ĐỀ CƯƠng môn nấm và BỆnh do nấm gây ra



tải về 0.49 Mb.
trang5/7
Chuyển đổi dữ liệu16.09.2017
Kích0.49 Mb.
#33264
1   2   3   4   5   6   7

b. Truyền nhiễm học

- Trong thiên nhiên Candida gây bệnh cho hầu hết các loại gia súc và người.

- Căn bệnh phân bố rộng rãi trong, có thể tìm thấy tế bào nằm trong đất, rơm, rạ, phân, chất độn chuồng. Trong chất bài xuất của con vật ốm.

- Nguồn truyền lây trực tiếp là gia cầm và trứng gia cầm.

- Trong những nguyên nhân làm bệnh phát sinh là sức đề kháng cơ thể yếu.

- Vitamin A có ý nghĩa giúp niêm mạc chống đỡ sự xâm nhập của tế bào Nấm.

- Dùng các loại kháng sinh như Biomicine, Tetracycline, Penicillin có khả năng kích thích tế bào Nấm phát triển

- Nấm Candida không gây bệnh trên niêm mạc lành. Tế bào chỉ nảy sinh ở nơi tổn thương, gây hoại tử niêm mạc, làm bỏng các tế bào thượng bì, gây thẩm dịch và phù các tổ chức dưới niêm mạc. Sau đó theo máu vào lâm ba đến các cơ quan thực thể. Làm xuất hiện các bệnh tích hạt trong gan, tim, thận. Phá hoại cơ năng tuần hoàn, thần kinh. Gây nhiễm trùng huyết làm cho vật chết



c. Triệu chứng

c.1. Thể cấp tính

- Thể này thời gian nung bệnh trong vòng 3 ngày.

- Chỉ xuất hiện ở loại gia cầm con từ 5-10 ngày tuổi.

- Đầu tiên chỉ vài con sau lan ra cả đàn.

- Gà ủ rũ, biếng ăn, ỉa chảy.

- Giai đoạn cuối con bệnh có thể bị liệt chân, sau đó chết.



c.2. Thể á cấp tính

- Thể này kéo dài trong vòng 3-15 ngày, chủ yếu ở loại gà 10-45 ngày tuổi.

- Dấu hiệu đầu tiên xuất hiện những đốm trắng trên niêm mạc miêng, hầu, họng, dần dần phát triển thành màng giả lan khắp niêm mạc. Niêm mạc bóc ra để lộ những vết loét màu đỏ, sau chuyển sang màu vàng. Giai đoạn này con vật ủ rũ, kém ăn, sau vài ngày ỉa chảy cánh liệt, mồm há, dần dần con vật kiệt sức chết.

- Bệnh ở gà từ 1-3 tháng ít chết và thường chuyển sang thể mãn tính. Thông thường chỉ thấy con vật chậm lớn, nhẹ cân, chúng trở thành nguồn bệnh truyền nhiễm.



d. Bệnh tích

- Bệnh tích điển hình tập trung ở niêm mạc đường tiêu hoá. Xoang miệng chứa nhiều niêm dịch màu trắng đục. Lưỡi, hầu lốm đốm những chấm trắng xen lẫn với niêm dịch nhầy màu trắng sữa hay trắng xám.

- Bệnh nặng, xuất hiện màng giả màu trắng đục che phủ niêm mạc đường tiêu hoá, nếu bóc đi lộ vết loét khá sâu.

- Niêm mạc diều phủ nhiều niêm dịch màu trắng sữa, dưới là những điểm trắng rãi rác khắp xen kẽ với những điểm xuất huyết. - ---- Bệnh lan đến túi hơi làm vì túi hơi, lan đến dạ dày và ruột làm cho dạ dày, ruột chứa nhiều dịch nhờn màu trắng, đôi chỗ có tụ máu xuất huyết.

- Trên gan, thận, tim, màng não, thấy những chấm trắng có đường kính từ 1-2mm, đối chỗ xuất huyết. Kiểm tra tổ chức học các ổ bệnh tích sẽ thấy sợi nấm, các tế bào tổ chức bị phá huỷ. Các tổ chức bị thoái hoá đôi chỗ thấy hoại tử.

e. Chẩn đoán bệnh

- Bệnh Nấm Candida biểu hiện dễ nhầm với bệnh thiếu Vitamin A, bệnh á gà thể yết hầu. Vì vậy cần phải kiểm tra bằng phương pháp soi tiêu bản, phết kính bệnh tích màng giả, niêm mạc hay các ổ hoại tử từ phủ tạng:

- Làm sạch tiêu bản bằng cách ngâm xút 10% hay Lactofenol từ 15 - 20phút.

+ Nhuộm Gram, Giemsa hay xanh Cotol.

- Trường hợp cần thiết có thể nuôi cấy phân lập hay tiêm truyền động vật thí nghiệm.

g. Phòng trị

- Phòng bệnh Nấm chủ yếu dựa vào sức đề kháng của con vật. Trong đó, điều kiện nuôi dưỡng, khẩu phần thức ăn có ý nghĩa quan trọng. Thành phần thức ăn đặc biệt là đạm, vitamin và nguyên tố vi lượng, có vai trò nâng cao khả năng chống bệnh của niêm mạc.

- Vệ sinh chuồng trại tốt có tác dụng phòng bệnh tốt.

- Ở những nơi thường xuyên có bệnh, phải chủ động phòng bệnh bằng thuốc.

- Gia cầm từ 5 ngày tuổi có thể trộn Nistatin vào thức ăn với liều từ 50-100.000 đơn vị cho 1kg thể trọng.

- Khi bệnh xảy ra phải cách ly tiêu độc, sát trùng bằng dung dịch Formol 2%, xút 1%.

- Có thể dội rữa máng ăn bằng xút nóng 2%. Sau 30 phút dội lại bằng nước sạch rồi đem phơi nắng.

h. Điều trị

- Những con bị nặng thìphải loại thải, phân đàn, cách ly những con bị nhẹ, điều trị bằng các loại thuốc sau: Fungicidin, Micostatin, Candicidin, Trycomicine.

- Có thể điều trị bằng Mistatin với liều 300-600.000 đơn vị cho 1kg trọng lượng. Thuốc hoà vào sữa chua cho ăn ngày 2 lần, ăn trong 10 ngày. Sữa chua có tác dụng hồi phục sự hoạt động của các Vi khuẩn có ích trong đường tiêu hóa.

- Trường hợp bệnh có nguy cơ kế phát các bệnh khác thìdùng thêm các loại kháng sinh mạnh.

- Cần bổ sung các loại Vitamin vào thức ăn, để tăng sức đề kháng của niêm mạc.

- Đồng thời dùng dung dịch Sunfat đồng 1/200, Iodure kali 0,8% cho uống, thuốc tím 1% để bôi.



B. BỆNH NẤM Ở CHÓ VÀ MÈO

I. BỆNH VIÊM MIỆNG DO NẤM (Mycotic Stomatitis)

- Là một bệnh nhiễm trùng của xoang miệng, bệnh này không phổ biến lắm.



a. Nguyên Nhân:

- Nguyên nhân gây bệnh là do nấm men Candida albicans. Bệnh thường xảy ra ở chó, mèo non hoặc những con lớn tuổi. Những điều kiện khác thường là do dùng kháng sinh kéo dài, cơ thể suy giảm miễn dịch, suy nhược, làm biến đổi hệ vi khuẩn trong xoang miệng là những điều kiện cho nấm phát sinh bệnh.



b. Triệu Chứng:

+ Bệnh biểu hiện đặc trưng bởi những vây trắng, hay màng giả trên niêm mạc miệng hay lưỡi, đôi khi lan cả đến môi, bệnh tích thường nổi lên với sự sung huyết ở xung quanh và bên ngoài, còn ở trong thìloét, những bệnh tích nà có thể lan tràn đến hầu hoặc thực quản. Bệnh làm cho con vật đau. Có thể phân lập định danh nấm C.albicans từ những bệnh tích.



c. Điều Trị:

+ Nên phân biệt với những bệnh gây viêm loét khác. Các thuốc có thể dùng là:

+ Ketoconazole 10mg/kg, cho uống ngày 2 lần cho đến khi bệnh khỏi.

+ Bôi thuốc tím 1/3.000 trong nước ngày một lần.

+ Bôi dung dịch nystatin ngày 4 lần.

+ Cố gắng cho chó ăn thức ăn lỏng dễ tiêu để chó dễ nuốt, và bổ sung các vitamine A, B, C trong khẩu phần.



II. BỆNH DO NẤM ASPERGILLUS Ở CHÓ ( Aspergillosis)

- Bệnh do nấm Aspergillus ở chó đã thấy khắp thế giới. Hai dạng phổ biến của bệnh là bệnh toàn thân và bệnh khu trú ở xoang mũi



a. Nguyên Nhân:

Aspergillus fumigatus là thường thấy nhất, kế đó là A. niger, A.flavus còn A.nidulans thìít thấy hơn. Aspergillus fumigatus sinh ra độc tố gây tan máu và độc tố gây hoại tử da. Bào tử tồn tại trong không khí nên dễ dàng được chó hút vào. Bệnh nấm dạng xoang mũi thường thấy ở chó trẻ và trưởng thành. Những yếu tố sau đây có thể là điều kiện tốt cho bệnh xảy ra bao gồm tổn thương mũi, giảm sức đề kháng của dịch nhày mũi, các tổn thương do vi trùng, virus, ký sinh trùng hoặc do tán bào. Con đường chính gây bệnh là do hít phải nấm.



b. Triệu Chứng:

- Bệnh này có thể thấy một trong hai dạng.

- Bệnh khu trú ở mũi: đặc trưng của bệnh là đau và có dịch tiết mũi lẫn với máy, thấy cả hai bên hay một bên, thỉnh thoảng có thể thấy chảy máu cam và loét quanh mũi, hiếm thấy các triệu chứng thần kinh.

- Dạng toàn thân: bệnh phát triển âm ỉ, nhưng con vật thường bệnh nặng, và thường thấy biểu lộ đau cột sống, liệt nhẹ, hoặc liệt các chân sau, chó bỏ ăn, sụt cân, suy nhược. Dạng này bệnh thường có tiên lượng xấu. Nấm có thể gây tắt xoang mũi, chất tiết cùng với nấm có thể đóng thành khối



c. Điều Trị:

- Dạng khu trú tại mũi ta có thể dùng enilconazole nhũ tương bôi vào mũi 10 mg/ngày trong 7-10 ngày.

- Bệnh toàn thân: dùng ketoconazole 5-10 mg/kg ngày uống hai lần, uống trong 6-8 tuần. Thuốc có thể gây một số phản ứng như xáo trộn đường ruột, độc cho gan, rụng lông.

- Ngoài ra ta còn có thể sử dụng thuốc thiabendazole 10-20 mg, fluconazole 2,5-5 mg.



III. BỆNH DO NẤM BLASTOMYSES (Blastomycosis)

- Bệnh thường thấy ở dạng phổi, xảy ra như là bệnh dịch địa phương nhiều nơi trên thế giới.



a. Nguyên Nhân:

- Bệnh do Blastomyces dermatitidis, là một loại nấm lưỡng hình mà nó phát triển trong mô giống như nấm men, nấm cũng có thể sống hoại sinh trong đất. Sự truyền bệnh từ cho qua chó và từ chó qua người vẫn chưa được biết rõ. Chó mắc bệnh phổ biến là do hít phải bào tử nấm



b. Triệu Chứng:

- Bệnh có thể thể hiện ba dạng: dạng bệnh ở phổi do hít phải bào tử; dạng bệnh phát tán ra từ sự nhiễm trùng ở phổi và dạng bệnh ở da.

- Khi các bào tử được hít vào thìnó đọng trong các phế nang và bị thực bào, chính ở các đại thực bào này nấm nhân lên. Các nấm này làm vở các đại thực bào ra và tiếp tục phân chia trong phổi và gây viêm phổi. Sự đáp ứng miễn dịch có thể làm giới hạn sự lan tràn nhiễm trùng đến các hạch lam ba khác hoặc gieo rắc bằng con đường bạch huyết hay đường máu, sự đáp ứng miễn dịch cũng giới hạn bệnh, không cho bệnh lan tràn đến những cơ quan khác (da, mắt, thần kinh trung ương, tim, khớp…).

- Dạng bệnh ở phổi có khi khó nhận ra, hoặc có thể thấy các triệu chứng như biếng ăn, sụt cân, sốt, ho và thỉnh thoảng thở khó. Khi bệnh lan rộng ra thìthấy triệu chứng toàn thân rõ hơn và thường phổi là ảnh hưởng nhiều nhất. Dạng da thìthấy hình thành những nốt với lỗ dò, viêm hạch lan tràn và bệnh ở mắt như viêm màng mạch nho, glaucom, tróc võng mạc, bệnh cũng tác hại lên xương nhất là các xương dài làm cho con vật bại.Hệ niệu sinh dục và thần kinh trung ương thìít thấy ảnh hưởng.



c. Điều Trị:

- Có thể dùng một trong các loại thuốc sau đây:

+ Amphotericin B 0,5 mg/ngày tiêm mạch ba lần trong tuần.

+ Ketoconazole 10-30 mg/kg/ngày cho uống mỗi 12 giờ một lần.

+ Itraconazole 10 mg/kg/ngày cho uống ngày một lần.

+ Na iodide (20%) 44 mg/kg/ngày cho uống mỗi tám giờ một lần.

+ Có thể dùng amphotericin B chung với ketoconazole hoặc itraconazole.

IV. BỆNH DO NẤM HISPOPLASMA (Histoplasmosis)

- Bệnh đã thấy nhiều nơi ở vùng nhiệt đới và ôn đới trên thế giới, có thể xay ra như một bệnh dịch địa phương. Bệnh thường tác hại trên phổi hoặc một số cơ quan nội tạng khác.



a. Nguyên nhân:

- Bệnh gây ra bởi Histoplasma capsulatum, là loại nấm lưỡng hình, chúng có thể mọc trên mô giống như nấm men, ngoài ra chúng cũng có thể sống hoại sinh trong đất nơi có nhiều phân chim và dơi. Khi chó hít phải bào tử thìbệnh sẽ phát sinh ở phổi. Ngoài ra bệnh cũng có thể phát sinh do vi sinh vật xâm nhập vào đường ruột.



b. Triệu Chứng:

- Khi được hít vào phổi, các bào tử nấm vào trong các phế nang nơi đây các bào tử nhân lên như nấm men, rồi lan rộng ra các hạch lam ba lân cận, sau đó phát tán rộng ra. Bệnh khởi phát từ đường ruột thìthường không lan đến phổi. Chó thường bị suy chức năng đường ruột, sụt cân, phân có nhiều nước, mất protein, đôi khi còn thấy gan to, lách to, vàng da và tích nước xoang bụng. Khi bệnh xâm nhập đến phổi thìthấy ho, thở khó, và nghe tiếng ran bất thường của phổi.



c. Điều Trị:

- Dùng Amphotericin B với liều 0,5 mg/kg, tiêm mạch ngày một lần, có thể dùng chung với ketoconazole hoặc với itraconazole.



V. BỆNH NẤM DA (Dermatophytosis, Ringworm)

- Nấm da ở chó thường tác hại lên trên lớp cạn như da, lông, móng. Bệnh nấm da ở chó đã thấy xuất hiện hầu khắp thế giới. Bệnh có thể lây cho người.



a. Nguyên Nhân:

- Bệnh nấm ở cho thường do các loài Microsporum gypseum, Microsporum canis. Trichophyton metagrophyte gây ra. Còn ở mèo thìmầm bệnh chính do Microsporum canis.



b. Triệu Chứng:

- Những bệnh tích trên chó tuỳ thuộc vào loại nấm nhiễm.

- Bệnh thường xảy ra những mảng rụng lông (gãy lông) hình tròn hay hình bầu dục, da nổi lên ban đỏ rồi hình thành vẫy. Những vòng này gò lên, có bờ rõ ràng, xung quanh lông như bị xén. Có khi bệnh chỉ hình thành những mụn mủ mà không có rụng lông hay đóng vẫy. Nấm lan tràn toàn thân ở chó thìkhông phổ biến

- Với mèo thìphổ biến thấy ở mèo con. Mèo bị nhiễm Microsporum canis thìthường không có triệu chứng hoặc chỉ thấy một mảng nhỏ rụng lông ở giữa là một vết vẫy nhỏ, hoặc có nhiều nốt vẫy. Các bệnh tích này thường thấy ở vòng quanh tai, mặt, đôi khi các bệnh tích này chỉ là những mảng lông rụng mờ nhạt ở tai hay mặt.



c. Điều Trị:

- Có thể trị tại chỗ hay trị toàn thân.

- Cắt lông xung quanh bệnh tích, rửa hay làm sạch chỗ bệnh

- Dùng một trong các loại thuốc như.

+ Miconazole 2% bôi ngày hai lần.

+ Ketoconazole dạng kem 2% bôi ngày 2 lần.

- Nếu bị nhiều thì dùng 0,5% nước vôi lưu huỳnh để rửa mỗi tuần hai lần.

- Grisefulvin (Gricun, Fugivin) 20 mg/kg/ngày uống trong 4 – 6 tuần.

- Ketoconazole 10 mg/kg, ngày uống hai lần.

C. BỆNH NẤM Ở ĐỘNG VẬT THỦY SẢN.

I. Bệnh nấm Ichthyophonosis

1. Tác nhân gây bệnh

Tác nhân gây bệnh là giống nấm hạt Ichthyophonus spp. Thường gặp các loài Ichthyophonus hoferi và Ich. irregularis. Đây là giống nấm nội ký sinhh trên một số cơ quan nội tạng của cá như gan, tim, lá lách, cơ qua sinh dục của cá..



2. Phân bố và lan truyền bệnh

Nấm hạt Ichthyophonus hoferi nội ký sinh ở hơn 80 loài cá biển khác nhau, như cá hồi, cá trích (Clupea harengus). Nấm Ich. irregularis ký sinh ở cá bơn vây vàng (Limanda ferruginea



3. Dấu hiệu bệnh lý

Dấu hiệu bên ngoài có thể xuất hiện các vết loét, nhỏ, sâu trên thân. Nấm nội ký sinh là chủ yếu, khi giải phẫu các cơ quan nội tạng tim, gan, thận, lá lách và buồng trứng có các đốm trắng nhỏ. Khi cắt mô thấy rõ sự tồn tại của nấm hạt trong các tổ chức



4. Chẩn đoán bệnh

Có thể chẩn đoán bệnh bằng một số phương pháp như sau: Dựa vào dấu hiệu bệnh lý để chẩn đoán sơ bộ. Để chẩn đoán chính xác cần áp dụng phương pháp mô bệnh học, hay nuôi cấy phân lập nấm bằng môi trường Eagle's Minimum Essential Medium (MEM) hoặc môi trường Leibovitz L-15. Cả hai môi trường cũng cần bổ sung penicillin, streptomycin và gentamycin để kìm hãm sự phát triển của vi khuẩn có trong bệnh phẩm. Nuôi cấy ở nhiệt độ ≤15oC thời gian từ 7-10 ngày, sau đó kiểm tra nấm Ichthyophonus dưới kính hiển vi ở độ phóng đại 400 lần.



5. Phòng trị bệnh

- Chưa có các biện pháp phòng trị bệnh.



II. Hội chứng lở loét ở cá (The Epizootic Ulcerative Syndrome of físh-EUS)

- EUS là tên gọi của một bệnh nguy hiểm đã lan nhanh và gây tác hại lên cá nuôi và cá tự nhiên ở nhiều quốc gia trong khu vực châu Á Thái Bình Dương



1. Tác nhân gây bệnh

- Từ các mẫu cá bị bệnh lở loét, đã phát hiện ra nhiều loại tác nhân gây bệnh:

- Đã phát hiện ra sự có mặt của virus dạng hình que, có acid nucleic là ARN có tên là Rhabdovirus ở gan cá lóc, cá trê (Wattana vijarn, 984), hoặc cũng phân lập được Binavirus từ cá bống tượng và cá lóc (Hedrick, 1986). Tuy vậy các tác giả chỉ gặp các virus này ở giai đoạn sớm của bệnh, các giai đoạn sau không gặp và người ta cho rằng virus chỉ có thể làm giảm sức đề kháng của cá để các loại tác nhân sinh vật khác xâm nhập gây ra EUS

- Đã phân lập từ cá bệnh một số loài vi khuẩn quen thuộc như Vibrrio annguillarum trên cá nước mặn và Aeromonas hydrrophila, pseudomonas sp trên cá nước ngọt bị EUS. Từ năm 1983, viện nghiên cứu thủy sản I (Việt Nam) đã phân lập từ cá lóc, cá tai tượng, cá sặt rằn, cá trắm cỏ, cá trê, cá rô đồng, cá bống cát, cá ba sa, cá he, cá mè vinh bị bệnh lở loét và cũng đã gặp các vi khuẩn như trên, đặc biệt là Aeromonas hydrophila.

- Các loại ký sinh trùng như Monogenea, Protozoa, Crustacae cũng có thể tìm thấy trên cơ thể cá bị bệnh EUS. Những ký sinh trùng này có thể vừa là tác nhân cơ hội, vừa là tác nhân gây thương tổn tạo điều kiện cho các tác nhân khác cùng cảm nhiễm và gây tác hại.

- Một số giống nấm bậc thấp như Aphanomyces spp, Saprolegnia. spp và Achlya... cũng được tìm thấy trên cơ thể cá bị bệnh EUS. - Tuy vậy, việc xác định tác nhân chính gây ra hiện tượng hoại tử nghiêm trọng trên cơ thể cá đã được thảo luận trong nhiều hội thảo khoa học trong suốt gần 30 năm.

- Nấm được coi là nguyên nhân chính để tạo ra hiện tượng hoại tử của EUS. Tác nhân chủ yếu là loài nấm bậc thấp Aphanomyces invadans. Khi gặp điều kiện thuận lợi, nấm này đã tấn công vào mô cơ của các loài cá nhạy cảm, di chuyển về hướng thần kinh trung tâm và sau đó xâm nhập khắp cơ thể. Nấm này tiết ra enzym phân hủy protein (proteolytic), để gây hoại tử mô cơ và các mô khác. Hatai (1980) đã phân lập được chủng nấm Aphanomyces piscicida trên cá bị bệnh lở loét ở Nhật Bản. Nấm Aphanomyces sp được phân lập từ cá bệnh lở loét ở châu Á và Úc (Callinan, 1995; Lilley, 1997; Lilley và Roberts, 1997; Lilley và

- Như vậy EUS là bệnh do hỗn hợp nhiều tác nhân gây ra, nhưng trong dó nấm Aphanomyces invadans là tác nhân chính gây ra những thương tổn nặng nề trong cơ thể cá bênh, còn các tác nhân khác có thể là những nguyên nhân đầu tiên (virus, ký sinh trùng) và nguyên nhân thứ cấp (vi khuẩn)

2. Dấu hiệu bệnh lý của bệnh lở loét

- Những dấu hiệu đầu tiên là cá ít ăn hoặc bỏ ăn, hoạt động chậm chạp, khi bơi thường nhô cao cái đầu lên bị hoại tử lên trên mặt nước. Da cá sẫm lại, có vết mòn màu xám hoặc các đốm đỏ phát triển ở đầu, thân, các vây và đuôi. Những vết mòn dần dần lan rộng và sâu thành những vết loét, vẩy rụng, xuất huyết và viêm. Những con cá bệnh nặng, các vết loét lõm sâu tới xương, làm phần cơ hai bên cơ thể bị hoại tử và để lộ ra những nội quan của cá. Giải phẫu các cơ quan nội tạng cho thấy tính trạng rất Bình thường, hầu như bệnh EUS không thể hiện dấu hiệu biến đổi bên trong nội tạng. Bệnh có thể gây chết dữ dội ở một số loài cá có tính nhạy cảm cao với loại EUS.

- Tại các vết loét lớn, vùng trung tâm vết loét có màu xám, các mép xung quanh có màu đen. Tai trung tâm của vết loét, thường là vị trí phát triển thích hợp của các giống nấm bậc thấp. Tuy vậy, các dấu hiệu chính của EUS ở các loài cá khác nhau cũng có sự khác biệt. Dựa vào dấu hiệu bệnh, EUS có thể được chia ra các dạng khác nhau:

+ Cá bị nhiễm EUS nhưng sức đề kháng của cơ thể rất thấp, hoặc bị cảm nhiễm nhiều loại tác nhân thứ cấp, nên cá chết nhanh và tỷ lệ chết rất cao.

+ Cá bị nhiễm cấp tính và có thêm sự cảm nhiễm của các tác nhân thứ cấp, làm cá chết nhanh chóng với tỷ lệ cảm nhiễm cao.

++ Sự cảm nhiễm diễn ra chậm với sức đề kháng của ký chủ cao, nếu bị cảm nhiễm thêm tác nhân cơ hội cũng có thể gây chất lác đác.

++ Bệnh ở dạng mãn tính với ký chủ có khả năng đề kháng vừa đủ, để có khả năng phục hồi, trừ trường hợp có sự cảm nhiễm cơ hội.

++ Ký chủ có sức đề kháng cao với sự nhiễm bệnh tự nhiên. Các loài cá này có khả năng trung hòa cao với độc lực của nấm, nên hầu hết cá bị bệnh đều có khả năng phục hồi và khỏi bệnh.



3. Đặc điểm phân bố và lan truyền

a. Đặc điểm phân bố của EUS

- EUS ảnh hưởng đến các loài cá vùng nước ấm, ngọt và lợ. Rất nhiều loài cá khác nhau đã chịu ảnh hưởng của loại bệnh này. Theo Liley1998, có khoảng 50 loài cá khác nhau bị ảnh hưởng của EUS. Nhưng theo Frerich,1988 cho biết có trên 110 loài cá bị nhiễm bệnh lở loét, trong đó một số có tính nhạy cảm cao như: Giống cá lóc(cá quả)- Ophiocephalus spp, đặc biệt là cá lóc đen (Ophiocephalus striatus); cá trôi (Cirrhina mrigala); các loài cá trê (Clarias spp); ở cá nước lợ có loài cá đối (Mugil cephalus) và cá diếc (Carassius auratus

- Bệnh EUS được thông báo lần đàu tiên tại Úc vào tháng 3/1972, sau đó bệnh lây lan rất nhanh sang nhiều quốc gia khác nhau ở khu vực Đông Nam và Nam châu Á. Đến năm 1985, rất nhiều quốc gia trong khu vực đã có thông báo về bệnh này: Malaysia, Indonesia, Thailan, Philippine, lào, Campuchian, Srilanca, Bangladesh, Ấn độ, Pakistan và Việt nam.

Tại Việt nam, bệnh EUS đã xuất hiện rất sớm trên một số loài cá lóc, cá trê nuôi tại An Giang, Đồng Tháp từ các năm 1972- 1973. Bệnh gây ảnh hưởng đến sản lượng cá trê tự nhiên sau nhiều năm , đặc biệt là cá trê trắng có nguy cơ diệt chủng. Tuy vậy, ngành thuỷ sản chưa quan tâm, nghiên cứu nên không có số liệu cụ thể .

- Năm 1981, dịch bệnh đã xuất hiện ở cá nuôi và cá tự nhiên của Nghệ An và Hà Tĩnh. Huế, Quảng Trị. Bệnh nặng nhất ở một số cá như cá lóc (Ophiocephalus striatus), cá rô đồng (Anabas testudineus), lươn (Fluta alba), chạch sông (Mastacembeluss sp); cá đối (Mugil spp). Từ đó bệnh phát triển lây lan khắp các tỉnh khác nhau trong cả nước. Đến 1990, cá nuôi và cá tự nhiên ở hầu hết các địa phương khác nhau của việt nam đều chịu tác hại của dịch bệnh này

- Cuối năm 1983 bệnh lở loét đã bùng nổ thành dịch lan rộng khắp các vùng sông Tiền, sông Hậu và các kênh rạch của hầu hết vùng đồng bằng sông Cửu Long, vùng sông Vàm cỏ Tây, Vàm cỏ Đông và sông Đồng Nai, sông Sài Gòn. Khi dánh bắt cá trên các sông, thấy tỷ lệ nhiễm bệnh từ 60 - 70%. Riêng sản lượng cá lóc giảm 20 - 30%. Các loài cá nhiễm bệnh lở loét cao nhất là cá lóc, cá trê, rô đồng, sặc rằn



b. Đặc điểm lây lan của bệnh

- Bệnh được lan truyền chủ yếu theo dòng nước và sự di chuyển của cá mang mầm bệnh. Mặc dù nấm Aphanomyces invadans là tác nhân cần thiết của EUS và nó tồn tạ trong hầu hết các mẫu cá bị bệnh lở loét, nhưng nấm này muốn xâm nhập được cần có các vết thương tổn trên cơ thể do tác nhân cơ học hay do ký sinh trùng.

4. Chẩn đoán bệnh

- Dựa vào các dấu hiệu bệnh lý như đã mô tả ở phần trên, đặc biệt lưu ý, cá bị bệnh EUS có các cơ quan nội tạng Bình thường, hầu như không biến đổi đó là sự khác nhau rất cơ bản giữa bệnh EUS và các bệnh xuất huyết lở loét do vi khuẩn và virus. Tuy nhiên, các dấu hiệu bên ngoài có thể bị nhầm lẫn với bệnh khác. Do vậy, việc xác định sự có mặt của nấm Aphanomyces invadans trong các mô cơ bị hoại tử mới là căn cứ để chẩn đoán chính xác

- Kiểm tra nhanh mẫu mô cũng là phương pháp có thể dùng để chẩn đoán bệnh này. Lấy mẫu mô tại các vết thương tổn, ép tươi để quan sát dưới kính hiển vi có độ phóng đại thấp, để phát hiện các khuẩn ty của nấm. Cũng có thể dùng một lát cắt rất mỏng của cơ bị thương tổn, ép giữa 2 tấm kính, quan sát bằng kính hiển vi ở độ phóng đại thấp.

- Dùng phương pháp mô bệnh học để quan sát các lát cắt mô có nhuộn H và E để phát hiện sự biến đổi của tổ chức mô. Ở thời kỳ sớm của bệnh, thể hiện các vùng mô viêm nhưng không thấy sự hiển diện của nấm. Sự hiển diện của các khuẩn ty nấm chỉ phát hiện thấy trong các mô cơ bị thương tổn nặng, thường đâm xuyên qua cơ vân, tăng cường sự viêm và hoại tử. Các vết thương tổn sẽ phát triển theo tiến trình từ viêm mãn tính đến phát triển lan tỏa và viêm họa tử với sự thoái hóa của cơ phát triển trong mô cơ và các tổ chức khác của cá bị bệnh.

- Dùng phương pháp phân lập nấm trên môi trường Czapec Dox agar (CDA) có bổ sung kháng sinh để kìm hãm sự phát triển của vi khuẩn. Để lấy bệnh phẩm từ cá bệnh, cần dùng 1 dụng cụ kim loại nóng đỏ, áp lên vùng mô thương tổn để tiệt trùng bề mặt. Dùng lưỡi dao đã vô trùng cắt phía dưới của lớp đã tiệt trùng, lấy ra 1 khối mô có thể tích khoảng 2mm3(chú ý cẩn thận để dụng cụ không động đến mặt ngoài và động đến vùng cơ bị hỏng). Đặt khối mô này vào hộp lồng chứa môi trường nuôi cấy, để ở nhiệt độ phòng và kiểm tra hàng ngày

- Khi nấm đã phát triển, cần chuyển ngay phần đầu mút các khuẩn ty vào một đĩa lồng khác có môi trường (CDA). Có thể phân loại nấm dựa trên trên đặc điểm khuẩn ty, khuẩn lạc và sự hình thành cơ quan sinh sản và tạo bào tử. Để xác định kết quả phân lập là A. invadans, cũng có thể thực hiện như sau: tiêm 0,1ml dịch huyền phù chứa các bào tử động của nấm đã phân lập được vào loài cá nhậy cảm nhất với EUS, ở 200C và xác định mô học để phát hiện sự tồn tại của hệ sơi nấm có đường kính 12-30m, và các thể hạt trong mô cá sau 14 ngày.



5. Phòng và trị bệnh.

- Phòng và trị bệnh EUS cho quần đàn cá tự nhiên đã được xác định là không thể thực hiện được. Trong nghề nuôi cá, việc lựa chọn để nuôi các loài cá có khả năng kháng với bệnh EUS cao là biện pháp hiệu quả nhất để quản lý bệnh. Ngoài ra, các biện pháp ngăn chặn sự xâm nhập của nấm vào ao nuôi cũng là biện pháp phòng bệnh tốt:

+ Phơi khô đáy ao và dùng vôi nung (CaO) để tẩy dọn ao trước mỗi vụ nuôi là một thao tác cần thiết. Tiêu diệt cá tạp và cá hoang dã trong ao để giảm mầm bệnh.

+ Trong quá trình nuôi, thường xuyên rắc vôi nung (CaO) với nồng độ 20 ppm (2 kg vôi nung/ 100m3 nước), hai tuần rắc một lần. Vôi có tác dụng khử trùng rất tốt, đồng thời cung cấp nguồn Ca++ cho thuỷ vực và có thể khử chua cho các vùng đất chua phèn. Hoặc thay thế vôi bằng chlorine Ca(OCl2)2 với liều lượng 1ppm

+ Đàn cá giống trước khi thả cần được tắm bằng NaCl 2-3% trong 5-15 phút để tẩy trùng các tác nhân gây bệnh bên ngoài. Tránh các thương tổn do tác động cơ học trên cơ thể cá.

+ Các nguồn nước cấp cho ao phải khử trùng, duy trì môi trường nuôi có chất lượng tốt.

+ Vào mùa bệnh, với các đối tượng nuôi có tính nhạy cảm cao với EUS, nên bổ sung thành phần vitamin C vào thức ăn cho cá, để tăng khả năng đề kháng của cá trước sự tấn công của tác nhân gây bệnh.

+ Các ao đ́a nuôi cá đã bị nhiễm bệnh cần cách ly và tiệt trùng nước ao trước khi xả bỏ ra môi trường để tránh sự lây lan




tải về 0.49 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4   5   6   7




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương