* howard b. Wilder robert p. Ludlum harriett mc. Cune brown


- Người Da trắng thay đổi thái độ với người Da đỏ



tải về 1.69 Mb.
trang2/25
Chuyển đổi dữ liệu04.08.2016
Kích1.69 Mb.
#12266
1   2   3   4   5   6   7   8   9   ...   25

- Người Da trắng thay đổi thái độ với người Da đỏ.

Trong khi đó, càng ngày càng có nhiều người Hoa Kỳ nhìn văn phòng trông coi người Da đỏ một cách khác nhau. Những cuộc điều tra của chính phủ cho thấy dân Da trắng thường qui tội cho người Da đỏ về những xáo trộn giữa các chủng tộc. Thái độ của người dân ở vùng biên cương cũng bắt đầu thay đổi. Càng ngày càng có nhiều người Hoa Kỳ lấy làm xấu hổ khi đọc những câu chuyện về những người Da trắng đã đánh lừa người Da đỏ và đối xử với học một cách tàn ác. Người Hoa Kỳ bắt đầu nghiên cứu các chuyện lịch sử về người Da đỏ cũng như tìm những phương cách mới để đối xử với họ.




- Chính phủ Hoa Kỳ thay đổi thái độ đối với dân Da đỏ.

Chính phủ Hoa Kỳ quyết định đảm nhiệm trách vụ bảo vệ đất đai của người Da đỏ, và giúp đỡ họ học hỏi sống theo lối sống của người Da trắng. Bác sĩ, y tá được phái đến để hướng dẫn họ sống cho hợp với vệ sinh. Chính phủ cho thiết lập các trường học và gửi các giáo viên đến các khu vực dành riêng cho người Da đỏ. Có tới hàng ngàn nam nữ trẻ em Da đỏ đi học. Trường học dành riêng cho các trẻ em Da đỏ cũng tương tự như các trường tiểu học khác. Đối với trẻ em lớn tuổi hơn thì có trường nội trú để cho học sinh có thể ăn ở luôn trong trường. Nữ sinh thì học nấu ăn, may cắt và học về các công việc trong gia đình. Nam sinh thì học về canh nông, thợ mộc và các công việc buôn bán. Đồng thời cũng có nhiều sinh viên Da đỏ ghi danh học tại các trường công lập và đại học.

Chính phủ cũng cố gắng tạo điều kiện dễ dàng để cho người Da đỏ có thể làm chủ ruộng đất. Năm 1887, Quốc hội cho thông qua luật Dawes. Theo luật này thì một người chủ gia đình Da đỏ có thể được cấp cho 160 mẫu đất để canh tác. Họ chỉ cần phải tuân hành một điều kiện là họ phải từ bỏ lòng trung thành đối với bộ lạc của họ. Nếu họ đồng ý như vậy thì họ có thể trở thành công dân Hoa Kỳ. Sau 25 năm, họ sẽ hoàn toàn làm chủ ruộng đất này. Năm 1924, Quốc hội cho thông qua một đạo luật khác theo đó thì tất cả mọi người Da đỏ đều là công dân Hoa Kỳ.

- Ngày nay dân Da đỏ sinh sống ra sao ?

Ngày nay ở Hoa Kỳ có tất cả chừng 800 ngàn người Da đỏ, và chừng 2/3 số dân này sinh sống ở trong những khu vực dành riêng cho họ. Nhiều người sinh sống ở torng những khu vực dành riêng cho họ. Nhiều người sinh sống bằng nghề trồng trọt, nhưng cũng có nhiều làm công việc thủ công nghệ và nghệ thuật. Dân da đỏ sinh sống trong các khu vực dành riêng cho họ thường cũng làm việc trong các nhà máy kỹ nghệ gần đó. Thí dụ trong thời Đệ Nhị Chiến, nhiều người Da đỏ đã làm việc trong các cơ xưởng kỹ nghệ, sản xuất vật liệu chiến tranh, và cũng có nhiều người Da đỏ khác phục vụ torng quân đội Hoa Kỳ. Tình trạng sinh sống trong các khu vực dành riêng cho người Da đỏ khác phục vụ trong quân đội Hoa Kỳ. Tình trạng sinh sống trong các khu vực dành riêng cho người Da đỏ cũng khác biệt rất nhiều. Một số vùng đất dành cho người Da đỏ rất có giá trị vì ở đó có những tài nguyên như gỗ rừng, mỏ dầu hay các khoáng sản khác. Trong 20 năm qua, bộ lạc Apache ở New Mexico đã nhận được mỗi năm hàng triệu Mỹ Kim lợi tức lấy từ gỗ rừng và các khoáng sản khác ở trong vùng đất dành riêng họ. Tuy nhiên cũng có một số bộ lạc khác không được may mắn và phải sống cuộc đời cơ cực và khó nhọc.





- Chính phủ giúp đỡ dân Da đỏ để họ có thể sống tự lực.

Chính phủ Hoa Kỳ vẫn tiếp tục giúp đỡ dân Da đỏ. Chính phủ tài trợ chương trình săn sóc y tế miễn phí cho họ. Các trường học được thiết lập cho họ cũng như giúp đỡ họ tìm kiếm công ăn việc làm. Đồng thời, chính phủ cũng cho thiết lập những chương trình dài hạn để cải thiện lề lối sinh hoạt của họ. Năm 1950, Quốc hội cho thông qua kế hoạch thập niên dành cho cho 2 bộ lạc Navaho và Hopi để xây thêm trường học và thiết lập các đường xá tốt đẹp hơn, cũng như du nhập các phương pháp canh tác để gia tăng sản lượng mùa màng và gìn giữ ruộng đất cho phì nhiêu. Mặt khác, cũng có nhiều bộ lạc khác đã trở nên hăng hái góp phần vào việc giảm thiểu thời kỳ chính phủ Hoa Kỳ điều khiển và kiểm soát công việc của họ. Các Hội đồng Bộ lạc đã quyết định sử dụng tài nguyên thiên nhiên một cách hữu ít hơn. Những đất đai ở khu vực dành riêng cho dân Da đỏ nào mà bị trưng thu để thực hiện chương trình chống lụt hay được sử dụng vào các kế hoạch khác, thì chính phủ sẽ bồi thường bằng tiền cho các bộ lạc đó để cho họ có phương tiện đi định cư nơi khác, hay dùng tiền đó trợ giúp cho các gia đình đã bị bắt buộc phải di chuyển khỏi vùng. Tóm lại, dân Da đỏ mong muốn trở thành công dân Hoa Kỳ nhưng đồng thời họ cũng muốn ở lại trong các đoàn thể trong bộ lạc của họ.





PHẦN III

NHỮNG NGƯỜI THỢ MỎ, DÂN CHĂN BÒ VÀ CÁC NHÀ NÔNG

ĐÃ GÓP PHẦN VÀO CÔNG CUỘC ĐỊNH CƯ

Ở VÙNG BIÊN CƯƠNG CHÓT CÙNG NÀY NHƯ THẾ NÀO

Năm 1890, một bản báo cáo của chính phủ Hoa Kỳ loan báo ằng vùng biên cương không còn nữa. Lời tuyên bố này không có nghĩa là vùng đất nằm giữa sông Mississippi và bờ biển Thái Bình Dương đã dày đặt những người đến lập nghiệp định cư với những nông trại trù phú, đô thị và thành phố nhộn nhịp. Bản thông báo đó chỉ có ý nói là lằn ranh chặn đứng người Da trắng đi tìm đất định cư không còn nữa. Những người tiền phong định cư đã dồn dập đến lập nghiệp ở hết các vùng đất ở miền Tây. Nhưng trước khi miền Tây trở thành như ngày nay thì người dân định cư đã phải làm biết bao công việc nặng nhọc. Ba nhóm người thợ mỏ, giới chăn bò và anh em nông dân đã giữ vai trò quan trọng trong công việc khó khăn năng nhọc này. Những người này đã sống cuộc đời lầm than, nguy hiểm, và cũng đã từng gánh chịu những thất bại đắng cay và phải hết sức liều mạng phiêu lưu.



- Những người đi tìm vàng mở đường tới vùng núi Rockies.

Trước hết là những người thợ mỏ dẫn đầu. Chúng ta trở lại thời kỳ mà người ta khám phá ra vàng ở California. Lúc đó những người đi tìm kiếm vàng đầu tiên đổ dồn về miền Tây để làm giàu ở California. Hình như lúc bấy giờ người ta chỉ lấy đất ở sông ngòi, lạch hay ở mặt đất rồi đem đãi hay lọc vàng bằng những cái rõ. Tuy nhiên, khi mà số người đổ xô đến hàng ngàn thì việc kiếm vàng dễ dàng như vậy không còn nữa. Sau này chỉ những người đủ tiền mua sắm những máy móc đắt tiền mới có thể đào được vàng ở sâu trong lòng đất. Nhưng nếu trước kia người ta đã dễ dàng kiếm ra vàng ở các vùng đồng quê ở California thì tại sao không có vàng ở các vùng núi đá Rockies ? Có nhiều người lại từ California quay ngược trở lại vùng núi lởm chởm. Ngoài ra còn có những nhóm người đang trên đường đi California lại dừng lại ở ngay vùng núi đá này. Họ đi lang thang hết nơi này đến nơi khác vì bị ám ảnh bởi tin đồn về mỏ kim quý. Họ là những người đi tìm vàng.



- Tìm được vàng và bạc ở vùng núi đá Rockies.

Vào những thập niên 1850 và 1860, hy vọng của những người đi tìm vàng đã được thỏa mãn. Người ta tìm thấy mỏ bạc rất lớn ở nơi mà ngày nay thuộc tiểu ban Nevada. Đồng thời cũng vào thời gian này, người ta lại tìm ra vàng ở Colorado. Đặc biệt nhất là ở vùng gần đỉnh núi Pike. Những người đi kiếm vàng chen chúc lên xe, mang khẩu hiệu "Pike's Peak or Bust" (đi đến núi Pike hay là phá sản). Nhiều người may mắn tìm được vàng, nhiều người khác không may mắn, thất vọng đổi khẩu hiệu trên đây thành "Bust by Gosh" (phá sản kỳ quá) và di chuyển đến hững nơi khác. Sau này người ta lại đi tìm vàng và bạc ở các nơi khác mà ngày nay thuộc về các tiểu bang Idaho, Montana, Wyoming. Người ta cũng khám phá ra vàng ở Arizona, New Mexico, và trong vùng Black Hills thuộc tiểu bang South Dakota.

- Đời sống ở trong các thị trấn trong vùng mỏ thật là thô bạo.

Khi mà có những dân phiêu lưu để xô tới đi tìm vàng thì chỉ torng một hai hay hai tuần lễ là đã có nhiều thị trấn xuất hiện. Những thị trấn của dân đi tìm vàng lúc đầu rất là khác biệt với các thị trấn Hoa Kỳ ngày này. Du khách có thể tìm thấy những đường phố đầy những bùn lầy hay đầy ngập cát bụi. Nhà cửa thì thật là thô sơ và xấu xí. Ngoài đường đầy những người thô bạo ồn ào chỉ nhằm có một mục đích là tìm cách làm giàu cho mau chóng. Vào lúc đầu, trong những thị trấn ở vùng có mỏ vàng rất ít có quyền lực của chính quyền. Những quân bất hảo thường lẻn trốn trước khi ib5 mang ra vành móng ngựa.

Dưới đây là một đoạn văn viết về một thị trấn ở vùng có mỏ vàng :

"Chỉ trong vòng 90 ngày thôi mà dân chúng ở đây đã lên tới ít nhất là 10 ngàn người. Đây thật là một xã hội của những phần tử ồn ào thô bạo. Người ta thấy có hàng ngàn căn nhà gỗ và lều vải. Từng tấc đất trong vùng thung lũng này đã được bới lên hàng đống kếch xù sỏi và sỏi. Ở đây có rất nhiều vàng và quân cờ bạc. Người buôn bán và bọn dân hạ cấp cũng dùng đủ mọi cách để được vàng. Cứ khoảng chừng 3 căn lều thì lại có một quán rượu và mỗi ly rượu bán tới giá 50 xu tính bằng bụi vàng. Nhiều quán đầy nhóc những người đánh bạc với những bàn bạc... Có rất nhiều tiệm đàn hát và nhảy đầm. Chỉ trong một ngày một đêm, đã xảy ra đầy những tội lỗi, cãi lộn, đả thương và giết người. Bên cạnh những giờ vui hưởng đàn nhạc, người ta thường nghe thấy tiếng súng lục nổ. Đánh lộn ở ngoài phố xảy ra rất thường, và không ai biết chắc giờ nào và ở đâu sẽ có đánh nhau. Ai cũng phải đề cao cảnh giác tự vệ chống lại súng bắn bất ngờ."



- Việc khai thác một cách dồn dập đưa đến việc phát triển các tiểu bang miền núi một cách mau lẹ.

Ngày nay, ngoại trừ mấy thành phố hoang vắng, rất ít có miền núi nào ở miền Tây còn sót lại những gì nhắc nhở lại những ngày xô bồ (reckless) của thuở xưa. Sự thay đổi này đã xảy ra như thế nào? Ngay khi những mỏ vàng hay bạc cạn hết thì những người đi tìm vàng di chuyển đi nơi khác. Những người tử tế thành lập những đội để mang bọn du thủ du thực và trộm cướp ở miền Tây hoang dã ra trước vành móng ngựa. Việc khai thác vàng trở nên công việc do các công ty lớn điều khiển. Với những máy móc đắt tiền, người thợ mỏ vàng ngày càng phải đào sâu vào trong lòng núi, và không những chỉ tìm lấy vàng hay bạc mà còn phải đào lấy đồng, chì và kẽm nữa. Nhiều người đi lập nghiệp thất bại trong công việc tìm kiếm vàng bây giờ quay ra buôn bán hay canh tác. Dầu sao, sớm muộn thì các vùng núi cũng được định cư. Phong trào ồ ạt đi kiếm vàng trong những thập niên 1850 và 1860 đã đẩy mạnh việc thành lập tiểu bang Navada (1864) và Wyoming (1890)...



  • VIỆC CHĂN NUÔI SÚC VẬT BÀNH TRƯỚNG ĐẾN CÁC ĐỒNG BẰNG MIỀN TÂY.

Giống như công việc đi tìm vàng đã giúp cho việc định cư ở các vùng núi ở
miền viễn Tây thì việc chăn nuôi cũng đã giúp cho việc mở mang các vùng đồng bằng ở miền Tây. Khi người Tây Ban Nha đến định cư ở Mexico, và sau này ở những vùng đất màn ngày nay gọi là Tây Nam thì họ du nhập súc vật và cả ngựa nữa vào các vùng đất này. Được thả rong cho ăn tự do ở các vùng đồng cỏ rộng mênh mông, các thú vật này dần dần biến thành gần như thú rừng. Ngựa biến thành hàng đàn ngựa hoang nhỏ nhắn nhưng rất dẻo dai và rất nhanh. Khi những người Hoa Kỳ đến lập nghiệp ở Texas, New Mexico và California thì đã có nhiều người chú ý đến việc chăn nuôi súc vật. Súc vật được Tây Ban Nha lấy giống từ miền Đông. Tuy nhiên, vì công việc chuyển vận ở miền Đông khó khăn nên việc chăn nuôi súc vật không hứa hẹn sẽ mang lại được nhiều lợi.

- Việc chăn nuôi súc vật bắt đầu bành trướng mạnh.

Vào thời kỳ đó có hai sự việc xảy ra :

1/ Việc giết hại những đàn trâu đã tạo nên những cánh đồng cỏ rộng bao la bát ngát chạy dài từ Texas đến Gia-Nã-Đại. Những nhà chăn nu6oi thấy rằng các đồng cỏ này quả là thực phẩm rất tốt cho gia súc của họ. Không bao lâu có hàng ngàn đàn súc vật ở trên cánh đồng này.

2/ Khi các đường xe lửa được thiết lập băng qua các cánh đồng cỏ, các nhà chăn nuôi thấy rằng họ có thể đem súc vật của họ về phía Bắc qua các cánh đồng tới các trạm xe lửa trong tiểu bang Kansas và Nebraska.

Mỗi năm các nhà chăn nuôi ở Texas tập trung các đàn súc vật vĩ đại để đem về phía Bắc theo đó mà người ta gọi là cuộc viễn hành. Thường thường, một đàn súc vật như vậy có tới hàng hai ngàn hay ba ngàn con. Bò của họ được thả rông cho ăn băng qua các cánh đồng cỏ và cuối cùng tới "Thị trấn bò" ở dọc theo đường rày. Chúng ta hãy tưởng tượng những sự thích thú và ồn ào khi hàng hàng lớp lớp bò dồn vào thị trấn để cho lên xe lùa đi Kansas City hay Chicago. Đôi khi bò được đưa lên phía Bắc tới Wyoming hay Montana để cho ăn. Sự thành công của những "chuyến viễn hành" đã làm cho việc chăn nuôi bò được phát đạt ở khắp trong các cánh đồng cỏ miền Tây.

- Người chăn bò Hoa Kỳ giữ một vai trò quan trọng trong khng cảnh miền Tây.

Nếu không có người chăn bò thì người ta không thể nào thực thiện được những cuộc trường du của những đàn bò đi từ Texas đến tận những cánh đồng cỏ ở Kansas và Nebraska. Công việc của người chăn bò là để bảo vệ bò chống lại bọn người Da đỏ và thú rừng cũng như giữ cho bò khỏi đi lạc. Những bò non được tập trung lại và đánh dấu với dấu hiệu của ông chủ, và bò thuộc những trại khác nhau thì được phân loại. Tất cả những công việc này là những công việc nặng nhọc, nhưng là một cuộc sống tự do sung sướng đối với người chăn bò. Tập quán nổi tiếng của người chăn bò là không ăn mặc chưng diện. Mỗi khía cảnh có phần ích lợi của nó. Dưới đây là một đoạn văn nói về cách ăn mặc của người chăn bò, và tại sao họ lại ăn mặc như vậy :

"Chiếc áo len dầy rộng và hở cổ là lối ăn mặc rất thông thường cho tất cả các mùa trong năm ngoại trừ mùa Đông. Vào mùa Đông, người ta thường thấy những người chăn bò ở trong đám súc vật trong trại chăn nuôi không mặc gì khác hơn trừ một hay hai cái áo dầy... Giày của người chăn bò thì được làm bằng da thú rất khít, đế thì thực là rất nhỏ và cao gót. Nếu chúng ta cưỡi ngựa đi bên cạnh anh ta và nhìn vào chỗ ngồi của anh ta ở trên yên ngựa thì chúng ta sẽ thấy rằng gót giày cao và hẹp của anh ta cũng là đế ngăn chặn cho khỏi chìa ra trước bàn đạp, nếu có té thì chân anh ta không bao giờ vướng tòong-ten ở trên bàn đạp.

Người chăn bò rất cẩn thận trong việc chọn lựa gang tay. Găng tay của họ được làm bằng da hoẵng thuộc thứ tốt nhất. Loại da này nếu chẳng may bị ướt thì cũng không làm cho người mang bị đau. Thường thường những da này đã được thuộc và nhuộm trắng, và các găng tay còn được viền tua làm cho khi chạy những tua này sẽ rung rinh.

Mũ của những người chăn bò đúng là một kiểu độc đáo điển hình. Đó là chiếc mũ có vành rộng, dày, lại có một giải bằng dava có khóa. Vành mũ hơi uốn cong lên hay cuốn thẳng lên và được buộc bằng một sợi giây da. Người chăn bò có thể dùng chiếc mũ này cho luôn cả những khi nắng, khi mưa, khi tuyết rơi, khi gió thổi. Khi trời mưa thì chiếc mũ này sẽ được dùng như là cái dù (ô). Khi trời nắng thì dùng mũ để che nắng như một tấm mộc; vào những ngày mùa Đông tháng lạnh mũ mũ được bịt chặt qua hai lỗ tai bằng một chiếc khăn mặt.

Chiếc khăn choàng bằng lụa buông lỏng choàng qua cổ và được buộc bằng một nút ở đằng trước. Mặc dầu là khó có thể nói được rằng chiếc khăn chòang này chỉ là chiếc khăn choàng để trang trí nhưng nó rất tiện để che phía sau cổ khi phải cưỡi ngựa chạy trong những luồng gió nóng. Thường thường, những chiếc khăn này là màu đỏ, đôi khi cũng là màu đỏ tươi.

Vẻ đặc biệt độc đáo nhất trong y phục của người chăn bò là chiếc quần da. Quần da của người chăn bò có hai ống rộng làm bằng da bò dày cộm và được may liền với nhau bằng một miếng da. Đường cắt ở phiá trước là chỉ cốt để che đùi và ống quyển mà không làm nóng mình nư các bộ quần áo da khác. Chiếc quần này hình như có mục đích là để cho các cành cây và các loại cây gai như cây tầm xuân khỏi đâm vào người. Tuy nhiên, nó cũng rất có giá trị vài những ngày trời mưa lạnh hay ẩm ướt. Đôi khi ở các trại miền Nam người ta còn thấy những người chăn bò mặc những chiếc quần da còn dày đặc những lông là lông. Đối với những người chăn bò ở miền Tây Nam thì quần bằng da dê có lông sẽ chống chọi được với các loại gai xương rồng hơn là các quần áo bằng các loại vải hay da khác.

Ăn mặc quần áo như vậy và được trang bị bằng súng lục, roi đinh thúc ngựa, và một cuộn dây thừng, người chăn bò quả là một bộ mặt sống động khi họ lùa bò ở ngoài đồng cỏ hay đi vào các đô thị."



- Việc chăn nuôi bò ở ngoài đồng cỏ bị giới hạn.

Tuy nhiên, việc chăn nuôi súc vật ở trong cánh đồng cỏ kéo dài không được bao lâu. Đó cũng là vì có nhiều lý do :

1/ Các khu đồng cỏ đầy nhóc những bò gặm cỏ hàng ngày cho nên đất đai càng trở nên hiếm. Ở các vùng chân đồi bên cạnh rặng núi đá Rockies, những người chăn cừu chiếm những khu đất mà ngày xưa người ta dùng để nuôi bò. Cừu đã ăn hết sạch cả cỏ không còn để lại cho bò ăn. Cũng đã từng xảy ra nhiều vụ đánh nhau dữ dội giữa những người chăn nuôi bò và người chăn cừu để giành giật đồng cỏ.

2/ Có nhiều nông dân từ miền Đông đến chiếm đất trong các đồng cỏ để làm ấp trại. Họ thiết lập hàng rào dây kẽm gai để không cho bò tràn vào phá hại mùa màng của họ. Những nhà chăn nuôi đã phải dùng đủ mọi cách để chống lại các ông chủ trại, nhưng dù sao thì các vùng đồng cỏ để cho bò ăn này cũng càng trở nên nhỏ hơn.

3/ Việc xuất hiện máy quay gió khiến cho người ta có thể bơm nước từ dưới sâu trong lòng đất. Các ông chủ trại nuôi súc vật trước kia đã phải thiết lập các trại chăn nuôi và các căn nhà khác ở gần giếng nước hay sông suối. Nhưng với máy quay gió, nông dân không cần phải định cư lập nghiệp ở dọc theo các dòng sông hay suối nữa.

4/ Càng có nhiều đường xe lửa đi tới miền Tây thì việc đưa các đàn bò đi băng qua một đoạn đường dài không còn cần thiết nữa.

Hậu quả của những sự thay đổi này đã làm cho việc chăn nuôi bò bị giới hạn rất nhiều. Tuy vẫn còn rất nhiều người chăn bò làm việc trong các trại chăn bò, nhưng hình ảnh người chăn bò sặc sỡ của thời thập niên 1870 đã biến mất torng các cành đồng cỏ.


  • THEO LUẬT HOMESTEAD, NHIỀU NGƯỜI ĐI ĐỊNH CƯ ĐÃ LÀM BIẾN ĐỔI VÙNG ĐẠI ĐỒNG BẰNG THÀNH MỘT MIỀN TRỒNG NGŨ CỐC VÀ CHĂN NUÔI

Cả dân phu mỏ và những người chăn bò đều là những người góp công vào công việc khai phá miền Tây hoang vu này. Họ đều là những người hiếu động, không muốn dừng bước ở lâu tại một nơi nào. Nhưng khi mà người nông dân đến chiếm đất canh tác thì họ ở lại định cư. Vì sự khan hiếm các cây gỗ nên những người định cư phải ở trong những nơi có hang hầm hay ở torng những căn nhà làm bằng tranh vách đất. Tuy nhiên, càng ngày càng có nhiều gia đình đến chiếm đất lập ấp trại cho nên những đất tốt để canh tác càng ngày càng trở nên khan hiếm.

- Vùng biên cương chót được định cư.

Năm 1889, vùng đất của người Da đỏ xưa kia mà ngày nay thuộc về tiểu bang Oklahoma được chính phủ mở rộng cho dân đến định cư lập nghiệp. Việc này gây ra một phong trào đi chiếm đất. Có tới hàng trăm ngàn người để xô đến túc trực chờ lệnh. Khoảng trưa vào một ngày mùa xuân, khi hiệu lệnh ban hành họ ào tới vượt biên giới nhào vào tranh giành chiếm những khu đất nào đã được chia thành từng lô mà họ thích hơn. Sau ít năm, lại có thêm đất đai của người Da đỏ được sát nhập vào lãnh thổ Oklahoma. Năm 1907, lãnh thổ này trở thành tiểu bang. Đồng thời, nhờ việc định cư vùng biên cương chót này mà có nhiều tiểu bang khác ở miền Tây cũng gia nhập Cộng đồng Liên bang. Đó là các tiểu bang Nebraska (1867), North và South Dakota (1889), Utah (1896), New Mexico và Arizona (1912).



- Ngũ cốc trở thành nông phẩm chính ở vùng đại đồng bằng.

Nhiều nông dân nhận ra rằng mối bận tâm của họ phần lớn là đất đai ở miền Tây không được màu mỡ và quá khô không thể canh tác như thường lệ được. Sau này, chúng ta sẽ được biết rằng người ta cũng đã vượt được trở ngại thiếu nước mưa. Tuy nhiên, vùng đất màu mỡ ở North và South Dakota cũng như ở Nebraska có nhiều nông trại lớn được phát triển. Ở đây hầu hết người ta trồng ngũ cốc. Nhiều nơi trồng lúa mì và nhiều nơi khác trồng bắp.



- Miền Tây cũ biến mất.

Những người thợ mỏ, dân chăn bò và các nhà nông không phải chỉ đến khai phá miền Tây, mà họ còn là những người hoàn thành trang sử quan trọng trong lịch sử Hoa Kỳ. Khi mà vùng biên cương biến mất thì cái lối sống độc lập và hiếu động đã có ảnh hưởng lớn lao vào đời sống Hoa Kỳ, đồng thời cũng bắt đầu lần lần biến mất. Khi mà sự di chuyển được dễ dàng hơn và các phương tiện giao thông càng ngày càng được giám bớt. Dù rằng vẫn còn có một vài phong tục ngày xưa của vùng này lưu lại, nhưng "miền Tây" không còn có nghĩa là một lối sống hao2n toàn khác biệt nữa.



CHƯƠNG XXII

HOA KỲ THÀNH ĐẠI CƯỜNG KỸ NGHỆ

Có bao giờ bạn nghĩ rằng lối sống ở Hoa Kỳ đã thay đổi quá nhiều trong một trăm năm vừa qua không? Năm 1865, khi cuộc nội chiến sắp chấm dứt, dân chúng lúc bấy giờ sinh sống như những thế hệ của cha mẹ và ông bà họ. Dĩ nhiên là họ có một ít tiện nghi ở trong nhà, và có thể di chuyển nhanh hơn, và cảm thấy dễ chịu hơn một chút. Nhưng vào thời đó, đa số người Hoa Kỳ còn sinh sống bằng nghề nông. Lúc bấy giờ có ít thành phố hơn, và thành phố cũng nhỏ hơn các thành phố ngày nay rất nhiều. Không có một chút gì là tiện nghi như đèn điện, tủ lạnh, máy hút bụi, máy điều hòa không khí, máy vô tuyến truyền thanh, vô tuyến truyền hình, điện thoại và máy giặt, những thứ mà ngày nay chúng ta cho là một điều kiện tự nhiên phải có. Lúc bấy giờ cũng không có xe hơi, không có tàu hỏa hay máy bay phản lực lướt nhanh như gió để chuyên chở hành khách từ nơi này đến nơi khác. Và lúc bấy giờ, nếu có ai nói rằng chỉ trong vòng một năm nữa, con người có thể dùng phi thuyền lao vào không gian bay vòng quanh trái đất, thì người ta sẽ bảo rằng người đó quả là điên khùng.

Sự phát triển kỹ nghệ một cách quá mau chóng ở Hoa Kỳ này đã đưa đến những thay đổi lớn lao trong gia đình từ miếng ăn, cái mặc cho đến các công việc làm cũng như việc giải trí hằng ngày. Trong những năm sau thời nội chiến, người ta lại khám phá ra các nguồn năng lực mới. Các nàh phát minh đã hoàn thành được những máy móc tân kỳ. Các nhà doanh thương đã mạnh dạng ủng hộ các công cuộc này torng giai đoạn thử thách. Từ năm 1900 khao học và kỹ nghệ đã tiến mạng hơn bao giờ hết. Với mức độ tiến bộ này, ai mà biết được những già kỳ lạ mà người ta không bao giờ mơ ước tới, thế mà trong một vài năm sau lại có thể trở thành một vai trò chiếm một phần trong đời sống hàng ngày.

Chương này sẽ nói về Hoa Kỳ làm thế nào đã trở thành một cường quốc kỹ nghệ lớn nhất thế giới. Đồng thời cũng nói về những phát minh mới đã đẩy mạnh công cuộc mở mang kỹ nghệ, và cũng bàn về những điều kiện và hoàn cảnh đã trợ giúp cho công cuộc mở mang này, cũng như sẽ nói về những người đã góp phần tạo nên công trình tiến bộ của đất nước Hoa Kỳ. Chương này được chia làm các phần dưới đây :

1/ Những điều kiện căn bản nào đã tạo cho Hoa Kỳ thành một quốc gia đứng vào hàng đầu về kỹ nghệ ?

2/ Việc sản xuất hàng loạt và các việc phát triển các công ty kinh doanh đã trợ giúp kỹ nghệ như thế nào ?

3/ Hệ thống giao thông và chuyển vận được cải thiện đã ảnh hưởng đến đời sống Hoa Kỳ ra làm sao ?

4/ Những phương pháp kinh doanh đã thay đổi theo sự phát triển kỹ nghệ nư thế nào ?



PHẦN I

NHỮNG ĐIỀU KIỆN CĂN BẢN NÀO ĐÃ TẠO CHO HOA KỲ

THÀNH MỘT QUỐC GIA ĐỨNG HÀNG ĐẦU VỀ KỸ NGHỆ.

Việc phát triển kỹ nghệ ở Hoa Kỳ khởi đầu vào khi cuộc cách mạng kỹ nghệ bùng nổ ở Anh Quốc, và lan tràn tới Hoa Kỳ vào cuối thể kỷ thứ XVIII, (chương 14). Hẳn các bạn còn nhớ rằng lúc bấy giờ người ta đã phát minh ra những máy móc chạy bằng thủy lục mà thời thuộc địa người ta còn làm bằng tay. Nhiều nhà máy kỹ nghệ được thiết lập, đặc biệt nhất là ở miền Đông Bắc, và các nông dân từ các nông trại ở các vùng kế cận cũng như những người từ Châu Âu mới di cư tới đổ xô đến làm việc ở các thành phố Kỹ nghệ.

Vào khoảng giữa thế kỷ thứ XIX, người ta đã bắt đầu xử dụng hơi nước thay cho sức nước để chạy các máy móc. Những phát minh mới, việc lập thêm các cơ sở xí nghiệp và việc mở rộng hệ thống hỏa xa, tất cả đã làm cho kỷ nghệ tiếp tục bành trướng. Hơn nữa, như chúng ta đã đọc ở chương XX , nhu cầu đòi hỏi đủ mọi thứ vật liệu chiến tranh trong thời nội chiến lại càng đẩy mạnh mức độ sản xuất.



tải về 1.69 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4   5   6   7   8   9   ...   25




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương