lợi dụng kết quả của việc thần thoại hóa tư tưởng và con người của Ieyasu, mà thành, đúng như đã kể trên.

Thế rồi thứ ba là đường lối "bế môn tỏa cảng." Bế môn tỏa cảng thật ra không phải là trách nhiệm trực tiếp của Ieyasu. Bởi vì không phải Ieyasu đã thi hành chính sách đóng cửa. Ngược lại, ông có phần tích cực nhìn nhận nền mậu dịch quốc tế bằng cách đã gửi tầu bè có mang giấy phép của mạc phủ ra nước ngoài. Từ những sự thật này, có người đã coi Ieyasu là thuộc phái người chủ trương mở nước khai hóa.

Thế nhưng, từ thất bại lớn trong việc Hideyoshi gửi quân đội xâm lăng Triều Tiên, về sau Ieyasu quả đã có ý nghĩ rằng không can thiệp vào việc nước khác là đắc sách. Từ đường lối ổn định trật tự phong kiến, thì việc đi tới chính sách "bế môn tỏa cảng," áp dụng đường lối kinh tế tự cấp tự túc, là quy kết tất nhiên không thể phủ nhận được.

Thêm nữa, trong thời kỳ đầu của mạc phủ Tokugawa, cảng Nagasaki đã được mở ra để thông thương với nước ngoài, nhưng vì việc này mà một số vàng bạc lớn đã bị thất thoát ra ngoài. Thời đó, số tơ lụa nhập từ Trung Quốc rất lớn, khiến cho cán cân mậu dịch của Nhật bị lệch về phía mua vào quá nhiều. Vì mậu dịch thua lỗ, vàng bạc thất thoát ra nước ngoài nhiều thì trong nước sinh ra sự sụt giá. Cho nên cần phải ngăn chặn ngay sự thất thoát vàng bạc. Sinh thời Ieyasu thì còn đỡ, chứ sau khi Ieyasu mất được khoảng mười lăm năm, tức là khoảng năm 1630 trở đi, thì tình trạng này trở nên khá trầm trọng.

Ngoài vấn đề mậu dịch, còn có vấn đề đạo Cơ Ðốc. Ngay từ thời Hideyoshi, đã có sự nghi ngờ tín đồ đạo Cơ Ðốc trung thành với giáo hội Rôma hơn là với nhà nước Nhật Bản. Tự nhận việc giữ thiên hạ là nhiệm vụ thứ nhất của mình, Ieyasu không thể không quan tâm tới vấn đề này được. Thế nhưng, không phải là Ieyasu đã tăng cường sự đàn áp đối với tín đồ đạo Cơ Ðốc. Thật ra, sự đàn áp đã trở nên khắc nghiệt là cùng thời với đường lối bế môn tỏa cảng, tức là sau khi Ieyasu đã qua đời rồi.

Mặc dầu vậy, với chủ nghĩa tiết kiệm, với lối sống bình dị, với chế độ phong kiến tập quyền trung ương, thì đường lối kinh tế tự cấp tự túc, chính sách bế môn tỏa cảng, chỉ là quy kết tất yếu. Cái điều kiện tiền đề cho chính sách đó đã được Ieyasu dọn đường, cho nên ông đã có trách nhiệm cũng như có công gián tiếp vậy.

Còn một điều nữa ít được nói tới trong lịch sử Nhật Bản. Ðó là sự nhập cư của di dân. Nhất là sau khi Ieyasu mất rồi, triều Thanh của người Mãn Châu đã chiếm toàn thể Trung Quốc rồi, thì đám trí thức không chịu sự cai trị của người khác dân tộc cũng như binh tướng nhà Minh đã nhập vào Nhật Bản nhiều, dần dần trở thành vấn đề phức tạp. Trịnh Thành Công (Kokusen’ya)104[11] tới Nhật chỉ là một ví dụ. Vì chủ trương ổn định nên mạc phủ Tokugawa bắt buộc phải ngăn chặn di dân, cũng như cấm hẳn không cho cả người Nhật ở hải ngoại trở về. Ðường lối thật phi lý, song với tư cách người trị nước thời đó, việc "bế môn tỏa cảng" không phải là chuyện không thể hiểu được.

Như vậy, đường lối bế môn tỏa cảng lấy sự ổn định làm ưu tiên đã được thực thi.

Thế rồi, từ trạng thái ổn định trong sự tự cấp tự túc, cái ý thức bất tín nhiệm người ngoại quốc đã trở nên rất mạnh. Ðiều này cũng đã phản chiếu cái tính thận trọng, hay nói xấu là tính đa nghi của Ieyasu vậy.

Ngay ngày nay, Nhật Bản thường bị nói là theo chủ nghĩa sản xuất toàn bộ, chủ nghĩa kỹ thuật toàn bộ. "Cái gì cũng phải chính Nhật Bản làm được thì mới an tâm," "Trông cậy vào ngoại quốc thì nguy hiểm lắm," v.v., đều là những tư tưởng đã ăn sâu vào trí não người Nhật Bản. "Lúa gạo mà phải trông cậy vào ngoại quốc thì nguy hiểm lắm." "Tinh lọc dầu mỏ mà trông cậy vào ngoại quốc thì nguy hiểm lắm," đều là những ý kiến cửa miệng của người Nhật Bản. Thậm chí đã có lúc người ta lo ngại rằng "Nếu trông cậy vào ngoại quốc về mạch IC, linh kiện điện tử thường được gọi là "gạo công nghiệp", thì tin tức (bí mật) trong nước bị lọt ra ngoài hết." Ðiều này đã được minh chứng bằng nhiều dẫn chứng là sai lầm, song cái lo ngại tương tự ở người Nhật không phải là đã hết hẳn.

Sự thiếu cảm giác quốc tế của người Nhật, sự không tin người ngoại quốc, cái thể chất cô lập hóa về mặt quốc tế, cũng là do chính sách "bế môn tỏa cảng" của mạc phủ Tokugawa đẻ ra. Thế rồi, cái tư tưởng khiến phát sinh ra như vậy cũng xuất phát từ cá tính của nhân vật Ieyasu. Nó đã nằm trong tinh thần cơ bản của tổ chức do Ieyasu sáng lập ra. Sự thật này không thể phủ nhận được.

Xem như trên, người Nhật ngày nay đã tiếp nhận biết bao nhiêu ảnh hưởng từ con người Tokugawa Ieyasu cũng như từ nhà mạc phủ Tokugawa, tổ chức đã kế thừa cái tinh thần Ieyasu. Dù là trong "thần thoại" hay là tượng trưng cho nhà mạc phủ Tokugawa, thì Tokugawa Ieyasu cũng là một sự thật lịch sử vĩ đại.

[1] Ấu danh (yomei), tức là tên ấu nhi, tên gọi lúc tuổi thơ. Con trai võ sĩ samurai mang ấu danh cho đến lúc trưởng thành thì đổi tên khác, gọi là tên trưởng thành (genpukumei hay eboshina). Tên trưởng thành mới là tên chính thức. Nhiều nơi ở miền quê Việt Nam cũng có phong tục đặt tên gọi riêng cho trẻ con, song đây thường chỉ là một tên thêm cho tên chính thức đã sẵn có trong tờ khai sinh rồi, nên không giống như ấu danh của con trai samurai Nhật Bản.


[2] Xem Chương III.
[3] Thời chiến quốc quần hùng cát cứ thì hễ ai vào được kinh đô, yết kiến được thiên tử, là được coi như có chính nghĩa, được thay thiên tử ra hiệu lệnh cho thiên hạ.
[4] Đến nỗi năm 1617, mạc tướng đời thứ hai đã dâng sớ xin và được Nhật Hoàng Go-Mizuo truy phong cho Tokugawa Ieyasu làm Ðông Chiếu Ðại Quyền Hiện, tức là gộp luôn hai tên tôn xưng làm một.
[5] Nguyên gốc chữ Nhật là (đọc âm Hán Việt) "Tham Cần Giao Ðại." Giao đại là luân phiên, tham cần là đến làm việc, tức là chầu hầu. Chế độ này đòi hỏi các lãnh chúa địa phương, trên nguyên tắc, cứ cách một năm ("luân phiên") lại phải lên thành Edo mà sống dưới sự quản l ý nghiêm ngặt của mạc phủ Tokugawa ("chầu hầu"). Như vậy để cho họ không có thời giờ ở lãnh địa nuôi dưỡng quân lực mà nổi loạn. Nhờ chế độ này, mạc phủ Tokugawa đã duy trì được quyền lực trong suốt gần 300 năm, 15 đời chúa, cho tới ngày họ trả lại chính quyền cho thiên hoàng Minh Trị năm 1867.
[6] Phiên hầu tức là lãnh chúa địa phương. Thời Edo (tức là thời mạc phủ Tokugawa trị thiên hạ) thì các lãnh chúa địa phương gọi là phiên hầu; chỉ có lãnh chúa ở trung ương, tức là chúa Tokugawa mới gọi là mạc chúa. Do đó, chế độ mạc phủ Tokugawa cũng gọi là chế độ mạc phiên.
[7] Thể chế Mạc phiên Tokugawa, là thể chế phong kiến, gồm có mạc phủ Tokugawa đứng làm lãnh chúa tối cao, thống suất những phiên chúa (lãnh chúa) nhỏ hơn, mỗi người được phong một vùng đất gọi là "phiên" (tức là bang, nước nhỏ), từ đó họ chủ yếu thâu sưu thuế bằng lúa gọi là "niên cống."
[8] Dòng họ Tokugawa có ba chi: chi trưởng ở đất Owari, tức là chi của Ieyasu, và hai chi thứ, một ở đất Ki’i (Kishu), một ở đất Hitachi (Mito). Ieyasu, người sáng lập ra dòng chúa Tokugawa, đã định chế là nếu dòng trưởng không có con trai kế vị chức chúa shogun, thì một trong hai dòng thứ sẽ đưa con trai ra kế vị. Vì thế, đời đời các phiên chúa Kishu và Mito đều giữ chức phó shogun, tức lá phó vương. Tokugawa Mitsukuni là một đời phiên chúa của Mito, một nhân vật truyền thuyết, có nhiều đóng góp về mặt văn học và trị nước, thường được gọi bằng hỗn danh là Mito Komon.
[9] Heisei là niên hiệu của Nhật Bản bắt đầu từ ngày 8 tháng 1 năm 1989. Thời kỳ phản động lực của nền kinh tế nói ở đây, còn đang tiếp diễn ở thời điểm hiện tại cùa năm 2002.
[10] "Tổng số zero" là dịch tiếng Anh "zero sum." Khi còn "địch" và "ta" thì mới có "ăn" có "thua," có "hơn" có "thiệt." Nhưng khi đã thống nhất rồi, nghĩa là khi đã hết "địch" rồi, khi tất cả đều là "ta" cả rồi, thì những "hơn" và "thua" nếu đem cộng lại, sẽ thành một tổng số zero.
[11] Di thần của triều Minh mạt, cha là Trịnh Chi Long, mẹ là người Nhật đất Bizen Hirato họ Tagawa. Kháng chiến chống lại quân nhà Thanh ở đảo Áo Môn, Kim Môn và Ðài Loan. Song chí chưa thành thì bị chết bệnh. Ðược triều đình Nam Minh phong cho họ vua là Chu, nên gọi là Quốc Tính Da (Kokusen’ya), tức là ông già họ vua. 1624-1662.

Chương VII : Ishida Baigan 

Với triết lý dân gian "cần cù và tiết kiệm"

 

Thủy tổ của "Tâm học Thạch Môn"

Ishida Baigan là ông tổ của nền Tâm học Thạch Môn. Tâm học Thạch Môn nghĩa là "cái học về cõi tâm (lòng người) của học phái Ishida." Thời nay thì ít ai biết tới, chứ trong khoảng thời gian từ hậu bán của thời đại Edo cho tới đầu thời Duy tân Minh Trị, thì những trường dạy cái học này, gọi là "Trường luyện Tâm học," xuất hiện ở khắp nước Nhật, đã trở thành một tổ chức tu dưỡng tinh thần có thế lực to lớn. Võ sĩ samurai và phiên chúa cũng theo học, nhưng với sự giảng dạy cái tinh thần liêm khiết, cần mẫn, Tâm học Thạch Môn đã lan rộng cả trong thường dân, và đẻ ra cái triết lý dân gian là "cần cù và tiết kiệm."

Triết lý dân gian do Tâm học Thạch Môn truyền bá, không những đã có ảnh hưởng sâu sắc đến cái ý thức thẩm mỹ, cái quan niệm đạo đức, cái dạng thức sinh hoạt hay phép đánh giá con người của người Nhật ngày nay, mà còn để lại vết tích to lớn trong sự quyết định cái quan niệm cần lao, cái phép đánh giá sản phẩm, cái hình thái của thị trường sản phẩm tiêu dùng độc đáo của Nhật bản nữa. Ngày nay, trong những cục diện mà sự cọ sát mậu dịch, thể chất đắt đỏ của thị trường Nhật Bản, đã trở thành những vấn đề rắc rối, thì người ta đều thấy xuất hiện cái ảnh hưởng của Tâm học Thạch Môn dưới nhiều hình thức khác nhau. Xem như vậy, thì Ishida Baigan, tổ sư của Tâm học Thạch Môn, không thể không được coi là một trong những người đã lập ra nước Nhật được.

Vậy thì, Ishida Baigan là nhân vật đã sinh ra ở thời nào và đã sống như thế nào?

Ishida Baigan sinh năm 1685 (niên hiệu Jokyo năm thứ hai), tức là lúc thời kỳ Genroku105[1] sắp bắt đầu, và mất năm 1744 (niên hiệu Enkyo nguyên niên), tức là vài năm sau khi thời Kyoho (1716-1736) đã mãn. Nghĩa là ông sinh ra trước thời Genroku và mất sau thời Kyoho. Nói theo tây lịch, thì như vậy là ông đã sinh ra vào thời mạt của thế kỷ thứ XVII, mất vào khoảng giữa thế kỷ thứ XVIII. Như vậy, ông là nhân vật đã sống vào đúng giữa thời Edo.

Cuộc đời Ishida Baigan có thể chia thành ba giai đoạn.

Giai đoạn đầu là thời niên thiếu. Baigan là tên hiệu của ông, chứ tên thật của ông là Okinaga, thường được gọi là Kampei. Con thứ của một gia đình nông dân ở thôn Toge, quận Kuwata, thuộc đất Tanba (nay là thị xã Kameoka, tỉnh Kyoto). Cha tên là Ishida Gon’emon, mẹ là Tane. Năm 1692 (niên hiệu Genroku năm thứ năm), lên tám tuổi (cũng có thuyết nói là 12 hay 13 tuổi), Baigan đã phải đi ở đợ làm tiểu đồng cho một nhà buôn bán quần áo ở kinh đô Kyoto. Nhà hàng này hình như nhỏ lắm, vì chẳng bao lâu sau khi Baigan tới đó phục vụ thì nhà hàng bị phá sản.

Trước khi đi ở đợ, Baigan đã được cha dặn dò rằng: "Ði ở thì phải coi trọng chủ nhà như cha mẹ. Không được làm gì bêu xấu chủ nhà." Nhớ lời dặn đó, Baigan đã không trở về xứ sau khi nơi ở đợ đã bị phá sản. Ngược lại, Baigan nấn ná ở lại, làm phu lấy tiền nuôi chủ nhà. Chuyện này đến tai người mối đã giới thiệu nơi ở đợ, nên năm 15 tuổi, Baigan được cha mẹ đón về quê quán. Baigan như vậy đã sống cuộc đời gian khổ ở tuổi thiếu niên, nghĩa là phải đi ở đợ, rồi vì chủ nhà bị phá sản, nên phải đi làm phu nuôi chủ nhà trong những năm phồn vinh của thời Genroku, từ niên hiệu Genroku năm thứ năm tới năm thứ 12. Chịu đựng được như vậy quả đã chứng tỏ cái bản tính khác thường của Baigan vậy.

Trở về quê, Baigan đã sống một thời gian ở thôn Toge, hình như là giúp việc làm ruộng. Thời gian này không thấy được ghi chép rõ ràng.

Giai đoạn thứ hai là giai đoạn làm nghề buôn. Lần này, Baigan lại lên kinh đô Kyoto năm 1707 (niên hiệu Hoei năm thứ tư). Lúc đó Baigan đã 23 tuổi. Lần trước thì ở đợ cho một nhà buôn nhỏ, nhưng lần này thì Baigan ở đợ cho một nhà buôn lớn. Ðó là cửa hàng bán quần áo rất bề thế, tên hiệu là Kuroyanagi.

Lúc này, kinh nghiệm hay thành tích làm việc cho nhà buôn phá sản trước kia, đã bị quên lãng mất rồi, nên dù đã tới tuổi 23, Baigan vẫn phải bắt đầu từ một chú tiểu đồng. Nói chung, đi ở làm tiểu đồng thường là bắt đầu từ tuổi 12, 13. Như vậy, Baigan đã bắt đầu đi làm tiểu đồng chậm hơn những trẻ khác 10 năm. Nghĩa là trong đám tiểu đồng 12, 13 tuổi thì bỗng vọt lên một đứa 23 tuổi. Cái khổ tâm của Baigan là thế đấy.

Thế mà Baigan vẫn nhẫn nhục chịu đựng. Năm 1727 (niên hiệu Kyoho năm thứ 12), sau 17 năm gian khổ làm tiểu đồng, rồi đứa ở nhỡ, Baigan đã được cất nhắc lên làm quản gia. Nhưng năm 42 hay 43 tuổi, Baigan đã nghỉ hưu. 20 năm này chính là khoảng thời gian ông đã có được kinh nghiệm sâu sắc của nhà buôn và cơ hội suy nghĩ sâu đậm về cuộc đời. Tập tiểu thuyết "Chân dung một người đàn ông khiêm nhường" (tác giả: Sakaiya Taichi) chính là miêu tả Baigan trong thời kỳ này.

Thế rồi giai đoạn thứ ba. Nhờ đã học hỏi về Thần đạo, Nho giáo và Phật giáo trong thời kỳ làm công, Baigan bây giờ bỏ thời gian đi tầm sư học đạo, và ông đã hạnh ngộ được với Oguri Ryo’un, một ẩn sĩ được trọng vọng. Baigan đã theo vị này tu Thiền, rồi giác ngộ được câu nói "hãy trở về trạng thái vô ngã" có nghĩa là "hãy tìm hiểu lòng mình." Do đó, sau khi đã thôi không đi làm nữa, năm 1729 (niên hiệu Kyoho thứ 14), ở tuổi 45, Baigan đã mở trường tư thục luyện Tâm học ở phường Kurumaya, kinh đô Kyoto. Theo cảm giác ngày nay, thì 45 tuổi ở thời đó tương đương với tuổi gần 60 bây giờ, tức là tuổi về hưu. Nói cách khác, sau khi về hưu, ông mới bắt đầu mở trường tư thục. Từ đây cho đến lúc mất ở tuổi 60, ông đã miệt mài 15 năm làm thày đồ giảng dạy và viết sách.

 

Xã hội võ sĩ samurai là xã hội "tổng số zero"

Ishida Baigan đã sống tuổi thơ ấu trong thời kỳ Genroku, đã làm công cho nhà buôn trong thời kỳ Kyoho và sau cùng đã làm thầy dạy học trong thời kỳ Genbun. Trước khi kể lại các hoạt động của nhân vật này, ta cần phải khảo sát qua về ba thời kỳ vừa nói.

Chúa Tokugawa Ieyasu đánh thắng trận Sekigahara là năm 1600 (niên hiệu Keicho năm thứ năm), rồi lập ra nhà mạc phủ Tokugawa là năm 1603 (niên hiệu Keicho năm thứ tám). Khoảng từ 80 tới 85 năm sau đó, Ishida Baigan mới ra đời. Nếu coi trận đánh Sekigahara tương tự như lúc khởi đầu của cuộc Duy tân Minh Trị (1867), thì 85 năm sau là năm 1953, hay tám năm sau khi Nhật Bản thua trận Chiến tranh Thái Bình Dương, đồng thời là lúc sắp sửa diễn ra cái gọi là "thể chế năm ‘55106[2]" Nếu nghĩ rằng Baigan đã sinh ra vào thời kỳ như vậy thì có thể ta sẽ thấy dễ hiểu hơn.

Ký ức về thời Chiến quốc đã phai mờ, và thể chế mạc phủ Tokugawa đã bén rễ vững vàng. Kinh tế thì phát triển. Baigan sinh ra đúng vào thời kỳ kinh tế thịnh vượng "bong bóng" tương tự như thời kỳ tăng trưởng kinh tế cao độ sau cuộc chiến tranh thế giới lần thứ hai vậy. Thế nhưng, khi thiếu niên Baigan từ vùng quê Tanba ra kinh đô Kyoto, thì "bong bóng" thịnh vượng chưa thấy đâu, mà việc buôn bán làm ăn đã bước vào lúc khó khăn, rồi nhà hàng mà thiếu niên đến đó ở đợ đã phá sản.

Có một dạo từ "Thời Genroku Showa107[3]" đã được ưa dùng để chứng tỏ rằng thời Genroku là thời kỳ thịnh vượng như thế nào. Song cái thịnh vượng, cái hào nháng đó đã chỉ đi sướt qua thiếu niên Baigan. Cậu đâu có được hưởng cái phồn hoa đó? Ngược lại, cậu đã phải nếm mùi gian khổ do "phản động lực" của sự phồn hoa đó gây ra.

Chương VI về Tokugawa Ieyasu có nói, thời chiến quốc Nhật là thời kỳ "hạ khắc thượng." Người tài có cơ hội đoạt lấy địa vị chóp bu. Khoảng thời gian đầu của thời kỳ đó, người ta ứng dụng kỹ thuật học từ Trung Hoa, thời gian sau thì học từ Tây Âu để phát triển kinh tế. Thoạt nghe nói thời Chiến quốc, người ta thường có cảm giác là thời đó chỉ có đánh chém lẫn nhau. Nhưng thực ra, đó là thời kỳ mà văn hóa phát triển, kỹ thuật tiến bộ và kinh tế phát đạt. Nhất là kỹ thuật xây dựng thì đã tiến được những bước dài. Dân số thì gia tăng. Tư tưởng, kiểu cách sinh hoạt cũng đã có những tiến bộ rất lớn. Nói cách khác, đó là thời kỳ đáng được gọi là "Thời phục hưng (Renaissance)" của Nhật Bản vậy.

Sau trận đánh Sekigahara và sau khi thể chế mạc phủ Tokugawa đã ổn định rồi, thì nhân tài và tiền bạc liền được dùng cho dân sinh. Vì thế, những ngành nghề dân sinh đã phát triển mạnh mẽ.

Mặt khác, xã hội samurai thì đã rơi vào trạng thái "tổng số zero." Trước đó, từ Oda Nobunaga, qua Toyotomi Hideyoshi rồi Tokugawa Ieyasu, tất cả đều là những tổ chức tăng trưởng lớn mạnh. Thế nhưng, khi thể chế Tokugawa được định xong rồi, thì lúc đó, với đất đai trong toàn quốc chỉ có diện tích nhất định, vấn đề còn lại chỉ là làm sao chia xẻ cái nguồn lợi thu hoạch mà thôi. Lãnh địa của toàn tập thể samurai không tăng lên hơn. Vì thế, những nguyện vọng như "muốn có lãnh địa lớn hơn" hoặc "muốn trở thành lãnh chúa to hơn" đều là những ý nghĩ không chính đáng.

Sự phủ nhận cái tư tưởng muốn bành trướng, đã được Tokugawa Ieyasu dạy bảo bằng cách tru diệt các phiên chúa có công, qua cuộc thanh trừng gọi là tái cấu trúc (Chương VI). Võ sĩ samurai toàn quốc Nhật Bản đã phải thay đổi tính tình (re-minding) đi.

Dưới thể chế mạc phủ Tokugawa, võ sĩ samurai phải học hỏi cách sống cho thích hợp với xã hội "tổng số zero." Kết quả là sự khám phá ra cái gọi là "chủ nghĩa minh quân." Nghĩa là, giá trị của võ sĩ samurai không còn là tài mở rộng lãnh địa, khả năng có nhiều thuộc hạ nữa. Ngược lại, họ phải làm sao cư xử cho phải đạo, phải biết yêu dân, phải được thuộc hạ kính nể, phải có tư cách tốt và ý thức thẩm mỹ cao. Như thế mới đáng gọi là võ sĩ samurai tốt. Ðây là một tư tưởng bảo thủ cực kỳ thoái hóa.

 

Sự phát đạt bong bóng thời Genroku

Một trăm năm đầu của thời mạc phủ Tokugawa, là thời kỳ mà xã hội thương gia trưởng thành lớn lao. Do đó, số con cháu võ sĩ samurai đã bỏ giai cấp samurai để gia nhập giới kinh doanh không phải ít. Chẳng hạn, một trong Mười Dũng sĩ Amako108[4] lừng danh, là Yamanaka Shika-no-suke, có người con thứ, tên là Shinroku (1570-1650), đã trở thành người lái rượu ở đất Settsu Itami. Ông đã phát minh ra phương pháp nấu rượu sake, và trở thành thủy tổ của dòng họ phú thương Konoike. Thủy tổ của dòng họ tài phiệt Sumitomo là Soga Rihei, người sáng lập ra nhà phú thương Yodoya là Okamoto Yozaburo (Tsuneyasu), v.v., đều xuất thân từ giai cấp võ sĩ samurai cả. Dĩ nhiên cũng có những nông dân đã trở thành phú thương. Ngoài ra, cũng có những người từ Triều Tiên, từ Trung Quốc, vào làng rồi trở thành thương gia hay thợ lành nghề.

Giai đoạn một trăm năm đầu của thời mạc phủ Tokugawa đã thu hút được những nhân tài như vậy và đã phát triển kinh tế một cách khí thế. Nửa chừng, cũng có những tai họa như đám cháy lớn thời Meireki-Manji109[5], thời làm ăn thua lỗ của những năm Tenna (1861-1864), nhưng rồi kinh tế lại phục hồi để lại tiếp tục tăng trưởng mạnh. Khoảng thời gian gần 80 năm giữa trận đánh Mùa Hè Ozaka110[6] (tháng Năm âm lịch, 1615) cho tới khoảng giữa những năm Genroku, là lúc kinh tế thịnh vượng và tăng trưởng nhanh. Ðỉnh cao của thời kỳ thịnh vượng này chính là những năm Genroku hào hoa vậy.

Trong khoảng thời kỳ thịnh vượng dài này, đã có nhiều ngành nghề phát sinh ra. Thí dụ, thợ làm súng ống bằng sắt thép trong thời chiến tranh, nay chuyển sang chế tạo nông cụ. Thế là nhờ có nông cụ bằng sắt nên những vùng đất cằn cỗi trước đây bỏ hoang, nay cũng được khai khẩn. Việc khai mỏ đào hầm lại phát hiện được những nguồn nước ngầm phun ra. Nhờ thế, kỹ thuật đào đường mương, kỹ thuật bơm nước tiến bộ và nghề khoáng sản cũng phát triển.

Hơn hết cả là sự khai thác đất đai đã tiến mạnh. Ðiều này có nghĩa là ở thời gian đầu của thời mạc phủ Tokugawa, Nhật Bản hãy còn có nhiều đất đai để khai phá.

Chẳng hạn, khi họ Tokugawa lập ra mạc phủ đóng đô ở vùng Kanto, thì chỉ cần cải thiện các dòng nước một chút thôi là đã khiến cho đồng bằng Kanto trở thành một vùng nông canh rộng lớn. Ngay trong thành Edo, chỉ trong một thời gian ngắn, việc lấp ven biển đã mở thêm được một diện tích đất rộng lớn. Những nơi trước kia là đất núi, nay cũng được dẫn nước vào và trồng loại hoa màu thích hợp. Vùng đất sình lầy thì được tát nước đi thành vùng đất trũng để phát triển hoa màu thích nghi. Thế rồi, việc trao đổi, lưu thông những sản vật như vậy, đã khiến cho nền thương mại phát đạt. Rồi với sự ổn định chính trị của mạc phủ Tokugawa, việc phát hành phiếu tín dụng và thể thức giao dịch thị trường tương lai đã nẩy sinh ra.

Thế nhưng, nền kinh tế thương nghiệp khi phát triển tới một mức độ rồi thì bị chùn lại. Ðó là vì bước vào thế kỷ thứ XVII thì những tiến bộ kỹ thuật có tính cách toàn cầu ít đi, và Nhật Bản, với đường lối bế môn tỏa cảng, đã không có những kích thích kinh tế đáng kể nữa.

Vì thế, vào khoảng giữa thời Genroku thì không thấy còn có đối tượng đầu tư có hiệu quả nữa. Dẫu có đổ tiền vào khai thác đất đai thì đất canh tác cũng không tăng thêm nữa nghĩa là với kỹ thuật thời đó, chỗ nào khai thác được đều đã được khai thác hết rồi.

Ðương nhiên, cán cân I-S111[7] bị mất thăng bằng, khiến nẩy sinh ra tình trạng dư thừa nguồn vốn. Bọn nhà giầu xổi ở Edo và Ozaka có tiền không biết dùng vào đâu, bèn bỏ ra du hí miệt mài. Thời Genroku là lúc mà những loại hình nghệ thuật, như kịch hát bội Kabuki, kịch rối Bunraku, tranh hoa lệ của Ogata Korin hay nghề thủ công đã phát triển mạnh. Một hình thức đua tài thời trang gọi là "thi đua Kimono" đã thịnh hành, và thú ẩm thực cũng thịnh lắm. Nói cách khác, cái hào nhoáng của thời Genroku chẳng qua là cái bong bóng do tư bản thương nghiệp đã mất đất dụng võ thổi phồng lên.

Thế mà vẫn còn tiền thừa để cho các phiên chúa vay nợ. Ðời sống trở nên xa hoa, thì võ sĩ samurai cũng như lãnh chúa đều phải tiêu sài tốn kém. Giới võ sĩ, với thu nhập cố định một cọc ba đồng thì dứt khoát là nghèo đi. Mức sinh hoạt chung tăng lên, song mức thu nhập của võ sĩ samura vẫn không thay đổi. Lương lậu được lĩnh bằng gạo nên tuy không chịu ảnh hưởng của lạm phát, song không theo kịp đà tăng của mức sinh hoạt và sự gia tăng kinh tế. Mạc phủ Tokugawa mặc dầu không võ trang mà đã duy trì được quyền lực tới 260 năm, chính là nhờ ở cơ chế bần cùng hóa mãn tính của giai cấp cai trị.

Thế nhưng, tiền cho phiên chúa vay chỉ là để lấy lời, chứ có sinh ra tài vật gì đâu. Rốt cục, các phiên địa đều rơi vào tình trạng tài chính eo hẹp. Ðến thời Genroku, thì ngay nền tài chính của mạc phủ cũng bị quẫn bách. Vàng bạc tích lũy từ thời bậc khai tổ là Tokugawa Ieyasu cũng cạn đi mất hết.

Không làm sao khác được, tháng 8 năm 1695 (Genroku năm thứ tám), mạc phủ đã cho đúc tiền lại. Hàm lượng vàng trong đồng tiền vàng bị giảm bớt đi. Thay vào đó, đồng được trộn vào, và số lượng tiền được đúc ra nhiều hơn. Ðồng tiền bạc cũng được pha thêm chì để đúc ra số lượng nhiều hơn. Nói theo kiểu ngày nay, thì đây là lạm phát tiền tệ. Ðương nhiên, sự lạm phát như vậy làm cho việc làm ăn được phấn chấn một thời gian.

Nửa sau của thời Genroku chính là lúc thịnh vượng bong bóng. Ðám nhà thầu xây dựng như Kinokuniya Bunzaemon được lời lớn. Bởi vì họ trúng những mẻ thầu lớn như xây điện Goji-in và chùa Gokokuji. Tình huống này cũng tương tự như thời kinh tế bong bóng của những năm 1980.

Song, bong bóng vẫn chỉ là bong bóng. Sự thịnh vượng giả tạo không được yểm trợ bởi sự gia tăng sản xuất và gia tăng tiêu dùng, thì không thể kéo dài được. Bốn năm sau vụ đúc tiền lại, tức là khoảng năm Genroku thứ 12 (1699), bong bóng bắt đầu xẹp dần. Chính lúc đó là thời kỳ Baigan đến ở đợ cho nhà buôn đầu tiên bị phá sản. Mới 8 tuổi đầu, từ nhà quê Tanba ra nơi đô hi Kyoto, mặc dù được mắt thấy cái vẻ hào nháng của thời Genroku, nhưng chưa có cơ hội thưởng thức thì đã phải nếm mùi thảm thương là nơi ở đợ bị phá sản.

 



tải về 1.61 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   ...   8   9   10   11   12   13   14   15   ...   24




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương