RỦI RO VỀ KINH TẾ
Các chỉ số kinh tế vĩ mô chính thường được sử dụng để đánh giá sự phát triển của nền kinh tế một quốc gia bao gồm tốc độ tăng trưởng GDP, lạm phát, lãi suất, tỷ giá hối đoái,v.v... Sự biến động của các yếu tố này thường mang tính tác động hệ thống tới đa số các chủ thể tham gia vào nền kinh tế.
Tốc độ tăng trưởng kinh tế
Những năm trở lại đây, Việt Nam có tốc độ tăng trưởng kinh tế khá cao và ổn định. Giai đoạn 2003-2007, tốc độ tăng trưởng GDP trung bình đạt 8,01%. Năm 20081, do ảnh hưởng chung từ cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới, tốc độ tăng trưởng GDP của Việt Nam chỉ đạt 6,23%. Mặc dù nền kinh tế đang có dấu hiệu phục hồi trong năm 2009, nhưng xét trên góc độ tổng thể, kinh tế Việt Nam còn đối mặt với rất nhiều khó khăn. Vì vậy, việc xây dựng chiến lược và kế hoạch kinh doanh trong giai đoạn này đối với các doanh nghiệp thực sự là bài toán không đơn giản.
Lãi suất
Từ năm 2008 trở lại đây, tình hình lãi suất của Việt Nam diễn ra rất phức tạp với hàng loạt điều chỉnh. Việc nới lỏng chính sách tiền tệ, nhất là cơ chế hỗ trợ lãi suất trong 10 tháng đầu năm 2009 nhằm mục tiêu kích cầu đã đem lại những kết quả nhất định cho sự phục hồi của nền kinh tế. Tuy nhiên, với dấu hiệu của lạm phát trong những tháng gần đây, ngày 25/11/2009, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã thông báo tăng lãi suất cơ bản bằng đồng Việt Nam lên mức 8%/năm, áp dụng từ ngày 01/12/2009. Quyết định điều chỉnh lãi suất nói trên được đánh giá như động thái thắt chặt tiền tệ, nhằm mục tiêu góp phần duy trì sự ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, chủ động đối phó với diễn biến phức tạp của thị trường tài chính và kinh tế thế giới. Vì vậy, sự biến động của lãi suất vẫn được xem là những rủi ro không nhỏ trong kế hoạch kinh doanh của VIS trong thời gian tới.
Lạm phát
Những số liệu được công bố cho biết, trong 4 năm từ 2005 đến 2008, lạm phát danh nghĩa tương ứng cho các năm là 2005: 8,4%; 2006: 6,6%; 2007: 12,6%; 2008: 19,89%.2 Theo báo cáo của Tổng cục thống kê, chỉ số giá tiêu dùng tháng 09 năm 2009 tăng 0,69% so với tháng 08 và tăng 7,64% so với cùng kỳ năm ngoái. Như vậy, tính từ đầu năm đến nay, đây là tháng chỉ số giá tăng cao thứ hai, sau mức tăng 1,17% của tháng 2/20093. Sự đột biến trong xu hướng tăng của CPI có nguyên nhân từ giá một số hàng hóa thiết yếu trên thị trường thế giới tăng trong chu kỳ tính chỉ số giá của tháng này. Hơn nữa, ở trong nước, một số nhân tố mới cũng tác động đến việc tăng tốc của CPI như việc tăng giá xăng dầu vào ngày 30/08/2008, giá phôi thép nhập khẩu tăng mạnh, giá gas bán lẻ được điều chỉnh tăng .... Việc chỉ số giá tiêu dùng tăng đột biến trong tháng 09 năm 2009 như vậy yêu cầu các doanh nghiệp cũng như VIS phải chủ động chuẩn bị các biện pháp cần thiết trong trường hợp lạm phát tiếp tục gia tăng vào những tháng cuối năm.
Tỷ giá hối đoái
Thực tế hiện nay, thị trường hối đoái Việt Nam vẫn thiếu các công cụ phòng chống rủi ro tỷ giá, vì vậy, các Doanh nghiệp rất dễ bị tổn thất khi tỷ giá biến động bất thường.
Riêng đối với VIS, do phần lớn nguyên vật liệu đầu vào (phôi thép) được nhập khẩu từ nước ngoài, nên rủi ro về tỷ giá hối đoái đối với các giao dịch nhập khẩu này là không thể tránh khỏi khi đồng Việt Nam liên tục mất giá so với các ngoại tệ chính như USD, EUR…. Ý thức được ảnh hưởng tiêu cực của biến động tỷ giá hối đoái đến giá nguyên vật liệu đầu vào và đến tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, VIS đã có những biện pháp chủ động hạn chế rủi ro này như lập kế hoạch chủ động cân đối nguồn ngoại tệ phục vụ cho việc nhập khẩu phôi thép; duy trì quan hệ uy tín với các Tổ chức tín dụng lớn để luôn đảm bảo nguồn vốn vay bằng ngoại tệ.
RỦI RO VỀ LUẬT PHÁP
Văn bản pháp lý cao nhất điều chỉnh hoạt động của Công ty là Luật doanh nghiệp 2005, Luật Chứng khoán số 70/2006/QH11 ngày 29 tháng 06 năm 2006 và các văn bản hướng dẫn dưới Luật. Tuy nhiên hệ thống luật pháp của Việt Nam đang trong quá trình xây dựng và hoàn thiện do đó các luật và văn bản dưới luật này sẽ có thể được chỉnh sửa cho phù hợp với sự phát triển của nền kinh tế. Những sự thay đổi này sẽ có thể gây ảnh hưởng nhất định đến hoạt động kinh doanh của Công ty.
RỦI RO CẠNH TRANH
Sự bùng nổ của hàng loạt dự án đầu tư của các đơn vị trong và ngoài nước trong lĩnh vực sản xuất và kinh doanh thép làm cho khả năng cung vượt cầu rất lớn. Đây là yếu tố có thể gây ra nhiều khó khăn cho ngành thép trong nước trong thời gian tới. Theo các thông tin công bố, lượng cung thép ra thị trường sẽ tiếp tục được tăng cao trong thời gian tới khi mà một số dự án nhà máy thép đã hoàn thành giai đoạn đầu tư và đưa vào hoạt động trong năm 2009 . Các dự án lớn có thể kể đến bao gồm:
-
Dự án
|
Công suất
|
Hoạt động
|
Nhà máy thép cán nguội POSCO - Việt Nam - Phú Mỹ - Bà Rịa Vũng Tàu
|
1.200.000 tấn/năm
|
09/2009
|
Nhà máy liên hợp gang thép giai đoạn 1 - Tập đoàn Hòa Phát
|
350.000 tấn/năm
|
09/2009
|
Nhà máy cán thép Xây dựng - Thép Việt - Phú Mỹ Bà Rịa Vũng Tàu
|
450.000 tấn/năm
|
05/2009
|
Tổng cộng
|
2.000.000 tấn/ năm
|
|
(Nguồn: KLS thu thập)
Trước sự cạnh tranh gay gắt này, VIS đã chủ động đầu tư đổi mới máy móc, tìm cách hạ giá giá thành, nâng cao chất lượng và mẫu mã sản phẩm để tạo được chỗ đứng vững chắc trên thị trường.
Chia sẻ với bạn bè của bạn: |