Tiểu Luận Về Khoa Học Và Triết Học Nguyễn Tường Bách Nhà Xuất Bản Trẻ tp. Hcm 2004


HAI TRƯỜNG PHÁI DUY THỰC VÀ CÔNG CỤ TRONG THỜI ĐẠI MỚI



tải về 1.29 Mb.
trang13/18
Chuyển đổi dữ liệu24.04.2018
Kích1.29 Mb.
#37087
1   ...   10   11   12   13   14   15   16   17   18

HAI TRƯỜNG PHÁI DUY THỰC VÀ CÔNG CỤ TRONG THỜI ĐẠI MỚI


Như chúng ta đã biết, vấn đề lớn nhất của triết học là câu hỏi, thế giới này từ đâu mà có, thực chất của nó là gì. Nhà triết học băn khoăn thế giới này có thật hay không, tự tính của nó là gì. Ngược lại, phần lớn các nhà vật lý đều tự động hiểu thế giới tồn tại độc lập với con người, ý thức con người có thể hiểu được thế giới đó, thế giới chính là đối tượng nhận thức của vật lý. Những người đó đều theo quan niệm duy thực cả.

Trong lịch sử nhận thức, bản thân phái duy thực cũng có nhiều bước phát triển, từ thô sơ đế tinh tế. Phần lớn con người đều cho rằng thế giới mình thấy chính là thực tại. Hoa lá cỏ cây trong vườn chính là thực tại độc lập. Họ cho rằng khi mắt thấy sắc, tai nghe tiếng, thì đó chỉ là những giác quan thụ động. Màu sắc và âm thanh có thật trong thiên nhiên đúng như họ cảm nhận. Đó là quan niệm “duy thực giản đơn”.

Thế nhưng chỉ cần suy nghĩ xa hơn một chút, ta sớm thấy màu sắc hay âm thanh ta nghe là sự cảm nhận của con người, còn thực tại tự nó phải là một cái gì khác. Nếu cho rằng thực tại tự nó là một cái gì có thật, độc lập, nằm sau bức màn của hiện tượng thì ta thuộc về trường phái “duy thực siêu việt”. Theo trường phái này, muốn nhận thức được thực tại, con người phải vượt lên hiện tượng do giác quan mang lại, mới hòng đạt được nó.

Còn nếu ta nghĩ màu sắc âm thanh là do giác quan cảm nhận, nhưng cái có thật và độc lập với giác quan là những thể tính vật lý như sóng ánh sáng, sóng diện từ, sóng âm thanh... thì như thế ta có quan niệm của “duy thực khoa học”.

Từ xưa đến nay, quan niệm duy thực khoa học ngự trị trong đầu óc của nhà vật lý. Trong các giáo trình, điều đó hiển nhiên tới mức mà người ta cũng không mấy khi tháo luận đề tài này. Đối với họ những khái niệm cơ bản như khối lượng, lực, năng lượng, điện tích, sóng âm thanh... đều là có thật trong thiên nhiên. Nhà duy thực khoa học cho rằng, lý thuyết của vật lý nói lên sự vận hành đích thực của sự vật trong thiên nhiên. Nó nói về bản chất của sự vật, nó có tính bản thể học.

Trong quá trình phát triển của vật lý, các khái niệm nói trên cũng không đứng yên, nội dung của chúng bị thay đổi theo. Thí dụ những mô hình hay khái niệm mới được phát sinh, như không gian cong trong thuyết tương đối hay electron, các hạt cơ bản trong vật lý hạt nhân. Thế nhưng nhà duy thực vẫn dễ dàng thay đổi theo, họ cho rằng mình đã tinh tế hoá các khái niệm và tin rằng có không gian cong, có electron thực sự. Thậm chí một thời người ta tưởng có chất ê-te; và nhiều mô hình cũng như lý thuyết được xây dựng trên tính chất của một chất liệu ê-te giả định. Ngày nay vật lý khẳng định không có chất ê-te giả định. Ngày nay vật lý khẳng định không có chất ê-te trong thiên nhiên, tất nhiên các mô hình đó bị đào thải.

Trong khoảng giữa thế kỷ 20, lúc mà người ta háo hức sắp khẳng định đâu là những chất liệu cuối cùng tạo nên thế giới vật chất thì lạ thay,  bộ mặt thật của một thực tại khách quan bỗng nhiên lu mờ. Sự phát hiện các qui luật trong cơ học lượng tử làm cho người ta đặt lại vấn đề. Đó là thiên nhiên được quan sát dường như không phải là một thực tại độc lập mà nó đang tương tác với ý thức vốn đã tra hỏi về nó. Những đơn vị cuối cùng của thế giới vật chất như nguyên tử, các hạt cơ bản... hành xử rất kỳ lạ. Chúng có nhiều bộ mặt và tính chất hoàn toàn mâu thuẫn lẫn nhau, nếu lấy phép tư duy thông thường của chúng ta mà xét. Heisenberg nói: “Nguyên tử không phải là vật”. Bohr, nhà vật lý lượng tử xuất sắc, tổng kết sau nhiều năm làm việc với nền khoa học này: “Không hề có một thế giới lượng tử, chỉ có một sự mô tả lượng trừu tượng”. Với nhận định này, Bohr cũng như trường phái Copenhagen đã từ bỏ thái độ duy thực trong khoa học mà lấy thái độ công cụ. Đó là thái độ xem lý thuyết chỉ là phương tiện để giải thích hiện tượng, nó không thể nói gì về tự tính của hiện tượng, nó không thể nói gì về tự tính của hiện tượng, tự tính của thế giới.

Trong quan niệm công cụ, tất cả mọi khái niệm vật lý như khối lượng, năng lượng, điện tích, sóng, hạt... đều chỉ là cấu trúc của tư duy. Theo triết gia xuất sắc nhất hiện nay của phái công cụ – Basvan Fraassen – thì “mục đích của khoa học là cho ta những lý thuyết tương thích với thực nghiệm; và khi chấp nhận một lý thuyết tức là tin rằng nó tương thích với thực nghiệm. Một lý thuyết là tương thích chính xác với thực nghiệm nếu những gì nó nói về những vật thể và biến cố quan sát được trong thế giới là đúng đắn”.

Các lý thuyết hay cụ thể hơn, các khái niệm vật lý chỉ là “công cụ” của tư duy nhằm mô tả một cách thuận tiện nhất các hiện tượng trước mắt. Thực tế là các lý thuyết và các khái niệm bị thay đổi liên tục, nhất là trong thế kỷ 20, nên quan niệm công cụ ngày càng được chấp nhận. Thí dụ, khối lượng trong thời đại Newton được hiểu như một chất liệu hoàn toàn cứng nhắc, không thay đổi theo thời gian và không gian. Ngày nay, trong vật lý tương đối, khối lượng được xem là năng lượng đang “đứng yên”. Trong vật lý hạt, tính cứng chắc của vật thể được xem là hệ qủa của tương tác điện từ.

Nền vật lý hiện đại cho thấy, ta có thể giải thích một hiện tượng duy nhất bằng nhiều mô hình khác nhau và điều đó làm quan niệm công cụ thêm thuyết phục. Các khái niệm cổ điển của vật lý dần dần được thay đổi về nôi dung, thậm chí bị xem xét lại một cách cơ bản. Nhà vật lý đoạt giải Nobel, Richard Feynman, cho thấy mọi sự đều “có thể hiểu như là các nguyên tử đang tương tác với nhau đúng theo qui luật của vật lý”. Ông còn cho rằng qui luật bảo toàn năng lượng – một qui luật được xem như “bất khả xâm phạm” trong ngành vật lý – chỉ là một nguyên lý toán học, chủ không phải là “sự mô tả cơ học hay bất cứ cái gì cụ thể cả”. Ông còn đi xa hơn và nói rằng “Thật là quan trọng khi biết rằng, trong nền vật lý ngày nay, chúng ta không biết năng lượng là gì cả”. Cả Feynman cũng xem năng lượng chỉ là một sự trừu tượng. Đã thế thì qui luật bảo toàn năng lượng còn có nghĩa gì? Nhà thiên văn danh tiếng Sir A. Eddingdon cho rằng “Trong thế giới bên ngoài không có qui luật nào có khuynh hướng gìn giữ không cho thay đổi các thực thể nằm trong đó; nhưng ý thức (con người) trong lúc miệt mài tìm hiểu đã lựa ra những cấu trúc khả dĩ, chúng chỉ có tính bất biến trong các cấu trúc này, và bằng cách cho chúng một trị số, bằng cách bỏ qua những cái còn lại, ý thức đã dựng lên một qui luật bảo toàn các trị số đó”.

Trong nền vật lý hiện đại, khi con người đang nêu lên những mô hình mới nhất về thế giới và vũ trụ, người ta bắt đầu thấy các khái niệm cũ về vật chất dường như ngày càng mất giá trị. Khi đã thấy rằng thế giới mà ta đang nhận thức, kể cả thế giới cực tiểu cũng như dực đại chỉ là phản ánh của một thực tại to lớn lên trên thế giới với không gian ba chiều của con người, thì nhiều nhà vật lý phân vân không biết liệu con người – với không gian ba chiều và cách tư duy đặc biệt do không gian đó sinh ra – ngày nào đó có thể nhận thức được thực tại như nó là hay không. Liệu các khái niệm vật lý có tính bản thể, thực sự hiện hữu trong thiên nhiên hay chúng chỉ là do con người bày ra. Nói cách khác, quan niệm duy thực đang bị thử thách nặng nề và thái độ công cụ dần dần được nhìêu người thừa nhận.

Về mặt lịch sử thì thuyết công cụ có sự tương đồng nhất định với quan niệm thực chứng mà người sáng lập được xem là triết gia người Pháp, A. Comte. Theo Comte, đối tượng của khoa học chỉ được hạn chế trong những hiện tượng có thực, cái có thực, rõ rệt được kinh nghiệm thừa thận, được xem là vật khách quan đích thực. Mô hình, lý thuyết hay công thức khoa học chỉ có thể được xây dựng trên các khái niệm đó thôi. Tất cả mọi khái niệm có nguồn gốc siêu hình, không thể kiểm chứng, chúng không có chỗ đứng trong khoa học. Trong thế kỷ 19 và 20, quan niệm thực chứng có nhiều ảnh hưởng trong giới vật lý mà nhà khoa học người Áo, Mach, là một đại biểu nổi tiếng.

Thuyết công cụ và thuyết thực chứng chỉ quan tâm đến những hiện tượng có thể quan sát được, không chủ trương đi tìm “tự tính” của sự vật nên có nhiều điểm tương đồng. Thậm chí có nhiều người sử dụng lẫn lộn hai từ này. Hiện nay, nhiều người xem là thuyết thực chứng đã được thuyết công cụ thay chỗ khi nói về một chủ trương nhất định trong ngành vật lý. Chủ trương đó là không quan tâm đền tự tính của thực tại nữa, mà xem mọi lý thuyết và mô hình chỉ là phương tiện của đầu óc nhằm lý giải hiện tượng.

Trong thời đại hiện nay nhà vật lý được xem là xuất sắc nhất là Stephen Hawking. Hawking cùng viết chung một cuốn sách với một nhà vật lý nổi danh khác là Roger Penrose. Trong tác phẩm nổi tiếng này, ông tranh luận với đồng tác giả cuốn sách – và cũng là một người bạn thân mến – về vật lý và thực tại. Hawking nói: “... sự khác biệt giữa Roger và tôi hết sức rõ ràng. Anh ta là một người theo phái Plato còn tôi là một người theo quan niệm thực chứng. Anh ta lo lắng cho con mèo Schrödinger ở trong một trạng thái lượng tử, nơi đó nó nửa sống nửa chết. Thế nhưng điều này không làm phiền tôi. Tôi không đòi hỏi một lý thuyết phải ăn khớp với thực tại vì tôi không biết thực tại là gì cả. Thực tại không phải là một mức độ mà bạn có thể thử nghiệm với que thử bằng giấy. Tất cả mọi thứ mà tôi quan tâm là lý thuyết phải tiên đoán được kết quả của sự đo lường. Thuyết lượng tử thực hiện được điều này rất thành công...”.

Thế nên, trong khung cảnh mới mẻ của vật lý hiện đại, tư tưởng I.Kant – xem con người không thể nhận thức được “sự vật tự nó” một cách khoa học, thế giới chỉ là hiện tượng xuất hiện ra với con người – trở lại với khoa học hiện đại như ánh sáng soi đường. Tư tưởng của Kant ngày nay trở thành nền tảng triết lý của chủ thuyết công cụ trong khoa học. Đó là một quan niệm hết sức khiêm tốn cho rằng, con người chúng ta chỉ nhận thức và lý giải được thế giới hiện tượng đang trình hiện trước mắt ta. Còn tự tính của thế giới đó là gì, tầm nhìn của con người không thể vươn tới.

---o0o---


CÁI BIẾT VÀ CÁI THẤY


Thái độ “công cụ” trong khoa học xem mọi lý thuyết, khái niệm vật lý đều là do tư tưởng của con người bày ra để diễn đạt thiên nhiên, chúng không nhất thiết phải là bản chất của thực tại. Chủ trương này mới nghe qua có vẻ hiền lành và khiêm tốn nhưng thật ra nó chứa đựng một nội dung rất sâu sắc và triệt để.

Thật ra, đứng sau thái độ công cụ có nhiều loại tư duy khác nhau về triết học. Tất cả đều công nhận lý thuyết và mô hình chỉ để lý giải hiện tượng chứ không nói lên bản chất của hiện tượng. Thế nhưng cũng có hai trường phái chính trong chủ thuyết công cụ, “mềm dẻo” và “cứng rắn”.

Trường phái thứ nhất cho rằng, tuy ta không nắm bắt được tự tính của hiện tượng nhưng hiện tượng vẫn là một thể khách quan. Trường phái thứ hai thấy rằng hiện tượng cuối cùng đều chỉ là sự phản ánh của tư duy con người, chứ không gì khác cả. Trong khuynh hướng thứ hai, có nhiều nhà khoa học nghiêm túc đặt câu hỏi, giữa giấc mộng và “thực tại” có cái gì khác, cái gì giống. Nơi đây, câu trả lời là, cái giống nhau giữa giấc mộng và thực tại là cả hai đều có tác động lên con người. Còn cái khác nhau là, giấc mộng thì chỉ có một người thấy, còn “thực tại” thì nhiều người thấy. Thế thì phải chăng cái được gọi là “khách quan” chỉ là cái được nhiều người cùng thấy? Và câu hỏi quyết liệt tiếp theo là phải chăng cái khách quan chẳng qua là một sự “tưởng tượng tập thể”? Suy nghĩ này làm ta nhớ tới khái niệm “cộng nghiệp” của Duy thức tông trong Phật giáo.

Quan niệm xem khách quan “là phản ánh của nhận thức” nói trên tuy xa lạ với nền vật lý cổ điển nhưng thật ra đã hiện diện từ lâu tại phương Tây. Đó là quan điểm cho rằng thế giới mà con người nhận thức được chỉ là hình ảnh của chính bản thân con người. Henri Poincaré, một nhà toán học lớn của Pháp, người được xem là nhà bác học “vạn năng” – xuất sắc trong mọi ngành kho học và triết học – cuối cùng của thế kỷ 20, một người thuộc phái công cụ, đã ví chúng ta như những người tiền sử ngồi trong hang động. Họ nhìn bóng hình mình do ánh sáng bên ngoài chiếu lên vách hang và cho những hình bóng đó là “thế giới khách quan”. Ẩn dụ của Poincaré đã quá rõ ràng thế giới chỉ là tâm thức của con người đang phản chiếu.

Đối với quan niệm công cụ, câu hỏi của bản thể học “bản thân thế giới là gì” không quan trọng, thậm chí vô nghĩa. Poincaré cho rằng “một thực tại hoàn toàn độc lập với tinh thần mà tinh thần lại nhận thức nó, thấy nó hay cảm nó, nếu nó có thật, thì chúng ta cũng không bao giờ tiếp cận được”.

Trong nền vật lý hiện đại, khi con người bắt đầu cảm nhậtn rằng, phải chăng thực tại là một thể tính nằm “cao” hơn không gian ba chiều của chúng ta, phải chăng thế giới mà ta cảm nhận chỉ là sự phản ánh của thể tính đó trong không gian của loài người, quan niệm công cụ trong khoa học dần dần được coi trọng. Con người bắt đầu thấy rằng, khi nhìn thế giới “bên ngoài”, ý thức đóng một vai trò quan trọng chứ không hoàn toàn thụ động. Ta nhớ rằng, trong thời Trung cổ, con mắt được xem như một chiếc hộp tí hon và hoàn toàn thụ động, nó “in” hình ảnh của thế giới bên ngoài lên thần kinh thị giác. Ngày nay hình ảnh về con mắt đã khác hơn xưa.

Trong khoảng thế kỷ 19, vai trò thụ động của con mắt đã biến mất. Người ta sớm biết rằng, thế giới “thực có” ở bên ngoài chỉ là nguyên tử, phân tử, hạt và sóng; và chính con mắt là nhân tố cảm nhận màu sắc và “làm nền” màu sắc. Tương tự như thế, ý thức con người nói chung – và sản phẩm của ý thức là các lý thuyết và mô hình vật lý nói riêng – không phải là nơi thu nhận và tổng kết một cách thụ động hình ảnh của “bên ngoài” mà là tác nhân đưa đường dẫn lối cho ta “thấy” thế giới hiện tượng. Cả các nhà vật lý duy thực cũng phải dần dần thừa nhận vai trò tích cực của ý thức con người trong các lý thuyết vật lý. Chính Einstein, nhà duy thực kiên trì nhất của thế kỷ 20 đã chỉ cho Heisenberg – lúc Heisenberg mới là một nhà khoa học trẻ và đại diện cho quan niệm thực chứng, chỉ quan tâm đến những gì “quan sát được” – rằng “chính lý thuyết là yếu tố quyết định con người quan sát được những gì trong thiên nhiên”. Nơi đây ta thấy tính biện chứng hết sức đối xứng trong vật lý. Đó là lý thuyết được xây dựng từ thông tin, kinh nghiệm, trị số đo lường trong thiên nhiên; và ngược lại, lý thuyết lại là yếu tố cho phép ta đo lường và xem xét những gì của thiên nhiên. Cần nói thêm, bản thân các thiết bị đo lường, nhất là trong ngành vật lý hạt, đều được suy nghiệm và triển khai từ lý thuyết và mô hình cả.

Một trong những vấn đề gây khủng hoảng trong nhận thức luận của vật lý ngày nay là vai trò của ý thức con người đối với thiên nhiên. Nó thụ động hay chủ động; và nếu chủ động thì chủ động đến mức nào. Ý thức chỉ là tác nhân tiếp nhận thôi hay nó tác động lại lên thiên nhiên. Câu hỏi ngược lại, thế thì thiên nhiên là gì, thiên nhiên “tự nó” là gì, sự vật là có hay không có. Cuối cùng phạm trù “có-không” lại hiện nguyên hình buộc cộng đồng vật lý phải trả lời. Đây lại là luận đề mà con người nêu lên từ nhiều ngàn năm trước, câu hỏi về “cài đầy và cái không”.

Thế nhưng cái  khác vói thời kỳ của Plato và Aristotle là ngày nay người ta đã tìm đến với những đơn vị nhỏ nhất của vật chất, của cái mà người ta cho là “có”. Và tại đơn vị cơ bản nhất của cái “có”, tức là lĩnh vực của thế giới hạ nguyên tử, người ta thấy vật chất dường như vừa có vừa không. Vật chất có hai mặt, mặt sóng và mặt hạt. Ngày nay sóng được hiểu là “khả năng” xuất hiện của sự vật, còn hạt là sự vật đã xuất hiện thật, khi sự vật bị con người quan sát. Đây là cốt tủy cách diễn dịch cơ học lượng tử của trường phái Copenhage, cách diễn dịch được thừa nhận nhất hiện nay.

Cách diễn dịch này làm quan hệ “có-không” thêm phức tạp. Như thế phải chăng “có” là do con người quan sát mới có. Phải chăng khi không có cái tôi quan sát thì không có sự vật? Điều này cũng hết sức vô lý, xem ra không thể chấp nhận được. Con mèo của Schrödinger nếu không ai quan sát nó thì phải chăng nó vừa sống vừa chết? Trước thế kỷ 20 không có nguyên tử lẫn electron vì chưa ai biết đến chúng?

Các phạm trù “có, không”, “khách quan, chủ quan”, “vật chất, ý thức”, “khả năng, hiện thực” ngày nay tụ hội trong ngành vật lý một cách tinh tế, sâu sắc và gay gắt. Chúng là những phạm trù triết học cơ bản nhất của con người, chúng đã được sinh ra từ ngày con người biết suy tư. Xưa nay, trả lời những câu hỏi xung quanh từng vấn đề này tức là nêu lên hẳn cả một trường phái tư tưởng. Với ngành vật lý, dần dần con người đã tiếp cận triết học bằng cách nêu lên những phạm trù này, nhưng xuất phát từ một tầm nhìn khác. Trong thời đại mới, triết học và khoa học gần nhau tới mức chúng không còn có thể được phân biệt. Song song, các phạm trù mới này cũng có nhưng nội dung rõ nét hơn với những phát hiện quan trọng của vật lý. Trong triết học những mặt mâu thuẫn nói ở trên tưởng như chỉ là trò chơi của tư duy thuần túy. Nay, với cách đặt vấn đề mới của vật lý, chúng trở thành phép nhận thức cụ thể, cách xem xét vật chất đang vận động trước mắt con người.

Ngoài ngành vật lý với những phát hiện về những tính chất lạ lùng của vật chất trong thế giới vi mô, con người còn đến với những nhận thức mới trong ngành thể chất học. Đó là một ngành khoa học mới mà đối tượng của nó là mối liên hệ giữa thân và tâm, sự hình thành của cái thấy, cảm xúc, nhận thức, tư duy. Ngành khoa học ngày nay đã trở thành một lĩnh vực không thể không viết đến, khi tìm hiểu về vật lý và triết học. Nó chính là cầu nối giữa một bên là “vật chất”, bên kia là “tinh thần”, giữa khách thể và chủ thể. Trong thời đại này người ta tìm thấy vô số công trình, tài liệu… về ngành thể chất học và hầu như không ai có được một tầm nhìn toàn thể, có tính chất kết luận về đề tài này. Thế nhưng, nhìn chung, người ta đi đến với sự nhất trí rằng, mối liên hệ giữa thân và tâm là phức tạp hơn hẳn so với những gì người ta biết đến trong những thế kỷ trước, chúng có một mối quan hệ mật thiết và có tính chất “tương tác” lẫn nhau. Kết luận quan trọng nhất là tâm không phải là một thể thụ động, chò đợi vật chất tác động lên, mà nó “tương tác” với vật chất để sinh ra mọi cái mà ta gọi là nhận thức, cảm xúc, tư tưởng.

Cái gì làm ta thấy ly sữa là ly sữa chứ không phải là một thế giới như các vi sinh vật có thể thấy? “Ý niệm” về ly sữa hẳn phải có khi ta thấy ly sữa. Thế nhưng ý niệm đó có từ bao giờ, từ ngày ta còn là một trẻ sơ sinh? Một khán giả không có “ý niệm” về lỗi việt vị trong bóng đá sẽ không bao giờ “thấy” lỗi  việt vị. Thế thì phải chăng ý niệm có trước, cái thấy có sau? Cái thấy do dâu mà có, nó đến từ “vật chất bên ngoài” hay từ “ý niệm bên trong”? Ý niệm là một thế giới khách quan thực có hay nó có tính chủ quan của mỗi người? Và nếu nó là chủ quan thì ta là tiên nhiên có trước hay sau khi con người sinh ra, do cha mẹ và môi trường giáo dục? Nơi đây, ta gặp những quan niệm cổ điển nhất của Plato và những phát hiện mới mẻ nhất trong khoa học.

Peter Medawar, giáo sư y khoa lãnh giải Nobel y học năm 1960, nhắc ta đừng quên rằng, “… những gì (con người) thấy mới đầu không chuyển tải thông tin gì cả, mãi cho đến lúc nó biết những gì nó chờ đợi sẽ thấy”. Con người biết trước khi nó thấy, nó thấy những gì nó muốn thấy. Điều này làm ta nhớ đến ý nghĩa những gì Einstein nói với Heisenberg: “chính lý thuyết là yếu tố quyết định con người quan sát được những gì trong thiên nhiên”. Niels Bohr cũng nói điều tương tự khi phát biểu: “… Trên tất cả mọi thứ, chúng ta phải nhớ và xem như một điều hiển nhiên rằng, mọi kinh nghiệm mới mẻ hiện ra cho chúng ta trong khuôn khổ của những quan niệm và củng những dạng nhận thức quen thuộc”.

Thật ra, nhận thức của Medawar không phải mới mẻ, cái mới chỉ vì ông là một giáo sư y khoa, vốn được các nhà khoa học trọng vọng hơn, nếu so với “người điên” Nietzsche. Triết gia người Đức Nietzschem đã từng viết: “mọi thứ mà ta ý thức được đều đã được thu xếp, giản lược, cho vào khuôn khổ, được lý giải”.

Cái biết nội tâm và thông tin từ ngoại cảnh tương tác với nhau để sinh ra nhận thức, đó là kết luận xem ra được thừa nhận nhất hiện nay trong khoa học. Thông tin ngoại cảnh (như sóng hay hạt) đến với ta, chạm vào các giác quan như mắt, tai. Các giác quan này tương tác với những thông tin đó mà sinh ra màu sắc, âm thanh hay cảm xúc nóng lạnh.

Thiết bị đo lường của con người thật ra cũng thế. Có thể chúng là nhiệt kế, thiết bị đo áp suất hay đo hiệu điện thế nhưng tất cả chúng đều tương tác với thông tin bên ngoài và tùy theo cấu trúc bên trong của chúng mà sinh ra những con số hay dấu hiện nhất định. Rồi con người đọc những con số và dấu hiệu đó và lý giải theo cách mà con người hiểu biết về sự vật. Thế nên những tương tác giữa con người và ngoại cảnh cũng có nhiều tầng lớp khác nhau, được xây dựng trên nhiều quá trình “trao đổi” khác nhau. Trong thế giới hạ nguyên tử, vấn đề lại càng rắc rối hơn. Khi con người không thể tận mắt thấy được các hạt vật chất tí hon, khi con người phải phụ thuộc vào nhiều thiết bị mà bản thân của chúng cũng được cấu tạo bởi nhiều tầng tương tác thì ta càng không được quên rằng mọi nhận thức đều nhuộm tính chủ quan của người nhận thức và của cấu trúc nội tại của thiết bị đo lường.

Bởi thế, nơi đây ta có thể lý giải một cách giản lược về sự nghịch lý của sóng và hạt. Đó là ta phải xem thực tại là một thể chẳng phải sóng chẳng phải hạt và nó xuất hiện bằng cách tương tác với thiết bị. Khi thiết bị chỉ có thể “thấy” sóng thì thực tại xuất hiện với tính chất của sóng và ngược lại.

Vài trò chủ động của cái biết, của ý thức, của quan sát viên khi nhận thức thế giới ngày nay đã được khoa học thừa nhận. Kể cả thiết bị cũng thế, nó được xem là sự tinh tế hóa của người nhận thức, là cánh tay nối dài của quan sát viên.

Với những phát hiện trên, ngành thể chất học đã đặt lại vấn đề khách thể và chủ thể, một vấn đề quan trọng nhất của triết học phương Tây và là then chốt trong khoa học kể từ Descartes. Màu sắc, âm thanh, nóng lạnh… vốn được xem là khách quan thì nay bị đưa vào phạm trù chủ quan. Thế giới của chủ quan đang mở rộng phạm vi của mình về hướng hiện tượng. Đường phân cách giữa chủ thể và khách thể nay đã được vẽ lại. Ngày nay người ta còn đang xem nguyên tử và các hạt của chúng là khách thể. Liệu chúng là khách thể tồn tại độc lập với con người, hay chúng cũng thuộc chủ thể nốt; hay liệu chúng chỉ là sản phẩm của đầu óc con người; hay tất cả thế giới đều là hoạt động của tư duy. Tất cả những câu hỏi này đều là những luận đề thú vị nhất, mà tại đó triết học, vật lý, thể chất học, tâm lý học, bản thể học… đều đang tụ hội.

Trong vật lý hiện đại, con người vẫn tiếp tục nỗ lực nghiên cứu và phát minh ở mọi lĩnh vực, thế nhưng, người ta biết rằng, tình hình này đòi hỏi một sự bừng tỉnh lớn lao trong vật lý, một cuộc cách mạng về nhận thức. Chỉ một sự đảo lộn về tư duy mới họa chăng có thể giải quyết một lúc những mâu thuẫn nói trên.

---o0o---



Каталог: kinh -> Ebooks -> Thuyet-Phap -> Phat-Giao-Va-Khoa-Hoc
Phat-Giao-Va-Khoa-Hoc -> Minh Giác Nguyễn Học Tài Chùa Liên Hoa, California, usa ấn hành 1997 o0o MỤc lụC
Phat-Giao-Va-Khoa-Hoc -> PHẬt giáo và khoa học phúc Lâm Tủ Sách Đạo Phật Ngày Nay
Thuyet-Phap -> Trần TrúcLâm những hộ pháp vưƠng của phật giáo trong lịch sử ẤN ĐỘ
Thuyet-Phap -> Thiền sư khưƠng tăng hội nguyễn Lang o0o Nguồn
Thuyet-Phap -> VIỆt nam phật giáo sử luận nguyễn Lang Nhà Xuất Bản Văn Học Hà Nội 1979 o0o Nguồn
Phat-Giao-Va-Khoa-Hoc -> Dao Phat Sieu Khoa Hoc Minh Giac Nguyen Ngoc Tai
Phat-Giao-Va-Khoa-Hoc -> PHẬt giáo và khoa học phúc Lâm Tủ Sách Đạo Phật Ngày Nay
Phat-Giao-Va-Khoa-Hoc -> CHÁnh niệm và ĐẠO ĐỨc giao thoa giữa khoa học và tâm linh ở Mỹ

tải về 1.29 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   ...   10   11   12   13   14   15   16   17   18




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương