Trước hết, nâng cao chất lượng và mức độ phù hợp của các chương trình giáo dục nghề nghiệp
là điều cần thiết để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Những học sinh không lựa chọn tiếp tục học lên
bậc học sau phổ thông hoặc không thi đỗ vào các trường đại học có thể đi theo các chương trình
giáo dục nghề nghiệp sau khi tốt nghiệp trung học cơ sở và trung học phổ thông. Tuy nhiên, nhiều
chương trình giáo dục nghề nghiệp đã trở nên lỗi thời, thiết kế thời lượng quá ngắn hoặc không phù
hợp với nhu cầu của thị trường lao động.
Thứ hai, tỷ suất sinh lợi từ giáo dục đại học đối với cá nhân và xã hội đều cao ở Việt Nam, đó là
động lực để thúc đẩy đầu tư tư nhân cũng như đầu tư công vào giáo dục đại học (Patrinos, Thang
và Thanh 2018). Tuy vậy, bất chấp tỷ suất sinh lợi cao và tăng nhanh từ 13% trong năm học 1992-
93 (Moock, Patrinos và Venkataraman, 1998) lên 18-21% trong năm 2014
22
(Patrinos, Thang và
Thanh 2018), tỷ lệ đầu tư vào giáo dục đại học vẫn còn thấp, ảnh hưởng đến chất lượng và mức
độ phù hợp của các chương trình đào tạo. Những bất cập trong hệ thống giáo dục đại học bao gồm
thiếu giảng viên cơ hữu có trình độ tiến sĩ, lương thấp cho giảng viên, buộc nhiều giảng viên phải
đảm nhận khối lượng giảng dạy lớn tại nhiều trường, quy định hành chính nhiêu khê, không khuyến
khích phương pháp giảng dạy sáng tạo, không thường xuyên cập nhật chương trình học và giáo
trình đào tạo, cũng như thiếu linh hoạt trong việc lựa chọn chương trình học. Những cải cách gần
đây nhằm nâng cao tự chủ đại học đã dỡ bỏ một số quy định đối với các trường đại học, nhưng
mức độ tự chủ, đặc biệt là tự chủ về chuyên môn học thuật và nguồn nhân lực, vẫn còn hạn chế.
Thứ ba, đào tạo trong giáo dục đại học vẫn chưa gắn liền với nghiên cứu. Hoạt động nghiên cứu
và các hệ thống giáo dục đại học của Việt Nam hiện vẫn đang tách biệt, dẫn đến tăng chi phí
trong
khi chất lượng và hiệu quả lại giảm đi. Mặc dù phần lớn các nhà nghiên cứu có bằng tiến sĩ công
tác tại các sơ sở giáo dục đại học nhưng họ lại không nhận được nhiều nguồn tài trợ nghiên cứu từ
Chính phủ. Như đã nêu trong Báo cáo Việt Nam 2035 (Ngân hàng Thế giới và Chính phủ Việt Nam
2016), cùng với việc tiếp tục đạt được những bước tiến mới trong mục tiêu và nguyện vọng của
mình, Việt Nam cần thống nhất hệ thống nghiên cứu và giáo dục đại học.
Tăng cường vốn nhân lực của đất
nước nên bao gồm một cuộc đại cải
cách trong lĩnh vực giáo dục đại học,
tập trung vào (a) tăng cường quản trị
đại học và tự chủ về tổ chức và trách
nhiệm; (b) phân bổ hiệu quả ngân
sách nhà nước cho giáo dục và nghiên
cứu đại học, từ đó khuyến khích nâng
cao hiệu quả và kết quả thực hiện; và
(c) vận động sự tham gia của khu vực
tư nhân thông qua hình thức đối tác
công tư và tăng cường liên kết giữa
trường đại học và doanh nghiệp.
22
Demombynes và Testaverde (2018) ước tính tỷ suất sinh lợi từ giáo dục đại học là 66% trong năm 2014.
Vốn Nhân lực Việt Nam: Thành tựu Giáo dục và Thách thức trong Tương lai
Chia sẻ với bạn bè của bạn: