VIỆt nam phật giáo sử luận nguyễn Lang Nhà Xuất Bản Văn Học Hà Nội 1979 o0o Nguồn



tải về 5.52 Mb.
trang48/49
Chuyển đổi dữ liệu04.01.2018
Kích5.52 Mb.
#35590
1   ...   41   42   43   44   45   46   47   48   49


Tích trượng cầm tay vui níu mây.

Ông mất năm 1847, bốn năm sau khi dựng An Dưỡng Am. Ông mất rồi thì năm sau (1848) thiền sư Hải Thiệu (Cương Kỷ) mới chịu xây chùa với sự ủng hộ của các thái giám. Năm ấy vua Tự Đức mới lên ngôi. Ông ban sắc tứ cho chùa là Từ Hiếu. Chùa này được đại trùng tu năm 1894, khi thiền sư Tâm Tịnh còn làm tự trưởng và Thiền sư Huệ Minh là trị sự. Thiền sư Hải Thiệu tịch vào năm 1899. Cao đệ của thiền sư Nhất Định còn có Thiền sư Hải Thuận (Lương Duyên) và Hải Toàn (Linh Cơ). Thiền sư Hải Thuận làm trú trì chùa Báo Quốc và thiền sư Hải Toàn sáng lập chùa Tường Vân.




272 . Tên chùa thiền sư là Tuệ Pháp, nhưng chữ Tuệ cũng đọc là Huệ, nhất là ở Trung và Nam

273 . Giọng Bắc phất âm là Phổ Tuệ hay Phả Tuệ

274 . Thiền sư Viên Giác tên là Nguyễn Khoa Luận, sinh năm 1834 tại Thừa Thiên. Ông đỗ cử nhân khoa Tân Dậu (1861) dưới triều vua Tự Đức. Ông từng làm án sát Quảng Bình, bố chính Quảng Ngãi và Thanh Hóa. Sau khi triều đình đề nghị hòa với quân Pháp, ông thất vọng từ quan. Năm 1886 ông xuất gia tại chùa Từ Hiếu, làm đệ tử thiền sư Cương Kỷ, được pháp danh là Thanh Chân, rồi về chùa Ba La Mật tu hành, năm 1891 ông thụ tỳ kheo giới tại giới đàn Báo Quốc, cũng do thiền sư Cương Kỷ truyền giới. Ông tịch năm 1900, thọ 67 tuổi.

275 . Nguyễn Khoa Tân tự là Tứ Phương. Hiệu là Bình Nam, đã từng lmà hội trưởng hội An Nam Phật Học. Ông là con thứ tư của Nguyễn Khoa Luận (án sát Thanh Hóa, sau này di tu thành thiền sư Viên Giác chùa Ba La Mật). Đậu cử nhân năm 1894, ông giữ chức tổng đốc Quảng Nam, sau được thăng thượng thư bộ hộ, hiệp tá đại học sĩ sung cơ mật viện đại thần dưới triều vua Khải Định. Ông chơi rất thân với thiền sư Viên Thành. Ông học Phật bằng nhiều cách đọc Hải Triều Âm văn khố, và cũng nghiên cứu Duy Thức Học chung với Viên Thành. Có lần ông gửi tặng Viên Thành một bức ảnh có bốn câu:

Mang mang đại địa trung

Hà chân nhi hà giả?

Chư Phật thị chúng sanh

Bình Nam diệc phi ngã

Dịch:


Mênh mông trên cõi đất

Biết gì chân gì giả

Chư Phật là chúng sinh 

Bình Nam cũng phi ngã

Ông có làm bài thơ sau đây tặng Viên Thành:

Thúy trúc hoàng hoa đại nhã phong

Cao nhân tể sắc tịch dương hồng

Tân thi ngâm biến hồn vô trước

Tâm cộng nhàn vân quá thái thông

Dịch:


Trúc biếc hoa vàng trang nhã phong

Cao nhân chiều ngâm giải mây hồng

Thơ tiên ngâm mãi không vướng

Lòng tợ mây bay giữa hư không



Năm 1924, ong có gửi thỉnh một Đại Tạng Kinh gồm hơn 8.000 cuốn để biếu vua Khải Định. Kinh này được vua cất ở cung An Định để làm tài liệu học tập. Ông làm hội trưởng hội An Nam Phật Học năm 1935. lễ Phật Đản năm ấy vĩ đại một phần quan trọng là do ông.


276 . Nguyễn Văn Thoa: Thiền Sư Viên Thành. Môn đồ Ba La Mật và Tra Am ấn hành. Nha Trang 1974.

277 . Chữ Cố nhân ở đây có nghĩa là tự tính, là mặt mũi xưa nay của mình.

278 . Tam Bảo, số 2 (15.2.1937).

279 . Tam Bảo, số 5 (6.7.1937).

280 . Con gái bà tên Nguyễn Thị Kim Đính, sau này là bà bác sĩ Trương Xướng, một trong những người có công với công cuộc phục hưng Phật học sau này.

281 . Nay là chùa Phúc Khánh, Nguyễn Tư Sở, Hà Nội (N.H.C.)

282 . Tiểu thuyết Quả Dưa Đỏ được giải thưởng Hội Khai Trí Tiến Đức năm 1925 tức là mười năm trước đó. Quả Dưa Đỏ đã được hoan nghênh nhiệt liệt và được nhiều tờ báo nhắc tới (Trung Bắc Tân Văn 20.2. 1926, Đông Pháp Thời Báo 1927, v.v…)

283 . Xem Việt Nam Phật Giáo Sử Luận, Tập I, trang 278-279

284 . Bulletin de l’ Ecole Francaise d’Extrême Orient (B.E.F.E.O) Hanoi, 1932, T. XXXII, fasc. 1, trang 191-268

285 . Trần Trọng Kim: Phật Giáo Trong Ba Bài Diễn Thuyết. Tân Việt, Sài Gòn, 1950.

286 . Phật Giáo Thuở Xưa Và Phật Giáo Ngày Nay. Tân Việt, Sài Gòn, 1953 

287 . Bùi Kỷ: Nghĩa Chữ “Không” trong đạo Phật. Đăng lại trong Nguyệt san Phật giáo Việt Nam, từ số 16 đến số 21, 1958.

288 . Đuốc Tuệ số 60 (1.5.1937)

289 . Đuốc Tuệ số 11 (25.2.1936)

290 . Đuốc Tuệ số 108 (15.5.1939)

291 . Trong thiền viện truyền thống, tăng sĩ thường tự túc bàng cách canh tác, bắt đầu từ nguyên tắc “bất tác bất thực” của thiền sư Bách Trượng.

292 . Chùa Trấn Quốc đầu tiên được dựng ở đời Lý Nam Đế (544-548) gọi là chùa Khai Quốc, tọa lạc tại bãi An Hoa giáp sông Hồng Hà. Năm 1615 bãi sông bị lỡ, chùa được dời tới làng Yên Phụ cạnh Hồ Tây, dựng trên nền cũ cung Thúy Hoa đời Lý (cũng là nền cũ điện Hàm Nguyên đời Trần). Theo bia “Trần Quốc Tự Bi Ký” của thiền sư Đạo Khang dựng năm 1639 thì trong năm đó chùa đã được trùng tu rất tráng lệ. “Quy mô lớn, sức lực nhiều, so với người trước, công đức gấp trăm lần”, đó là lời trong bia. Trong cuộc tấn công của vua Nguyễn Huệ ra Bắc, chùa bị binh lửa tàn phá. Thiền sư Khoan Nhân huy động trùng tu lại chùa vào năm 1813. Đến năm 1815 thì hoàn thành. Thiền sư Khoan Nhân, theo bia “Tái Tạo Trấn Bắc Tự Bi” là người huyện Thụy Anh, phủ Thái Ninh, trấn Sơn Nam nay là tỉnh Thái Bình.

Năm 1844 vua Thiệu Trị đổi tên chùa là chùa Trấn Bắc nhưng dân chúng vẫn tiếp tục gọi là chùa Trấn Quốc, chỉ có chữ Quốc trên bia bị đục bỏ để chữa thành chữ Bắc mà thôi.




293 . Tiếng Chuông Sớm số 2 (1.7.1935)

294 . Tiếng Chuông Sớm số 2 (15.7.1935)

295 . Xem Việt Nam Phật Giáo Sử Luận, Tập II, trang 140.

296 . 1676-1680

297 . Có thể là Lê Thuần Tông (1732-1735)

298 . Xem Việt Nam Phật Giáo Sử Luận. Tập II, trang 342.

299 . Năm 1830 vua Minh Mạng cấp giới đao và độ điệp cho 53 vị cao tăng trong nước sau khi bộ Lễ đã xét hạch học lực và đức hạnh của họ. Thiền sư Phúc Điền, chùa Liên Tông ở Bạch Mai, người san khắc Đại Nam Thiền Uyển Truyền Đăng Tập Lục cũng được ban giới đao và độ điệp vào năm này.

300 . Nội các gồm có: Trần Trọng Kim, thủ tướng; Tràn Đình Nam, bộ trưởng Nội vụ; Trần Văn Chương, Ngoại giao; Vũ Văn Hiền, Tài chính; Hồ Tá Khanh, Kinh tế, Nguyễn Hữu Chí, Tiếp tế; Hoàng Xuân Hãn, Giáo dục Kỹ thuật; Trịnh Đình Thảo, Tư pháp; Lưu Văn Lang, Công chính Giao thông; Vũ Ngọc Anh, Y tế Cứu tế; Phan Anh, Thanh niên.

301 . Thực tế, ở hà Tỉnh, huyện cướp chính quyền sớm nhất là Can Lộc cũng phải là ngày 15.8.1945 (N.H.C)

302 . Mật Thể: Xuân Đạo Lý, trang 23.

303 . Thiền Uyển Tập Anh, Thống Yếu Kế Đăng Lục, Đạo Giáo Nguyên Lưu v.v… và một vài bộ Ngữ Lục cùng năm ba thiên truyện ksy của các vị cao tăng.

304 . Bài này được in đầu sách Việt Nam Phật Giáo Sử Lược, bằng Hán văn.

305 . Hải Triều Âm số 1 ra ngày 21.4.1964.

306 . Việt Quốc là tổ chức hợp nhất của đảng Cách Mệnh Đồng Minh, Việt Nam Quốc Dân Đảng và Đại Việt. Cơ quan báo chí của Việt Quốc là Thiết thực.

307 . Tam Ích: Ý Văn. Lá Bối, Sài Gòn 1967.

308 . Mật Thể: Thế Giới Quan Phật Giáo. Vạn Hạnh, Sài Gòn 1967

309 . Phạm Hữu Bình: Phật Giáo Bị Lợi Dụng. Giải Thóat, 1945 (inlại trong tập san Phật Giáo Việt Nam, Sài Gòn số 4-1956.

310 . Nguyễn Hữu Quán: Hiểu Biết Chân Chính (bức thư ngỏ cùng người bạn muôn phương). Giải Thoát 1946, in lại trong nguyệt san Phật Giáo Việt Nam, Sài Gòn số 4-1956.

311 . Nguyễn Hữu Quán: Hiểu Biết Chân Chính (bức thư ngỏ cùng người bạn muôn phương). Giải Thoát 1946, in lại trong nguyệt san Phật Giáo Việt Nam, Sài Gòn số 4-1956.

312 . Nguyễn Hữu Quán: Hiểu Biết Chân Chính (bức thư ngỏ cùng người bạn muôn phương). Giải Thoát 1946, in lại trong nguyệt san Phật Giáo Việt Nam, Sài Gòn số 4-1956.

313 . Một đoạn trong Lịch Sử Việt Nam Hiện Kim của Phan Xuân Hoa, xuất bản tại Sài Gòn năm 1957, trang 95-96:

“Vào tháng 7.1949 trong một trận càn quét ở tỉnh Hà Đông, quân đội Pháp bắt được hơn 200 thường dân. Sĩ quan Pháp bắt đứng riêng hai hàng nam nữ, ai nấy đều bị lột trần truồng. Sau bắt theo lệnh còi do một tên trung sĩ thổi lên, đôi bên nam nữ phải ôm lấy nhau để nhận lấy một tràng đạn liên thanh tưới vào mà gục xuống.

“Hôm 11.8.1949, sau khi quây vùng Ninh Giang (thuộc Hải Dương), 80 người bị bắt đứng sắp hàng làm bia đỡ đạn liên thanh. Khoảng 100 đàn bà bị hiếp dâm; nhiều trẻ con bị quẳng vào đống lửa.

“Hôm 12.12.1949 ở bến đò An Tí (Vĩnh Yên) Pháp bắt giữ một chiếc thuyền chở 45 người đàn bà và hai đàn ông là những người đi lánh nạn; thu vét hết của cải xong rồi, lính Pháp trói hai người làm một, quẳng cả xuống sông…

“Quân đội Pháp đóng ở TrungViệt lại còn tàn bạo hơn thế nữa. Nhiều gia đình bị tàn sát bằng dao găm. Người ta tính sơ sơ thấy số bị giết lên tới chừng tám vạn. Không mấy phụ nữ trong khu Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên là không bị Pháp hiếp dâm.

“Hôm 22.2.1949, riêng một trận vây Phong Điền, 860 nóc nhà bị đốt,80 dân quân bị giết, 113 đàn bà bị hiếp; một người đàn bà có mang sáu tháng (Hoàng Thị Phong) bị mổ bụng. Cũng trong trận này ông già Trần Văn Địch ở Vĩnh Xương (Phú Vang) bị ném vào đống lửa. Tại Hương Trà, ông già Trần Xuyến bị mổ bụng. Ở Quảng Điền hai bà già 60 bị hiếp”.




314 . Gọi là chùa Ô Môi vì trước chùa có một hàng cây ô môi dài. Hiện chưa tìm được tên chữ của chùa

315 . Tổ chức Phật giáo Thuyền Lữ được thiền sư Trí Hưng đứng ra chủ xướng. Thiền sư Trí Hưng tên là Nguyễn Tăng người quận Mộ Đức, tỉnh Quảng Ngãi. Là tăng cương chùa Từ Lâm, ông cũng kiêm nhiệm trách vụ kiểm tăng ở ba quận miền Nam tỉnh Quảng Ngãi là Tư Nghĩa, Mộ Đức và Đức Phổ. Ông là con thứ mười ba của một nhân sĩ thân Pháp tên là Nguyễn Thân vì vậy thường được gọi là “cậu mười ba”. Ông thường dựa thế quan tuần vũ Quảng Ngãi là Võ Chuẩn để gây thanh thế trong tỉnh. Sau Cách Mạng 1945 ông phải bỏ ra Huế, cùng với một số tăng sĩ chùa Hải Đức và chùa Phổ Thiên, ông đã lập hội Phật giáo thuyền lữ và cho ra tập san Thuyền Lữ. Tổ chức này sống không quá 4 năm. Ông bỏ vào Sài Gòn và cùng với thiền sư Trung Nghĩa lập tổ chức Phật giáo Cổ Sơn Môn đặt trụ sở tại chùa Giác Lâm ở Phú Thọ, sau đó lại dời về chùa Phụng Sơn.


316 . Trúc Đông, viết trong bán nguyệt san Bồ Đề, Hà Nội, số 11, ra ngày 17.2.1950.

317 . Cư sĩ Lục Hòa, viết trong bán nguyệt san Bồ Đề số 24, ra ngày 28.8.1950

318 . Tâm Tấn: Hương Đạo Hạnh, Liên Hoa Huế, 1856.

319 . Bản Tuyên Ngôn thành lập Tổng Hội Phật Giáo Việt Nam .

320 . Mai Thọ Truyền: Le Bouddhisme Au Vietnam, édité par un groupe d’amis de l’auteur, Sài Gòn,1962 

321 . Sách đã dẫn.

322 . Từ Quang, số 239 (tháng Giêng 1973), bài Khảo cứu về Tịnh Độ Tông.

323 . Báo đã dẫn

324 . Từ Quang, số 237 (tháng Mười một 1972), bài Khảo Cứu Về Tịnh Độ Tông.

325 . Thi sĩ Vũ Hoàng Chương có lẽ là người đầu tiên đem hoa mai trồng ở nước Cực Lạc

326 . Xem Việt Nam Phật Giáo Sử Luận, tập 2 trang 357

327 . Theo câu này thì lúc làm bài thơ, cư sĩ Chơn An chỉ mới 66 tuổi. Vậy có phải là năm 1958 không (N.H.C.)

328 . Nguyệt san Phật giáo Việt Nam, số 20 và 21, năm Mậu tuất (1958)

329 . Trược: miền bắc đọc là trọc.

330 . Nguỵêt San Phật Giáo Việt Nam, số 3, năm Bính thân (1956).


331 . Thiện Y viết trong Phật Giáo Việt Nam, số 9, năm Đinh dậu (1957).


332 . Xem bài Lại Vấn Đè Thống Nhất Phật Giáo, Phật Giáo Việt Nam, số 20 và 21, năm Mậu tuất (1958)


333 . Phật Giáo Việt Nam, số 22 năm Mậu tuất (1958).

334 . Báo đã dẫn.

335 . Phật Giáo Việt Nam, số 27 năm Kỷ hợi (1959)

336 . Phật Giáo Việt Nam, số 28 năm Kỷ hợi (1959)


337 . Cư sĩ Chánh Trí Mai Thọ Truyền là nhân vật chủ chốt của hội Phật Học Nam Việt, và thiền sư Trí Quang là nhân vật chủ chốt của hội Việt Nam Phật Học. 

338 . Phật Giáo Việt Nam, số 1 ra mắt ngày trăng tròn tháng Tám năm Bính Thân (1956)

339 . Xem bài Hướng Đi Của Người phật tử Việt Nam. Phật Giáo Việt Nam, số 1, ra ngày trăng tròn tháng Tám năm Bính thân, (1956)

340 . Xem bài Hướng Đi Của Văn Hóa. Phật Giáo Việt Nam số 2, 1956.


341 . Dã Thảo: Phật Giáo Với Tinh Thần Dân Chủ. Phật Giáo Việt Nam, số 3, 1956.

342 . Đọc bài Sự Nghiệp Của Phật giáo Trong Triều Lý của Thạc Đức trong Phật Giáo Việt Nam, số 1 năm Bính thân, 1956

343 . Vị thiền sư dầu tiên đem thiền học tới Việt Nam là Dharmadeva (Pháp Thiên) thầy của thiền sư Huệ Thắng. Ông đến Giao Châu vào khoảng giưa thế kỷ thứ năm (xem Việt Nam Phật Giáo Sử Luận, Tập I, trang 100) và có lẽ trước chuyến đi của Bồ Đề Đạt Ma sang nước Lương.


344 . Minh Hạnh: Giáo Lý Của pgnv. Phật Giáo Việt Nam, số 11 năm Đinh dậu, 1957.

345 . Phật Giáo Việt Nam, số 12 năm Đinh dậu, 1957.

346 . Dã Thảo: Vấn Đề Đào Tạo Tăng Tài. Phật Giáo Việt Nam số 11, 1957.

347 . Đạo Phật và Nền Hòa Bình Thế Giới. Phật Giáo Việt Nam, số 28, năm Kỷ hợi, 1959.

348 . Bài đã dẫn

349 . Phật Giáo Việt Nam, số 8 năm Đinh dậu, 1957.

350 . Phật Giáo Việt Nam, số 1 năm Bính thân, 1956.

351 . Phật Giáo Việt Nam, số 2 năm Bính thân 1956.

352 . Lễ suy tôn được tổ chức ngày 8.3.1953 tại chùa Ấn Quang, Sài Gòn.

353 . Phật Giáo Việt Nam, số 4, năm Bính thân, 1956.

354 . Việt Nam Phật Giáo Sử Luận, Tập II, có nói sơ lược đến thiền sư Luật Truyền. Nay xin bổ túc thêm. Theo thiền sư Khánh Anh thì thiền sư Luật Truyền họ Trần, sinh ở Cổ Tháp, Hoa Châu, Phúc Kiến, mười tám tuổi đã thôi Nho học theo Phật học. Trong số những sáng tác của ông có: Thiện Ác Quy Cảnh, Xuất Gia Yếu Tập, Tam Bảo Biện Hoặc, Quy Nguyên Sự Nghĩa, Đại Phương Tiện Phật Báo Ân Kinh Chú Giải, Địa Tạng Bổn Nguyện Kinh Chú Giải, Hoằng Giới Đại Học, Giáo Tập Tam Tạng Mục Lục, Giáo Tập Tam Tạng Pháp Sở. Tất cả những tác phẩm này đều bi thiêu hủy trong trận cháy nhà chứa kinh ngay bên chùa Từ Quang núi Đá Trắng

355 . Khánh Hòa, Huệ Quang và Khánh Anh.

356 . Thông điệp của tổng thống Ngô Đình Diệm gửi Quốc Hội ngày 17.4.1956

357 . “Phật giáo chưa có thời đại nào sống trong hòan cảnh phức tạp như ngày nay. Cho dầu Phật giáo không tự động mà cũng không ai có thể dùng Phật giáo và lực lượng chiến tranh lạnh hay chiến tranh nóng, nhưng do bản chất hòa bình thực sự mà trong thế giới ngày nay, ở các quốc gia thuộc khối trung lập thì Phật giáo có vẻ đắc địa, nhưng ỏ những xứ như nước chúng ta thì không khỏi có vẻ lúng túng và vật chất” (Trí Quang: Tư Tưởng Hệ Phật Giáo Việt Nam số 1, năm Bính thân, 1956).


358 . Phật Giáo Việt Nam số 1,năm Bính thân, 1956)

359 . da Và nền Hòa Bình Thế Giới. Phật Giáo Việt Nam số 28, tháng 4, năm Kỷ hợi, 1959.

360 . Bài báo vừa dẫn.

361 . Hé lè ne Tournaise:Livre Jaune Du Việt nam. Perrin, 1965, trang 283

362 . Phật Giáo Việt Nam số 2, năm Bính thân, 1956. Đã được trích dẫn trong chương trước.

363 . Cuốn Chín Năm Máu Lửa Dưới Chế Độ Ngô Đình Diệm của Nguyệt Đam và Thần Phong do các tác giả xuất bản năm 1964 tại Sài Gòn là một trong những tài liệu đúng đắn nhất, trang 287-288.

Đại úy Không quân Huỳnh Minh Đường nhận lệnh này ngày 5.10.1963 nhưng đã từ chối không thi hành lệnh và đã lái máy bay qua tị nạn ở Căm Pu Chia




364 . Chín Năm Máu Lửa Dưới Chế Độ Gia Đình Trị Ngô Đình Diệm, Sài Gòn, 1964, trang 287-288.

365 . Những tạp tài liệu này đã được thiền sư Nhất Hạnh, hồi này đang dạy học ở trường Đại Học Columbia ở Nữu Ước, chuyển tới ông chủ tịch Hội Đồng Liên Hiệp Quốc và tất cả các vị đại sứ có mặt tại đó vào tháng 9 năm 1963.

366 . Chi tiết về những vụ này có thể tìm trong sách Phật Giáo Tranh Đấu Sử của Quốc Oai (Sài Gòn 1963, Tân Sanh xuất bản) và sách Công Cuộc Tranh Đấu Của Phật Giáo Việt Nam của Quốc Tuệ (Sài Gòn 1964, tác giả xuất bản).

367 . Tạp chí Phật Giáo Việt Nam số 7, năm Đinh dậu, 1957, trang 63


368 . Joseph Buttinger: Vietnam A Dragon Entattled, tập II

369 . Robert Guillain. Le Monde, Paris, 6.4.1961.


370 . Tạp chí Phật Giáo Việt Nam số 8, năm Đinh Dậu, 1957, trang 47.


371 . Chính H.S. Olcott là người dã khuyến khích và ủng hộ triệt để đại đức Dharmapala trong việc phát khởi phong trào Phục Hưng Phật Giáo Ấn Độ và Tích Lan vào khoảng năm 1985.

372 . Informatión Catholiqué Internationales. Paris, số 188, ra ngày 15.3.1963.

373 . ngày Phật Đản từ năm 1958, đã được Tổng Hội Phật giáo Việt Nam đổi từ ngày mồng tám tháng Tư thành ngày trăng tròn tháng Tư để cho được thống nhất với các nước Phật giáo trên thế giới.

374 . Đọc toàn văn bản Tuyên Ngôn trong danh sách Công Cuộc Tranh Đấu, Của Phật Giáo Việt Nam do Quốc Tuệ biên soạn, Sài Gòn, 1964.

375 . Đọc toàn văn bản Phụ Đính trong sách Công Cuộc Tranh Đấu Của Phật Giáo Việt Nam. Quốc Tuệ, Sài Gòn, 1964.

376 . Nguyên văn trong sách vừa dẫn.


377 . Sau đây là những thành viên khác của Ủy Ban Liên Phái Bảo Vệ Phật Giáo: các thiền sư Thiện Hoa, Tâm Giác và Bửu Chơn (ba vị phó chủ tịch, thiền sư Huyền Quang (văn phòng trưởng), thiền sư Quảng Liên (ủy viên nhân sự), các thiền sư Minh Trực, Trí Quang, Pháp Tri, Lâm Em, Thiện Minh và Thanh Thái (sáu vị cố vấn), thiền sư Đức Nghiệp (ủy viên ngoại giao), thiền sư Quảng Độ (phụ tá ngoại giao), thiền sư Giác Đức (ủy viên nội an kiêm giảng huấn), thiền sư Chánh Lạc (thư ký), thiền sư Hộ Giác (phụ tá giảng huấn) và cư sĩ Chánh Trí Mai Thọ Truyền (tổng thư ký).

378 . Đọc nguyên văn ở sách Việt Nam Phật Giáo Tranh Đấu Sử, do Tuệ Giác xuất bản, Sài Gòn, 1964, trang 139.

379 . Công Cuộc Tranh Đấu Của Phật Giáo Việt Nam. Quốc Tuệ, Sài Gòn, 1964, trang 94-96.

380 . Sau đây là nguyên văn bản Thông Cáo Chung:

“Để giải quyết ổn thỏa năm nguyện vọng do Tổng Hội Phật giáo Việt Nam đưa ra; Ủy Ban Liên Bộ gồm có:

Phó tổng thống Nguyễn Ngọc Thơ

Nguyễn Đình Thuần, bộ trưởng tại Phủ Tổng Thống

Bùi Văn Lượng, bộ trưởng Nội Vụ

và Phái Đòan Phật giáo gồm có:

Thượng tọa Thích Thiện Minh, trưởng Phái Đoàn

Thượng tọa Thích Tâm Châu, đoàn viên

Thượng tọa Thích Thiện Hoa, đoàn viên

Thượng tọa Thích Huyền Quang, thư ký

Đại đức Thích Đức Nghiệp, phó thư ký

(do thơ giới thiệu của Hội chủ hòa thượng Thích Tịnh Khiết số 24 tháng 6 năm 1963), đã họp tại Hội Trường Diên Hồng ngày thứ sáu 14.6.1963:

sáng từ 9 giờ 00 đến 12 giờ 00

chiều từ 15 giờ 00 đến 18 giờ 00

ngày thứ bảy: 15.6.1963:

sáng từ 9 giờ 00 đến 11 giờ 00

chiều từ 14 giờ 30 đến 17 giờ 00

đêm từ 21 giờ ông đến 24 giờ 00

và ngày chủ nhật 16.6.1963:

từ 0 giờ 00 đến 1 giờ 30

Sau khi thảo luận, Ủy Ban Liên Bộ và Phái Đoàn Phật Giáo đã thỏa thuận các điểm sau đây:

I- Quốc Kỳ - Đạo Kỳ

Quốc kỳ tượng trưng cho Linh Hồn Dân Tộc, phải được luôn luôn tôn trọng và phải được đặt đúng vị trí.

A- Lễ Quốc gia: Chỉ treo cờ Quốc gia.

B- Lễ Phật giáo:

1. Tại chùa: Quyền Môn, Cổng Chùa, Cột lớn giữa sân chùa. Mặt tiền chùa, Cờ Quốc gia bên phải, Cờ Phật giáo bên trái, nhỏ hơn (hai phần ba)

* Cờ rủ: Cờ Phật giáo mà thôi

* Sân chùa (để trang hoàng) mắc trên dây: toàn cờ Phật giáo, bằng giấy cỡ nhỏ

* Trong chùa: chỉ treo cờ Phật giáo 

2. Lễ đài:

* Chân đài và chung quanh: Cờ Quốc gia bên phải, Cờ Phật giáo bên trái, nhỏ hơn (hai phần ba)

* Trên đài (có thể coi như là trong chùa): Chỉ treo cờ Phật giáo 

3. Đám rước:

* Đi trước:

Nếu chỉ một người đi trước, cầm hai cờ: Quốc gia bên phải, Phật giáo bên trái, nhỏ hơn (hai phần ba)

Nếu có hai người đi trước, mỗi người cầm một, cũng theo thể thức trên.

* Phía sau: Tín đồ chỉ cầm một cờ Phật giáo cỡ nhỏ

4. Xe nhân vật Phật giáo: Không treo cờ gì cả

5. Tư gia:

* Trước nhà: Hai cờ như trước chùa

* Trong nhà: Chỉ treo cờpg

Để áp dụng đúng đắn các khoản trên đây, cần quy định:

Cờ treo bên phải: (phải) từ ngoài lộ trông vô chùa

Cờ nhỏ hơn: (nhỏ) là bằng hai phần ba cờ quốc gia (các cán bộ không nên quá khắc khe về kích thước)

II. Dụ số 10.

Tách hiệp hội có tính cách tôn giáo ra khỏi Dụ số 10 và lập một quy chế hợp với tính cách đặc biệt về nhu cầu sinh hoạt của những Hiệp Hội Tôn Giáo ấy.

Quy chế đó sẽ là một đạo luật do Quốc hội soạn thảo với sự tham khảo trực tiếp ý kiến các tôn giáo liên hệ.

Quốc hội sẽ biểu quyết Đạo luật này chậm lắm là cuối năm 1963 hoặc đầu năm 1964. Trong khi chờ đợi ban hành Đạo luật mới. Ủy Ban Liên Bộ đồng ý sẽ có những chỉ thị cần thiết để Dụ số 10 không áp dụng quá khắc khe đối với các hội Phật giáo, Phật học hiện hữu. Phái đoàn Phật giáo cam kết chỉ thị cho các tăng ni chấp hành nghiêm chỉnh luật pháp quốc gia và thi hành mọi biện pháp kỷ luật nội bộ đối với những hành động lệch lạc.



tải về 5.52 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   ...   41   42   43   44   45   46   47   48   49




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương