VIỆt nam phật giáo sử luận nguyễn Lang Nhà Xuất Bản Văn Học Hà Nội 1979 o0o Nguồn



tải về 5.52 Mb.
trang47/49
Chuyển đổi dữ liệu04.01.2018
Kích5.52 Mb.
#35590
1   ...   41   42   43   44   45   46   47   48   49


173 . Trương Hán Siêu người làng Phúc Am, huyện Yên Khánh, Ninh Bình, mất năm 1354

174 . Tài liệu Ðinh Gia Thuyết trong Ðuốc Tuệ số 50, ra ngày 24.11.1935, Hà Nội.

175 . Có lẽ nên đặt Lê Quý Ðôn lên cùng thế hệ với Ngô Thì Sĩ (N.H.C.)

176 . Kinh Thư: “Làm lành thì được trăm việc lành, làm ác thì chịu trăm việc tai ương” (tác thiện giáng chỉ bác tường, tác bất thiện giáng chỉ bách ương). Kinh Dịch: “Những nhà chứa chất việc thiện thế nào cũng có phúc về sau, những nhà chứa chất việc ác thế nào cũng có tai họa về sau”. (Tích thiện chi gia tất hữu dư khương, tích bất thiện chi gia tất hữu dư ương).


177 . Tài liệu của Ðoàn Ngọc Phan trong Tạp Chí Văn Học, số 6 năm 1976, Hà Nội.

178 . Ngô Gia Thế Phả viết: “Nhìn quanh trông thấy ai là kẻ đồng tâm, cho nên ông (Ngô Thì Nhậm) bèn mượn đạo Phật làm vui, mở thiền viện Trúc Lâm tại phường Bích Câu, nơi ông ở, thuật lại hành trạng của Tam Tổ: Giác Hoàng, Pháp Loa và Huyền Quang để phụng thờ, độ điệp cho em ruột là Huyền Trai làm Thượng Túc đệ tử. Lúc ấy có các vị sư Hải Hòa và Hải Âu tôn ông là Hỉa Lượng Ðại Thiền Sư, và vì ông làm sách Trúc Lâm Tông Chỉ, lấy 24 chương thuyết pháp của ông là ra Ðại Chân Viên Giác Thanh..”

179 . Cuối phần Ðại Chân Viên Giác Thanh có ghi tễnn người viết chữ và san hành như sau:

Phụng tả:

- Thị nội mật sự tả trung doãn Dược trung bá Nguyễn Hữu Dược (Thanh Trì, Nhân Mục).

- Thị nội bí thư thự chính tự Tích trung bá Ðào Kim Tích (Gia Lâm, Tỉnh Quang)

- Thị nội bí thư thự kiểm thảo Tuấn trung tử Nguyễn Hữu Tuấn (Thanh Trì, Nhân Mục)

Phụng san:



- Thái thường giám thái chúc Nho nghĩa nam Phạm Ðạt Nho (Gia Lộc, Hồng Liêu)


180 . Thật ra Trường viễn Ðông Bác Cổ trước đây tàng trữ hai bản in Trúc Lâm tông chỉ nguyên thanh đều cùng bắt nguồn từ một bản: Bản A.2181 bị mất một số tờ trong đó có lời tựa của Phan Huy Ích. Bản A. 460 thì còn đủ. Cũng bản này có ghi tên những người làm thanh dẫn, và có đầy đủ phần thanh tiểu khấu. Về soạn giả của bộ sách, ta có thể biết được Hải Lượng tức Ngô Thì Nhậm (1746-1803), tác giả phần chính văn, do người khác ghi lại, hoặc cũng có thể do chính ông tự ghi nhưng đạt mình vào ngôi thứ ba; Hải Huyền tức Ngô Thì Hoàng (chưa rõ năm sinh và mất), em ruột Ngô Thì Nhậm, tham gia phần thanh dẫn; Hải Âu tức Vũ Trinh (1759-1828), cháu rễ thi hào Nguyễn Du, tác giả Lan Trì kiến văn lục, tham gia phần thanh chú; Hải Hòa tức Ngô Ðăng Sở (1753-?), tham gia phần thanh chú; Hải Ðiền, tức Nguyễn Ðạm, hay Nguyễn Hành (1771-1824) là cháu ruột thi hào Nguyễn Du, con trai thứ Nguyễn Ðiều, và là tác giả Minh Quyên tập, tham gia phần thanh tiểu khấu (N.H.C.)

181 . Huyền Quang thị tịch ở Côn Sơn chứ không phải ở Yên Tử.

182 . Bài kệ này ắt không phải của Huyền Quang: “Khế Ngộ Không Hư” và “huyền chi hựu huyền” không phải từ ngữ của Phật giáo. Trong những tác phẩm xuất hiện từ trước, chưa có tác phẩm nào nói tới hai bài kệ này.

183 . “Bốn mùa vận hành, trăm vật sinh trưởng, trời có nói gì đâu?” (Tứ thời hành yên, vạn vật sinh yên, thiên hà ngôn tai?), câu nói của Khổng Tử.

184 . Chữ Thiền cũng đọc là Thiện, nghĩa là trao truyền.

185 . Trong bài tự sách này, ông viết: “Tôi gặp buổi gian nan, lánh đời đã năm năm, đem kinh Xuân Thu ra biên lục, đặt tên là Xuân Thu Quản Kiến”.

186 . Phan Huy Chú (1782-1859) là tác giả Lịch Triều Hiến Chương Loại Chí, Hoàng Việt Ðịa Dư Chí, Hoa Thiều ngâm lục, Hoa Trình Tục Ngâm và Dương Trình Kỳ Biên. Sách Lịch Triều Hiến Chương Loại Chí được vua Minh Mạng ban khen.

187 . Lịch Triều Hiến Chương Loại Chí, phần “Khoa Mục Chí”


188 . Nguyễn Công Trứ (1778-1859) tự là Tôn Chất, hiệu Ngộ Trai, người làng Uy Viễn, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tỉnh. Sách Ðại Nam Chính Biên Liệt Truyện viết về ông như sau: “Công Trứ là người trác lạc, quyết đoán, có khí tiết, có văn tài, lại giỏi thơ quốc âm, làm thơ và bài hát rất nhiều, khí hào mại đã rõ ở trong thanh luật, đời còn truyền tụng. Hoạn đồ lúc thăng lúc giáng, hết ở chốn nhung trường thường lập chiến công. Khi làm doanh điền sứ, mọi việc kinh doanh, có công họp dân khai khẩn những đất hoang, làm cho nguồn lợi lâu dài. Tuổi già về nghỉ, quên hết việc đời, ngao du sơn thủy hơn mười năm, thực là phiêu diêu ngoại vật, ngày nay người ta còn tưởng đến phong thái...”


189 . Sách Trung Dung có câu: “Mệnh trời phó cho là tính, noi theo tính gọi là đạo, sửa cho hợp đạo gọi là giáo (Thiên mệnh chi vị tính, xuất tính chi vị đạo, tu đạo chi vụ giáo)


190 . Di quản khuy thiên: lấy cái ống dòm trời.

191 . Bìa biểu ngăn rước xá lợi của Hàn Dũ đề nghị bát tăng sĩ hoàn tục (nhân kỳ nhân), đốt kinh sách Phật (hỏa kỳ thư) và tịch thư tự viện (Lư kỳ cư).

192 . Vậy mà giềng mối của đạo Phật vẫn được thiên hạ gìn giữ.

193 . Ðạo dựa theo lẽ trời mà ra, đều bởi tự tâm người mà lại.

194 . Bình bát rộng của Phật có thể chứa đầy nước hai sông Hà và Lạc. Ðời vua Phục Hy có con Long mã dâng Ðồ ở sông Hà, vua căn cứ trên đó mà làm ra bát quái, đời vua Ðại Vũ có con rùa đem Thư ra sông Lạc, vua theo đó mà chế ra Cửu trù. Gọi là Hà đồ, Lạc thư.

195 . Nguyễn Du (1765-1820) tự Tố Như, hiệu Thanh Hiên, người làng Tiên Ðiền, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tỉnh; là tác giả các sách Thanh Hiên Tiền Hậu Tập, Bắc hành Thi Tập, Nam Trung Tạp Ngâm, Lê Quý Kỷ Sự (cuốn này là của Nguyễn Thu -N.H.C.), Truyện Kiều và Văn Tế Thập loại Chúng Sinh.

196 . Thơ Trần Tế Xương:

Nào có ra gì cái chữ Nho

Ông Nghè ông Bảng cũng nằm co

Sao bằng đi học nghề Thông, Ky(*)

Tối rượu sâm banh sáng sửa bò.

(*) Bài thơ này trong văn bản phổ biến lâu nay có một số chỗ khắc bản in trên. Câu 2: Ông Nghè ông Cống cũng nằm co; câu 3: Sao bằng đi học làm thông phán (N.H.C.)




197 . Ðại Nam Hội Ðiển Sự Lệ

198 . Sau này đổi lại là Phước Duyên Bảo Tháp

199 . Một thí dụ trong kinh Pháp Hoa: đứa con mang một viên bảo châu giá trị trăm ngàn lạng vàng trong tà áo mà không biết, cho nên cứ mãi sống đời cùng khổ.

200 . Diễn Nhã Ðạt Ða một buổi sáng soi gương thấy mặt mũi mình khả ái, chợt trách cái đầu mình lâu nay không thấy được cái mũi mình. Nghĩ rằng mình không có cái đầu cho nên không không thấy được mặt, do đó anh ta hoảng hốt chạy khắp thành phố Thất La Phiệt, phát cuồng.

201 . Thuần Ðà: người cư sĩ đã dâng Phật bữa ăn cuối cùng trong đời Ngài. Bữa ăn này có nấm độc. Phật dùng xong bảo đổ chỗ còn lại, không cho các vị tỳ khưu đi theo dùng

202 . Xin xem chương XX

203 . Tài liẹu báo Tri Tân số 7, ngày 18.7.1941

204 . Chùa Ân Tôn tức là chùa Cây Mai, ở làng Phú Giáo huyện Tân Long, dựng trên nền một ngôi chùa cổ Thủy Chân Lạp, nằm trên gò đất cao. Năm 1816 có một tăng sĩ trùng tu chùa ấy đào được ba miếng vàng lá có khắc hình Ðức Phật cưỡi lưng voi. Dưới triều Minh Mạng chùa lại được trùng tu, các ông Nguyễn Tri Phương và Phan Thanh Giản có dựng tại chùa một nhà thủy tạ có gác cao. Chùa có trồng một cây mai già bông trắng rất nổi tiếng. Tôn Thọ Tường có làm bài thơ vịnh cây mai ấy như sau:

Cám cảnh cây mai cách dưới đèo

Mười phần trong sạch phận cheo leo

Sương in tuyết đóng cành thưa thớt

Xuân tới thu về nỗi quạnh hiu

Lặng lẽ chuông quen cơn bóng xế

Tò le kèn lạ mặt trời chiều

Những tay rượu thánh thưo thần cũ



Trông cảnh bao nhiêu tiếc bấy nhiêu.


205 . Tài liệu của Huỳnh Minh, trong Gia Ðịnh Xưa và Nay, Saigon, 1973.


206 . Cùng với những nhân vật khác như Phạm Lương và Trương Trọng Hòa, ba anh em họ Ðoàn mưu tính lập một người là Ðinh Ðạo lên ngôi vua. Nghĩa Ðảng của họ chiêu dụ được lính tráng đang phục vụ việc xây dựng lăng Tự Ðức và liên lạc được với quan Hữu quân Tôn Thất Cúc, dùng ông này làm nội ứng.


207 . Đạo dụ cám Cơ Đốc lần thứ nhất có câu: “Đạo rỗi của người Tây làm mê h oặc lòng người ta. Giáo sĩ Gia Tô làm tà vạy nhân tâm, phá hoại mỹ tục, thật là một mối hại lớn cho nước nhà” (Đào Trinh Nhất trích dẫn trong Việt Nam Tây Thuộc Sứ, Sài Gòn, 1937

208 . Năm 1885, quân đội Pháp từ Vinh và Đồng Hới kéo ra bắn giết và tàn phá các chùa chiền Phật giáo rồi tập trung người Công giáo về gần thành để chiêu mộ vào binh ngũ. Cá lãnh tụ văn thân đã ra lệnh đốt phá nhà thờ để trả thù quân Pháp xúi giáo dân đốt phá chùa chiền là những căn cứ kháng chiến của phong trào Cần vương. Nhiều người Công giáo vì phẩn uất quay lại chống đối kháng chiến.

209 . Hành Sơn: Cụ Trần Cao Vân. Minh Tân Paris, 1952

210 . Võ Trứ là đệ tử của một vị tăng sĩ được gọi là “thầy Đá Bạc”. Vị này tu tại một hang động trên dãy Trường Sơn gọi là hang Đá Bạc, ở vào khoảng giữa hai huyện Phù Mỹ và Phù Cát tỉnh Bình Định. Không biết “thầy Đá Bạc” pháp danh là gì, thuộc hệ phái nào, chỉ biết ông là một sơn tăng chuyên tu tịnh cốc, lúc đến tu ở hang Đá Bạc thì đã vào khoảng bảy mươi tuổi. Năm 1894 ở Bình định có nạn ôn dịch, người chết như rạ, “thầy Đá Bạc” rời hang Đá Bạc xuống chùa Chánh Danh núi Bà Chằn, bắt đầu trị bệnh cho thuốc. Ông chữa đến đâu lành đến đó, khiến danh tiếng ông nổi như cồn trong hai tỉnh Phú Yên và Bình Định. Hàng chục ngàn người đổ xô tới chùa Chánh Danh để xin thuốc. Trong số những đệ tử của ông, Võ Trứ là người hoạt bát hơn cả. Võ Trứ đã từng làm lý trưởng làng Nhân Ân, phủ Tuy Phước, Bình Định. Ta cũng không biết pháp danh của ông là gì. Chắc hẳn “thầy Đá Bạc” đã đóng một vai trò quan trọng trong cuộc vận động khởi nghĩa, vì sau đó chính quyền ra lệnh cấm tụ tập ở chùa Chánh Danh và tróc nã ông. Năm 1895 người ta tìm được thi thể ông trên núi Bà Chằn. Chính quyền an tâm khi nghe tin ấy, nhưng chính từ đó về sau Võ Trứ mới bắt đầu tự thân điều khiển cuộc vận động. Cuộc khởi nghĩa năm 1898 là kết quả của một buổi họp bí mật tổ chức vào rằm tháng Bảy năm Đinh dậu (1897) tại chùa Từ quang ở núi Đá Trắng, Sông Cầu, với sự hiện diện của các tăng sĩ , các vị thân hòa và nho sĩ Trần cao Vân

211 . Hiệu Tây Hồ, người tỉnh Quảng Nam (1872-1926)

212 . Nguyễn Hiến Lê: Đông Kinh Nghĩa Thục. Lá Bối, Sài Gòn, 1974

213 . “Không bỏ chữ Hán thì không cứu được nước Nam”.


214 . Hiệu Sào Nam, người tỉnh Nghệ An (1867-1940)

215 . Hiệu là Tử Long, người tỉnh Hà Đông (1875-1952)


216 . Phong trào thực tế còn là ra Nghệ - Tỉnh và bùng lên dữ dội ở đây vào năm 1908. Người cầm đầu phong trào là Nguyễn Hàng Chi (Can Lộc, Hà Tỉnh) bị xử chém. Một người khác ít biết tên tuổi hơn là Trịnh Khắc Lập (Nghi Xuân, Hà Tỉnh) cũng bị xử chém. Còn các vị khác như Ngô Đức Kế, Đặng Nguyên Cẩn, Lê Văn Huân đều bị bắt đi đày cùng với Huỳnh Thúc Kháng ở Quảng Nam (N.H.C).

217 . “Đi đày Côn Lôn gặp kỳ đại xá cũng không được về”.

218 . Theo Huỳnh Văn Tòng: Lịch sử báo chí Việt Nam. Trí Đăng, Sài Gòn, 1973, thì tờ báo này ra số 1 ngày 1-8-1901 (N.H.C).

219 . Theo Nguyễn Ngu Í: 100 năm báo chí Việt Nam, Bách khoa, số 25, ra ngày 15-1-1966, Sài Gòn, thì tờ báo này ra đời từ 1905 (N.H.C) 


220 . Theo Huỳnh Văn Tòng. Sđd, thì tờ báo này ra đời từ 1905.

221 . Lê Dư hiệu Sở Cuồng là một nhà văn. Ông và Phan Bá Ngọc (con của Phan Đình Phùng) đã từng bị Phan Bội Châu nghi ngờ là những người chịu thỏa hiệp với thực dân Pháp trong công cuộc vận động phong trào “Pháp Việt Đề Huề”.

222 . Đăng trong Tiếng Chuông Sớm số 9, ra ngày 12.10.1935

223 . Viên Âm số 2, ra ngày 1.1.1934

224 . Xem Viên Âm số 13 (tháng Hai 1935), số 14 (tháng Tư 1935) và số 15 (tháng Năm 1935)

225 . Đuốc Tuệ số 29 (30.6.1936)

226 . Đuốc Tuệ số 32 (17.12..1935)

227 . Đuốc Tuệ số 2 (17.12.1935)

228 . Ban Đồng Ấu Phật tử này gồm có 52 em vừa nam vừa nữ, huấn luyện tại chùa Phước Điền. Nhạc sĩ Bửu Bác phụ trách dạy nhạc cho các em. Bài Hải Triều Âm do Bửu Bác sáng tác là bản nhạc lễ Phật giáo đầu tiên viết bằng phép ký âm Tây phương. Bài này sau được Gia đình Phật hóa Phổ giản lược hóa và trở thành bài Trầm Hương Đốt. Tuy Trầm Hương Đốt dễ hát hơn Hải Triều Âm nhưng tính chất lễ nhạc dân tộc và Phật giáo trong bài Trầm Hương Đốt bị hy sinh đến quá nửa. Thật là một điều đáng tiếc. Lời của Hải Triều Âm như sau:

Trầm hương đốt, xông ngát mười phương

Vân vân khói kết mây lành cúng dường

Cầu cầu xin lên kim đài quang minh

Ngời đèn Tuệ so sáng cùng quần sinh

Vòi vọi đài sen uyển chuyển hào quang

Quy tâm quỳ dưới kim dung ngọc tướng huy hoàng

Kính dâng hồng diệp liên hoa muôn cành

Chúng con tâm thành xưng dương vô lượng hồng danh

Hoàng đạo diệu huyền đã lan truyền nơi cùng nơi

Đều nhờ chân lý phá vô minh thoát luân hồi

Nguyện cầu quần sinh ly con đường lầm mê

Mau mau thành đạo tam muội tam bồ đề

Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật




229 . Tân Việt, Sài Gòn, 1950

230 . Đuốc Tuệ số 159 (1.7.1941)

231 . Viên Âm số 25 (1.6.1937)

232 . Viên âm số 59 (tháng Tư 1943)

233 . Hội Tịnh Độ Cư Sĩ thành lập năm 1936 đặt trụ sở tại chùa Tân Hưng Long, Chợ Lớn. Tạp chí Pháp Âm, số đầu ra vào tháng Hai 1937, do một số cư sĩ có tân học chủ trương, trong dó có Trần Huỳnh, Phan Hiền Đạo và Phạm Đình Vĩnh.

234 . Pháp Âm số 10 (tháng Mười 1937)

235 . Pháp Âm số 7 (tháng Bảy 1937)

236 . Tiến Hóa số 8 (tháng Tám 1938)

237 . Pháp Âm số 5 (tháng Năm 1937)

238 . Tục Tạng Kinh nói nói nơi đây là của Thương Vụ Ấn Thư Quán in lại năm 1923 theo lối “ảnh ấn” của Tục Tăng Kinh Nhật Bản. Còn Đại Tạng Kinh nói đây là bản in năm 1931 do các học giả Châu Khánh Lan, Diệp Quang Xước, Thích Phạm Thành v.v... vừa mới thực hiện xong. Bản này in lại Tạng Kinh đời Tống phối hợp với các kinh bản đã từng khắc in ở Kim Lăng, Dương Châu, Thường Châu, Bắc Bình và Thiền Tân trước đó.

239 . Hiện nhà Lá Bối còn giữ được nguyên vẹn Mông Sơn Thí Thực Khoa Nghi của Bích Liên. Mong rằng Lá Bối sẽ ấn hành tác phẩm này để bảo tồn lại cho đời sau. Quy Sơn Cảnh Sách cùng những tác phẩm Hán văn khác của Bích Liên hiện không biết có còn được bảo tồn không. Mong các giới cao tăng Bình Định nếu sưu tầm được thì tìm cách ấn hành ngay, dù là chỉ in một vài trăm bản để bảo tồn những tác phẩm quý giá này

240 . Chùa này do nữ cư sĩ Dương Thị Liễu tạo lập. Năm 1934, bà dâng chùa này cho Hội để làm Phật Học Đường.

241 . Bốn vị là Thiện Hòa, Hiển Thụy, Hiển Không và Chánh Quang. Một vị cư sĩ cũng được gởi ra tham học, đó là ông Nguyễn Tấn Tài

242 . Sáu vị là Thiện Hoa, Hành Trụ, Chí Thiện, Từ Thọ, Bửu Ngọc và Chí Quang.

243 . Theo lá thư này, ông Trần Nguyên Chấn đã từng “làm đơn kêu nài với chính phủ” về sự có mặt của hội Lưỡng Xuyên Phật Học.

244 . Kính Cáo Độc Giả, Tiến Hóa số 1, tháng Giêng 1938.

245 . Tự Giác viết trong Tiến Hóa số 2 (1.2.1938)

246 . Giác Tha viết trong Tiến Hóa số 8 (thắng Tám 1938) và số 9 1938).

247 . Tomomatsu là tân tăng phái Tịnh Độ Chân Tông. Theo Tiến Hóa số 9 (tháng Chín 1938) thì trong Chiến Tranh Hoa Nhật ông đã viết một bài tuyên bố rằng “không có cõi Tây Phương Cực Lạc”.

248 . Số 151 (tháng Bảy 1938)

249 . Thiện Chiếu: Phật Giáo Vấn Đáp, chùa Hưng Long Chợ Lớn xuất bản, 1932

250 . Sách đã dẫn

251 . Pháp Âm số 7 (tháng Bảy 1937)

252 . Pháp Âm số 10 (tháng Mười 1937)

253 . Pháp Âm số 12 (tháng Chạp 1937)

254 . Pháp Âm số 13 (tháng Hai 1938)

255 . Hội Tịnh Độ Cư Sĩ là hậu thân của một hội khác tên là hội Lễ Bái Lục Phương thành lập trên căn bản kinh 

Thi Ca La Việt. Hội có một trú sở nhánh tại chùa Hưng an ở Cà Mau, khánh thành vào ngày 24.2.1937. Những nhân vật chính của hội là các ông: Lương Văn Đường, Nguyễn Văn So, Lê Văn Chim, Lại Văn Giáo, Phạm Đình Vĩnh, Trương Văn Thủ, Trần Văn Nhân, Đặng Văn Thìn, Ngô Quang Minh, Ngô Văn Thắng và Nguyễn Văn Thiên.

Thiền sư Minh Trí tên đời là Nguyễn Văn Bồng, sinh năm 1885 tại Sa Đéc. Ông xuất gia năm 33 tuổi và thường hay vân du tìm hái những cây lá có được tính để cứu bệnh cho người. Hội Tịnh Độ Cư Sĩ được thầnh lập năm ông 48 tuổi. Chùa Tân Hưng Long làm lễ khánh thành vào năm 1936. Chính vào năm đó ông được tín đồ xưng là Tông Sư Minh Trí


256 . Tiến hóa số 2 (Tháng Hai 1938)

257 . Lời kêu gọi này thường được in vào cuối sách.

258 . Tác phẩm này cũng đã được Võ Đình Cường sử dụng để viết cuốn Ánh Đạo Vàng.



259 . Giác Tiên chết vào năm 1936 chứ không phải vào năm 1934 như Lê Đình Duyên viết trong bài Tiểu Sử Đạo Hữu Tâm Minh Lê Đình Thám in ở đầu sách Kinh Thủ Lăng Nghiêm xuất bản tại Sài Gòn năm 1973. Mật Khế, đệ tử của Giác Tiên, tịch năm 1935, trước khi tịch đã được thầy trao cho một bài kệ. Đuốc Tuệ (số 54 ra ngày 1.2.1937) nói Giác Tiên viên tịch năm 1937 ngày 17.1 trong khi Viên Âm báo tin Giác Tiên viên tịch trong số 23 ra vào tháng Chín – tháng Mười năm 1936. Ngày thị tịch của Giác Tiên, theo Viên Âm, là ngày mồng bốn tháng Mười âmlịch năm Bảo Đại thứ 11 tức là ngày 17. 11. 1936. Tuy tạp chí Viên Âm số 23 đề ngoài bìa là vào tháng September-Octobre 1936, kỳ thực số bào này in xong sớm nhất là vào ngày cuối tháng November mời chuyên chở được tin trên.

260 . Viên Âm số 14 (Tháng Ba 1935)

261 . Báo đã dẫn

262 . Viên Âm số 8 (1.7.1934)

263 . Viên Âm số 14 (Tháng Ba 1935)

264 . Viên Âm số 13 (Tháng Giêng 1935)

265 . Viên Âm số 15 (Tháng Giêng 1935) 


266 . Đây là những phiên khúc

1- Vers le mieux sans un répit

En avant, d’un même ferveur

La terre résonnera

Sous nos pas triomphateurs

2- Semons loin la vérité

allons done, levons-nous tous

la chaleur des belles siitras

donnera Paix et Bonheur.

3- A l’exemple des Arabant

s’éxemple des Arabant

s’en allant répandre leur zèle

apprenons au monde qui râle

ce qui cause la douleur.

4- Quangd partout rayonneront

l’ Amour et la Pureté

Touté les voix entonneront

Ce refrain plein de vigueur!




267 . Viên Âm số 48 xuất bản vào tháng Năm 1942

268 . Ví dụ Cặp Mắt Của Thái Tử Câu Na La của Lê Hữu Hoài (Viên Âm số 52, tháng 9 1942) và Ưu Đà Di của Trực Hiên (Viên Âm số 58, tháng Ba 1953).

269 . Ví dụ truyện ngắn Câu Chuyện Ông Chài và truyện dài Biển Ái Sóng Dồi.

270 . Kinh Thủ Lăng Nghiêm do Tâm Minh Lê Đình Thám dịch gồm 2 tập. Ban Hoằng pháp, Hội Phật Giáo Thống Nhất Việt Nam (miền Bắc) ấn hành, 1964 (N.H.C)

271 . Sách Việt Nam Phật giáo Sử Luận, Tập II, lần in thứ nhất ghi nhầm thiền sư Nhất Đinh sinh năm 1784 (Giáp thìn) cho chính xác, đồng thời ghi thêm một vài sửliệu về thiền sư này. Thiền sư Nhất Định họ Nguyễn, sinh tại làng Trung Kiên, tổng Bích La, huyện Đăng Xương, tỉnh Quảng Trị. Ông được thế độ với thiền sư Phổ Tịnh chùa Thiên Thọ (Báo Quốc) năm 18 tuổi, và thụ đại giới tại chùa Quốc ân với thiền sư Mật Hoàng năm 1814. thiền sư Mật Hoàng có ban cho ông bài kệ sau đây:

Nhất định chiếu quang minh

Hư Không nguyệt mãn viên

Tổ tổ truyền phúc chúc

Đạo minh kế Tánh Thiên

Tánh Thiện là pháp danh của ông. Năm 1816, khi thiền sư Phổ Tịnh viên tịch, ông pảhi trực tiếp điều khiển chùa Báo Quốc. Năm 1830 ông được triều đình cấp giới đao và độ điệp. Năm 1835 ông được bộ Lễ cung thỉnh trụ trì chùa Linh Hựu. Vua Minh Mạng, nhân dịp này có ban cho ôngmột chứng từ, trong đó vua khen ông là “giới luật nghiêm tịnh, thiền cơ thẩm đạt” (cẩn trì giới luật, xòa ngộ thiền cơ). Tương An Quận Vương, con thứ 12 của vua Gia Long, rất hâm mộ ông, đã có lần tặng ông bài thơ sau đây:

Dạ tụng Pháp Hoa kinh

Thân tâm bách luyện tinh

Phòng vô phiến trần nhập

Bích quải điểm đăng minh

Tích hữu Uyên Minh thức

Tâm như Huệ Viễn thanh

Chúng nhân đồ ngột ngột

An đắc thấu sinh sinh

Dịch:

Đêm tụng Pháp hoa kinh



Thân Tâm mãi chuyên tinh

Bụi hồng không mảnh lạc

Trên vách ngọn đèn xanh

Dấu Uyên Minh ngời sáng

Lòng Huệ Viễn trong thanh

Kẻ phàm nhiều lận đận

Ai thấy được chân hình?

Năm 1839, ông được sắc phong Tăng Cương chùa Giác Hoàng. Ông từ bỏ chức vụ này vào năm 1834, năm ông 60 tuổi và về lập An Dưỡng Am trên núi Dương Xuân. Chùa Báo Quốc thì ông giao lại cho pháp đệ là thiền sư Nhất Niệm trong coi. Tại An Dưỡng Am, ông từ chối mọi sự cúng dường, cùng hai đệ tử là thiền sư Hải Thuận và Hải Thiều, cuốc đất, trồng khoai, gieo bắp để tự túc. Các quan trong triêu thường lui tới thăm viếng và xin phép ông dựng chùa tại đây, nhưng ông nhất định không chịu. Trước Am, ông đề hai câu:

Thân đới quán châu nhà tuế nguyệt

Thủ trì tích trượng nhạo vân sơn

Dịch:

Chuỗi tràng đeo cổ nhàn năm tháng



tải về 5.52 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   ...   41   42   43   44   45   46   47   48   49




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương