Tiểu Luận Về Khoa Học Và Triết Học Nguyễn Tường Bách Nhà Xuất Bản Trẻ tp. Hcm 2004



tải về 1.29 Mb.
trang2/18
Chuyển đổi dữ liệu24.04.2018
Kích1.29 Mb.
#37087
1   2   3   4   5   6   7   8   9   ...   18

LỜI GIỚI THIỆU


“Vũ trụ là gì, từ đâu mà có” là câu hỏi cổ xưa nhất của loài người. Đó là luận đề quan trọng nhất của khoa học tự nhiên và triết học mà có lẽ con người sẽ không bao giờ có một câu trả lời chung cuộc. Lịch sử tư duy của loài người cho thấy rằng, khoa học tự nhiên và triết học luôn luôn tìm cách lý giải vấn đề này, đi từng bước từ giản đơn đến phức tạp, từ thô sơ đến tinh tế. Hai ngành này cũng luôn luôn hỗ trợ cho nhau, làm tiền đề cho nhau để phát triển.

Trong thế kỷ thứ hai mươi, khoa học tự nhiên mà chủ yếu là ngành vật lý đã đến với những nhận thức vô cùng mới mẻ về thực tại vật lý. Người ta thấy rằng thực tại vật lý tưởng chừng như độc lập và khách quan nay phải được quan niệm như dạng xuất hiện của một thực tại khác, phức tạp hơn, nhiều kích chiều hơn. Ngành vật lý và triết học đứng trước những luận đề vô cùng kỳ lạ và thú vị. Trong khung cảnh đó, người ta thấy tư tưởng Phật giáo về vũ trụ và đời người có những giải đáp vừa rất bất ngờ vừa rất phù hợp với cách đặt vấn đề của khoa học hiện đại.

Ở tập sách này, tác giả Nguyễn Tưởng Bách trình bày lại các chặng đường quan trọng trong quá trình phát triển của ngành vật lý và triết học về khoa học tự nhiên của hơn 25 thế kỷ qua. Tác giả chú trọng đặc biệt đến sự phát triển của hai lý thuyết vật lý quan trọng nhất trong thế kỷ hai mươi, thuyết tương đối và thuyết lượng tử cũng như ý nghĩa triết học của chúng. Tác giả cho thấy nền vật lý và triết học phương Tây đang tiến đến một luận đề chung về bản thể học, đó là câu hỏi, thực tại trước mắt chúng ta là gì. Thế nhưng, phần đặc sắc nhất của cuốn sách này là những trình bày của tác giả về tư tưởng Phật giáo để lý giải thế giới hiện tượng. phần này nêu lên những nhận thức luận của lý thuyết Trung quán và Duy thức để trả lời những câu hỏi hiện đại của ngành vật lý về bản chất của thực tại vật chất. Trong phần này người đọc sẽ thấy tác giả mạnh dạn nêu những nhận thức và ẩn dụ hết sức mới lạ của Trung quán và Duy thức để cho thấy một sự đồng qui bất ngờ với những tri kiến và giả định của khoa học trong thời đại mới.

Tập sách này nói về các vấn đề phức tạp nhất của tư tưởng nên dĩ nhiên nội dung của nó không đơn giản. Thế nhưng, nếu đọc thử vài chương, người đọc sẽ thấy tác giả rất khéo trình bày các vấn đề khó hiểu của khoa học và triết học một cách sáng sủa và dễ hiểu. Tác phẩm này có ích cho những ai quan tâm đến triết học, khoa học tư tưởng Phật giáo. Tuy không đi sâu vào những chi tiết của các ngành vật lý và triết học nhưng tác phẩm này có thể cung cấp một cái nhìn chung cho những ai muốn nghiên cứu các luận đề được nêu lên trong tập sách.

Trân trọng giới thiêu cùng bạn đọc.

Nhà Xuất Bản Trẻ

---o0o---

LƯỚI TRỜI AI DỆT?


Tác giả    Nguyễn Tường Bách
Số trang   374 
Khổ sách   14,5 x 20, cm 
Giá bìa   38.000 đ 
Nhà xuất bản   Trẻ 
Năm xuất bản   2004 

Trong tập sách này, tác giả Nguyễn Tường Bách trình bày lại các chặng đường quan trọng trong quá trình phát triển của ngành vật lý và triết học về khoa học tự nhiên trong hơn 25 thế kỷ qua. Tác giả chú trọng đặc biệt đến sự phát triển của hai lý thuyết vật lý quan trọng nhất trong thế kỷ 20, thuyết tương đối và thuyết lượng tử cũng như ý nghĩa triết học của chúng. Chính những lý thuyết này sẽ giúp bạn đọc hiểu được mối liên hệ với triết học và tư tưởng Phật giáo ở phần sau.

Vẫn xoay quanh những câu hỏi muôn đời của loài người "vũ trụ là gì, từ đâu mà có?", "thực tại trước mắt chúng ta thực chất là gì?", "bản chất của thực tại vật chất là gì?"…, tác giả dẫn dắt chúng ta theo một hành trình từ vật lý đến triết học rồi gõ cửa và dừng chân ở tư tưởng Phật giáo để lý giải thế giới hiện tượng. "Cuộc sống là một dòng tâm thức bất tận, không đầu không đuôi… Hãy đơn giản hóa một đời thành một ngày. Đời này của chúng ta như là ngày hôm nay…"

Sách có ích cho những ai quan tâm đến khoa học, triết học và tư tưởng Phật giáo.

---o0o---

PHẦN THỨ NHẤT - NHỮNG NGƯỜI KHAI PHÁ MẢNH VƯỜN ĐẦY HOA


Hai ngàn năm trăm năm trước, Heraclitus, một triết gia Hy Lạp, nhìn dòng nước trôi và khẳng định: “Tất cả đều trôi chảy”. Cũng trong thời đại đó, Khổng Tử, một thánh nhân phương đông cũng nhìn dòng đời và cảm khái: “Tất cả đều trôi chảy thế này ư”.

Nhận thức rằng “sự vật đang biến dịch” là một kết luận lớn của con người, dù mới nghe qua nó không có gì vĩ đại cả. Đó là một trong những điều chủ yếu còn đọng lại sau nhiều suy tư sâu sắc, sau bao nhiêu quan sát và cảm nhận. Liệu có còn những kết luận cốt tủy hơn nữa về cuộc đời thiên hình vạn trạng, trong đó mỗi người một chứng nghiệm một cách riêng biệt? Trên thế giới với nhiều châu lục, nhiều nền văn hóa, nhiều cách nhận thức, nhiều quy tắc lễ nghi khác nhau, ta có thể có những kết luận chung về bản chất của con người và thiên nhiên hay không.

Những câu hỏi, những vấn đề trên sẽ đến với mỗi người, dù mới đầu chúng xem ra không thiết thực, không bức xúc. Thật ra những băn khoăn đó đều là những điều xưa như trái đất, cổ hơn lịch sử. Bao nhiêu thế hệ đã trôi qua trên địa cầu này, đến rồi đi như những đợt sóng, trong đó luôn luôn có nhiều người tự vấn, suy tư về những điều cổ xưa đó. Và cũng vô số người đã trả lời, mỗi người mỗi khác. Vì làm sao khác được, hễ có ý thức là con người biết hỏi, hễ có câu hỏi là có câu trả lời và có nhiều luận đề không ai giải đáp được một cách chung cuộc vì chúng không giản đơn, vì mỗi người chứng nghiệm cuộc đời một cách khác nhau.

Trẻ con đến tuổi nào thì bắt đầu “thấy” thể giới bên ngoài, vài tháng tuổi, hai ba tuổi hay bốn năm tuổi? Không ai biết đích xác điều đó. Không ai có thể nhớ ngày xưa mình bắt đầu “thấy” những gì và kể từ lúc nào. Thế nhưng điều chắc chắn là khi ta lớn lên, thấy cha mẹ, thấy anh em, thấy nhà cửa ruộng vườn, dần dần thấy thế giới quanh mình. Ta thấy trái chuối vàng trên tay, thấy màu xanh cây lá, thấy bông hoa rực đỏ, thấy dòng nước mềm mại, thấy viên đá cứng nhắc, ta ngửi mùi thơm thức ăn, nghe tiếng nhạc êm đềm. Tất cả những cảm quan đó đến từ thế giới bên ngoài, chúng làm ta vui thích. Rất sớm, ta cũng đã nhận ra, có thứ làm ta khó chịu, thậm chí đau đớn, như lửa làm nóng tay, mặt trời chói mắt, tiếng ồn làm nhức tai điếc óc.

Từ bên ngoài còn có những ấn tượng khác đến với ta. Lời nói êm dịu làm ta vui thích, tiếng gắt gỏng làm ta buồn bực. Đến với ta không những chỉ là ấn tượng của cảm quan do sự vật cụ thể sinh ra, mà cả những lời nói, tư tưởng, tình cảm có tính chất trừu tượng. Ta dùng mắt để thấy hình ảnh, tai để nghe âm thanh nhưng những điều trừu tượng thì phải cần đến ý thức đề cảm nhận chúng.

Với thời gian, cuộc đời dần dần trở nên phức tạp. Ta bắt đầu ý thức về chính con người mình, đồng thời thấy một thế giới bên ngoài bao bọc ta. Thế giới đó gồm những gì, ta không thể biết hết, nhưng điều chắc chắn là nó độc lập với ta, không theo ý ta, nằm ngoài khả năng kiểm soát. Cây cối, sỏi đá, chim chóc, bàn ghế, tất cả đều là thế giới của ta, chúng vô cùng dễ thương nhưng có thể rất dễ ghét. Trái cây kia ngon ngọt biết bao, ta thưởng thức nó, nhưng cái dao gọt trái cây có thể làm ta đứt tay chảy máu. Đời ta nằm trọn trong môi trường thiên nhiên, nó có thể cung ứng phục vụ cho ta, nó cũng có thể gây phiền hà, tùy cách ta hành xử.

Nhưng thiên nhiên, thế giới “khách quan” này từ đâu mà tới, ai sinh ra nó, hẳn nó phải “có sẵn”? thật ra, không mấy người đặt câu hỏi đó vì lẽ quá hiển nhiên, nó có từ lúc ta chưa sinh, từ lúc toàn bộ loài người chưa hiện diện và xem ra nó vẫn còn nếu ta không hề biết đến nó, nếu một ngày kia loài người biến mất trên hành tinh này. Đó là lý do tại sao không mấy người đặt câu hỏi tưởng chừng như ngớ ngẩn kia.

Thế nhưng xưa nay vẫn có người tự hỏi, thiên nhiên do đâu mà có; và cụ thể hơn, những gì ta thấy, ta nghe, phải chăng thiên nhiên tự nó như thế thật?

Hãy ra vườn và ngắm có cây. Hoa lá rực những màu sắc thật đậm đà, tươi đẹp. Những bông hoa màu đỏ sáng kia, ai cho ngươi màu sắc huy hoàng như thế, mặt trời nóng bỏng hay mảnh đất màu mỡ?

Ta vui thích với những màu sắc rực rỡ của hoa và có lẽ ai cũng nghĩ, những màu sắc đó là tính chất riêng tư của hoa. Mỗi người chúng ta chắc đều nghĩ, có hay không có ta là kẻ quan sát, có ai nhìn ngắm nó hay không để ý đến nó, hoa vẫn mang màu sắc vàng đỏ đó. Ta nghĩ, màu vàng có thực, màu đỏ có thực. Không, những màu sắc đó không có thực. Ta nhầm, phần lớn chúng ta đều nhầm.

Phần lớn chúng ta nghĩ, cặp mắt mình là như những cửa sổ trong suốt, hình ảnh bên ngoài cứ thế mà truyền lên não. Thị giác chỉ là một bộ phận vô tri, phản ánh trung thực những gì có thật ở bên ngoài. Thậm chí có người, khi nghe cấu trúc con mắt như một thấu kính làm đảo ngược hình ảnh lên võng mạc, đã lập tức tự hỏi ai đã “quay ngược” lại hình cho đúng chiều để não bộ nhận thức cho “đúng”. Không phải thế, con mắt chúng ta – hay nói đúng hơn, thị giác – không hết thụ động như một cửa sổ, ngược lại nó chủ động cảm thọ, tưởng tượng, nhận thức, thẩm định… để cho ta một hình ảnh nhất định.

Có người sẽ sớm phản đối điều vừa nói bằng cách cho rằng, tất cả mọi người đều thấy bông hoa màu vàng, màu đỏ. Thế thì, màu vàng đỏ phải là một cái gì khách quan, độc lập với con người. Ta có thể hỏi, làm sao anh biết màu vàng của tôi giống màu vàng của anh cảm nhận. Đồng ý chúng ta đều thấy rằng hoàng hôn là đẹp, nhưng ai dám bảo đảm cái thấy, cái nhận thức đó giống nhau? Phải chăng mọi sinh vật, thí dụ bướm đang bay dập dìu bên hoa, cũng thấy màu vàng đó như con người đã thấy?

Thật ra màu sắc chỉ là một sự trình hiện. Khoa học đã chứng minh là màu sắc mà ta cảm nhận vốn là những sóng đện từ với những tần số nhất định mà mắt người cảm nhận chúng như màu sắc. Thế nên màu sắc vàng đỏ không nằm nơi hoa mà nắm nơi người. Màu sắc không thực có. Sắc màu chỉ là sự cảm nhận của con người.

Những suy nghĩ này dễ làm ta phân vân và khó chịu. Như thế thì phải chăng thiên nhiên chỉ một màu xám xịt ảm đạm, phải chăng thế giới chẳng có màu sắc nào cả, chỉ có một loạt những sóng điện từ đang rung động loạn xạ trong không gian? Thiên nhiên sẽ không còn đáng yêu nữa? Con người “tạo ra” màu sắc, phải chăng cáiđáng yêu chính là con người? Vậy thì nếu không có màu sắc thì cái gì là cái khách quan thực có trong thiên nhiên? Phải chăng là sóng điện từ, chúng có những tần số nhất định, chúng phải tồn tại độc lập với con người. Ít nhất cũng phải có những gì khách quan, độc lập với con người, đó phải là thứ sóng điện tử xa lạ nọ.

Cái gì là cái khách quan thực có, đây là vấn đề quan trọng nhất của loài người, của tư tưởng, của triết học. Ta chưa đi vội vào vấn đề này. Trong giai đoạn này của cuốn sách, ta hãy tạm cho sóng điện từ là thực có.

Hãy lấy một thí dụ trong một lĩnh vực khác, âm nhạc chẳng hạn. Đối với một số người lớn tuổi, âm nhạc của thời đại ngày nay không phải là nhạc. Đó chỉ là một mớ âm thanh hỗn độn, người nghe chỉ thêm căng thẳng mệt mỏi. Nhưng đối với giới trẻ, nó làm vui thích, hưng phấn, nó là nguồn giải trí cần thiết. Còn thứ âm nhạc của một thời xa xưa, đối với họ, là hết sức chậm chạp trì trệ, nó chỉ gây thêm chán chường. Thế nên, ai cũng biết, âm nhạc là sự cảm nhận chủ quan. Thế thì, cái gì có thực sau bức màn cảm nhận đó, phải chăng là một mớ âm thanh mà ngày nay ta biết rằng chúng thực chất chỉ lànhững sóng không khí lan tỏa trong không gian. Hay dở, hưng phấn hay chán chường không hề nằm trong các sóng đó, chúng nằm trong con người. Nhưng có người vẫn nửa tin nửa ngờ, họ cho rằng phải có một thứ nghệ thuật khách quan, nếu không thì làm sao ai cũng thừa nhận là nhạc Mozart là thiên phú, giọng ca Elvis Presley là tuyệt vời. Đó là cái chung trong sự cảm nhận của chúng ta, của một loài sinh vật mà ta gọi là loài người. Nhưng ta cũng chưa vội vào đề tài này.

Thế nên màu sắc không nằm nơi hoa, tiếng du dương không nằm trong đàn. Cũng thế, vị ngọt của xoài không nằm trong trái, cái nóng lạnh không nằm trong vật thể. Ta sẽ hỏi, thế thì cái gì là cái có thực, cái gì là cái nằm ngoài, độc lập với con người. dù ta cho rằng tất cả đều chỉ là sự cảm nhận, thì cũng phải có một cái có thực. Nếu không thì mùa đông, tại sao ai cũng mặc áo ấm?

Hãy lấy một ẩn dụ cổ điển: Ban đêm có kẻ đi đường, thấy sợi dây nhưng  tưởng lầm là con rắn và ù té chạy. Cái gì là cái thực có? Ta sẽ trả lời cái thực có hiển nhiên là sợi dây, con rắn chỉ là ảo tưởng, không có thực. Thế nhưng nếu con rắn không có thực thì tại sao người kia lại sợ? Con rắn cũng chỉ là sự cảm nhận – ít nhất là trong một phút ngắn ngủi - vì sự cảm nhận đó cũng tương tự như có người nghe thứ âm nhạc nọ ta là một mớ âm thanh hỗn độn.

Hơn thế nữa, mà đây là điều quan trọng hơn: “sợi dây” chẳng qua cũng chỉ là một sự cảm nhận, thực ra nó do một số phần lớn phân tử vật chất hợp thành. Trong giai đoạn này của cuốn sách, cứ cho các nguyên tử là có thực. Thế thì sợi dây mà ta cho là có thực đó lại không hề có thực, nó chỉ do nhiều phân tử hợp thành và ta thấy nó là sợi dây. Thế nên sợi dây khác gì con rắn, tất cả đều là sự cảm nhận cả? Hay một sự cảm nhận này “có giá trị” hơn sự cảm nhận khác?

Có thể có độc giả đã bắt đầu mất kiên nhẫn. Không lẽ ta đánh đồng ảo giác với hiện thực, phải chăng người điên cũng như người tỉnh? Phải chăng các thứ nguyên tử, phân tử, sóng điện từ, sóng âm thanh…., những thứ mắt người không nhìn thấy, chỉ chúng mới thực có, còn tất cả là ảo giác. Những gì mà tất cả mọi người đều thừa nhận là có thực, cùng thấy cùng nghe, đã bị “hạ giá” thành cảm nhận chủ quan, còn những điều hết sức xa lạ không ai nghe thấy nay được tôn thờ như là thực tại. Có thể chấp nhận được không, những điều “điên rồ” như thế?

Câu chuyện còn rất dài. Thế nhưng điều cần khẳng định là, những gì ta nghe thấy đều là sự cảm nhận của con người. Hiện tượng xuất hiện quanh ta là cảm nhận của ta. Sau bức màn hiện tượng đó là những gì, thực tại độc lập nào nằm nơi đó, nó hoạt động theo quy luật nào, ta cò thể nhận thức được nó hay không? Đó là những câu hỏi sâu xa nhất, thú vị nhất mà hôm nay chúng ta không phải là người đầu tiên nêu tên. Dựa trên sử sách còn truyền lại, chúng ta biết những người đầu tiên trong nền văn minh của loài người đã đặt vấn đề này một cách hệ thống cách đây khoảng hơn hai ngàn năm trăm năm, tại phương Đông cũng như phương Tây. Đến nay, chưa có câu trả lời nào thuyết phục được tất cả mọi người.

---o0o---


ĐẦU NGUỒN TRIẾT HỌC PHƯƠNG TÂY


Phần lớn chúng ta vẫn còn lưu luyến với thế giới của mình. Ta sẽ tự nhủ, nếu những gì mình nghe thấy chỉ là những gì do mình cảm nhận chứ chưa chắc chúng thật như thế thì thật là đáng tiếc. Bầu trời xanh và đám mây hồng, cây cối và chim chóc, màu sắc và âm nhạc, liệu tất cả đều do mình “tưởng tượng” ra ư?

Nếu cho rằng, không, tất cả những gì ta nghe, ta thấy, chúng thực có trong thế gian đúng y như mình cảm nhận thì thực ra ta không phải là người duy nhất nghĩ như thế. Thực tế là hầu như tất cả mọi người đều nghĩ như vậy cả. Tất cả mọi người đều tin nơi một thực tại bên ngoài, hình dáng của nó chính là những gì mình nghe thấy, nó in vào tâm trí mình đúng như nó là. Quan niệm về một thực tại bên ngoài đồng nhất với những gì ta cảm nhận, được triết học xem như thuộc về chủ nghĩa duy thực. Vì sẽ còn nhiều thứ duy thực khác tinh tế hơn nên quan niệm duy thực nói trên có thể được gọi là chủ nghĩa duy thực giản đơn.

Xưa nay, tuyệt đại đa số con người trên thế gian này đều tin có một thế giới có thật ở “bên ngoài”. Thế nhưng, điều đáng lưu ý là các đầu óc tầm cỡ trong lịch sử tư tưởng sớm biết rằng, những gì mình nghe thấy không phải là thực tại, chúng chỉ là hình ảnh, là ấn tượng của thực tại. Vậy thực tại là gì? Đây là câu hỏi trung tâm của mọi nền triết học.

Bên bờ đông của Địa Trung Hải cách đây gần 2500 năm có một nhà hiền triết Hy Lạp tên gọi Socrates. Ông là con trai của một nghệ sĩ tạc tượng, bản thân ông cũng làm nghề tạc tượng và sống một cuộc đời hết sức đạm bạc, hầu như khổ hạnh. Về sau Socrates sớm xao lãng nghề nghiệp lẫn gia đình chỉ vì cái tính ham nói chuyện triết học với những người cùng thời. Cuối cùng, ông không để lại một tác phẩm nào cả, người ta chỉ lưu truyền những gì ông nói. Thế nhưng tư tưỡng của Socrates để lại cho muôn đời sau sâu đậm đến nỗi Karl Jaspers phải nói,”điều kiện bắt buộc khi triết lý là không được quên Socrates”.

Socrates là người như thế nào mà nhiều trường phái triết học của hậu thế đều trích dẫn lời ông, ai cũng thấy nơi ông là nền tảng triết lý của mình? Còn ông, thì ông lại nói: “Tôi biết mình không biết gì cả”. Ông “không biết”, nhưng điều chắc chắn là Socrates tin nơi một thực tại bên ngoài có thực và ông phân biệt rõ hiện tượng và tự tính của mọisự thông qua các hiện tượng đơn lẻ. Hiện tượng là cái có sinh thành hoại diệt, còn tự tính là cái thường hằng mà ông tin nó đứng ngay sau mọi hiện tượng. Socrates cho rằng sự hiểu biết về hiện tượng chưa phải là tri kiến đích thực mà tự tính thì khó nắm bắt nên mới nói mình ”Không biết gì cả”.

Trong những ngày xa xưa đó, Socrates đã tìm cách thông qua các hiện tượng cảm quan để quả quyết có một cái đích thực, độc lập với sự vật sinh diệt. Ngắm một bông hoa hồng tươi đẹp, liên hệ với mọi thứ tươi đẹp khác trong thế gian, ông cho rằng có cái thiện mỹ hiện hữu tự nó. Sở dĩ một bông hoa đẹp vì nó có phần trong cái thiện mỹ đó. Cảm quan con người không thể nhận biết được tự tính thiện mỹ đó – hay nói chung, không thể nhận biết mọi thứ cốt lõi – mà chỉ có tư duy con người mới tiếp cận được chúng. Về sau trước khi bị từ hình, ông cho rằng cả tư duy con người cũng không thể biết đến, chỉ có Thượng đế mới biết đến thực tại thuần túy đó. Socrates là người đầu tiên nêu rõ mối quan hệ then chốt nhất của mọi ngành triết học, cả phương Tây lẫn phương Đông.

Socrates có nhiều học trò, trong đó có một người tên gọi là Plato. Plato thuộc dòng dõi qúi tộc của thành Athens tại Hy Lạp, lẽ ra ông phải trở thành một nhà chính trị. Thế nhưng, trong tuổi thiếu niên ông đã gặp Socrates và mối liên hệ với thấy được giữ mãi cho đến ngày cuối cùng của Socrates. Vị thầy này đã để lại ảnh hưởng lớn lao trong sự nghiệp của nhà quí tộc trẻ tuổi. Sau cái chết của Socrates, Plato thấy rõ tính chất thối nát của nhà cầm quyền, ông từ bỏ con đường chính trị và thực hiện nhiều chuyến du khảo khắp các nước vùng Địa Trung Hải.

Plato nối tiếp sự nghiệp của Socrates và đưa quan niệm của thầy mình về mối liên hệ giữa hiện tượng và tự tính lên một bước phát triển mới mẻ và tinh tế. Plato cho rằng, sở dĩ con người quan sát và nhận thức được sự vật là vì thế gian đã có sẵn “ý niệm” về sự vật đó. Ý niệm là cơ sở, là nguồn gốc của hiện tượng. Hiện tượng bắt nguồn từ ý niệm nhưng không phải là ý niệm. Hiện tượng thì bất toàn, có sinh có diệt nhưng ý niệm là cái toàn hảo. Hiện tượng thì nằm trong thời gian và không gian nhưng ý niệm thì phi thời gian, phi không gian, bất hoại. Thí dụ, vòng tròn là một tập hợp của những điểm có cùng khoảng cách từ một tâm điểm. Khái niệm đó về vòng tròn bắt nguồn từ một “vòng tròn đích thực và nhất quán”. Có vô số vòng tròn (hiện tượng) nhưng chỉ có một vòng tròn đích thực (ý niệm).

Quan điểm triết học của Plato là tin rằng con người phải vượt qua cảm quan thông thường để tiến tới một thế giới của ý niệm nhằm nắm bắt thực tại. Thế giới hiện tượng là bức màn che đậy thiên nhiên và chỉ ý niệm mới tiếp cận với thực tại đích thực được. Plato còn đột phá một bước mới, ông cho rằng thiên nhiên có thể được mô tả bằng toán học và toán học chính là dạng hình nội tại của thiên nhiên. Theo Plato, ý niệm là toàn hảo, là gốc gác của hiện tượng; và ý niệm lại được mô tả bằng toán học nên hiện tượng cũng có thể mô tả bằng toán học. Vì lẽ đó, thiên thể trong bầu trời phải vận động trong những quỹ đạo hình tròn mà tâm điểm là trái đất. Đó là suy tư đầu tiên của thời cổ đại về thiên văn.

Những điều nghe qua ngây thơ này thật ra là những thành tựu vĩ đại của con người thời đó. Từ một sinh vật bé nhỏ, con người dám vươn lên suy tư về sự vật và vũ trụ, thử vén mở bức màn của hiện tượng để tìm hiểu sau đó có những gì và trừu tượng hóa có thể nắm bắt được thực tại. Đó là những bước đi dài ngàn năm một thuở, mà Hy Lạp là xứ có hân hạnh đã sản sinh những thiên tài kỳ lạ nhất cho loài người. Và thực vậy, Plato đã đặt nền móng về triết học của ngành khoa học tự nhiên suốt cả ngàn năm sau đó. Ngày nay toàn bộ khoa học tự nhiên đều được phát biểu bằng ngôn ngữ chính xác của toán học, bằng một phương tiện ưu việt mà người tiên phong phải là Plato.

Lý thuyết “ý niệm” của Plato đã mở đường cho phép sử dụng mô hình chính xác của toán học để mô tả thế giới hiện tượng. Đó là nguyên tắc cơ bản cuả ngành vật lý. Thế nhưng, ta cần thấy một điều. Tư tưởng của Plato dựa trên nhiều điều tiên quyết về mặt bản thể học mà hai ngàn năm sau người ta mới bắt đầu thấy chúng chỉ là những giả định. Plato cho rằng, một là, có một thực tại tồn tại “bên ngoài”, độc lập với đầu óc con người; hai là, ý thức con người có thể tiếp cận với thực tại đó; và ba là, thực tại đó có thể được biểu diễn bằng toán học.

Thực tế là ba quan niệm nói trên quá tự nhiên đến nỗi tư tưởng con người xưa nay đều xuất phát từ nó, cho chúng ta là điều hiển nhiên. Một thực tại độc lập với con người hẳn phải là điều tiên quyết. Thực tại đó phải có sẵn trước khi con người sinh ra trên địa cầu. Thiên nhiên là chiếc nôi sinh ra con người, thế giới hiện tượng hiện diện hoàn toàn độc lập với con người. Con người có biết đến, có ngắm nhìn thiên nhiên hay không thì cũng không tác động gì lên thiên nhiên cả. Đó là quan niệm thứ nhất.

Sau đó hiển nhiên là đầu óc con người phải tiếp cận được với thực tại, nếu không thì tất cả mọi tư duy đều vô bổ, nếu không thì không có vấn đề nào được đặt ra. Không những thế, thực tại phải rất gần gũi với đầu óc con người vì nó được biểu diễn bằng toán học, một sản phẩm của tư duy thuần túy.

Ba điều nói trên thật ra chỉ là ba giả định, nếu nói một cách đúng nghĩa là ba giả định siêu hình. Thế nhưng vì chúng xem ra quá hiển nhiên nên phần lớn các nhà tư tưởng và khoa học tự nhiên quên rằng chúng chỉ là giả định. Thậm chí các nhà khoa học cổ đại xem toán học là tính chất nội tại của thiên nhiên, thiên nhiên được xây dựng bằng những quy luật của toán học. Plato từng nói “Thượng đế là một nhà hình học”.

Với sự phát triển của tư tưởng và khoa học, các giả định này ngày càng tinh tế hơn và tính chất đa nguyên của tư duy bắt đầu lộ rõ. Plato có một học trò xuất sắc nhưng “phóng khoáng và ham vui”, đó là Aristotle.

Nếu Plato chỉ tìm hiểu đường đi của các thiên thể thì Aristotle tự hỏi tại sao các thiên thể lại vận động. Ông đi xa hơn Plato ở hchỗ nêu câu hỏi nguyên ủy của sự vận động. Ông đến với kết luận là, mọi thiên thể vận động hay nói chung mọi hiện tượng sinh diệt là do một nguyên nhân bất động tác động lên. Đó là Thượng đế. Aristotle không chấp nhận quan điểm của Plato, xem “ý niệm” như là tự tính của hiện tượng. Aristotle cho rằng tự tính của sự vật nằm ngay bên trong sự vật. Đối với Aristotle, tự tính cần dạng hình, sắc thể để xuất hiện, ngược lại mỗi sắc thể phải mang trong mình một tự tính nhất định, cũng như không thể có hình dạng mà không có chất liệu. Mọi hiện tượng đều là dạng xuất hiện của một cái tự tính bất di bất dịch và cái đó chính là Thượng đế. Hơn thế nữa, tâm thức của Thượng đế cũng chính là nguồn gốc của tư duy con người và tư duy con người cũng chịu sinh diệt như mọi hiện tượng khác.

Với Aristotle, thực tại vốn độc lập với con người nay đã có một nguyên ủy sâu xa, đó là Thượng đế. Ta dễ tò mò tự hỏi, Thượng đế là ai, ai sinh ra Thượng đế. Câu hỏi đó không ai trả lời được. Thượng đế vốn cũng là một giả định siêu hình. Thế nhưng cách đặt vấn đề của Aristotle được thần học và cả khoa học phương Tây chấp nhận cả hai ngàn năm qua, đến nay vẫn còn được nhiều người thừa nhận.

Điều thú vị là quan điểm xem mọi hiện tượng là sự xuất hiện  của một cái duy nhất là cách nhìn quán xuyến nhất của triết học cả phương Đông lẫn phương Tây. Về sau này ta sẽ thấy, vấn đề sẽ rút lại trong một luận đề thuộc bản thể luận và câu hỏi còn lại duy nhất là Thượng đế là gì hay là ai.

Với tính cách là triết gia của nhận thức luận, Aristotle còn đi vào lịch sử tư duy của loài người như một nhà vật lý tiên phong. Ông đã đi xây dựng một nền vật lý khá hoàn chỉnh trong thời đại bấy giờ; đưa ra phạm trù tự tính – sắc thể của triết học vào nền vật lý sơ khai của nhân loại để xây dựng khái niệm chất liệu – hình dạng và bắt đầu nêu lên những nguyên lý của một thực tại vật lý. Với Aristotle, nền vật lý đã đến với những định nghĩa hoàn chỉnh về cấu tạo vật chất, về không gian thời gian, về khái niệm của chân không, về các nguyên nhân và nguyên nhân cuối cùng của sự vận động. Aristotle nói về sự chuyển hóa của các dạng vật chất, trong đó luận đề nổi tiếng của ông là “từ sự trống rỗng không thể sinh ra vật gì, một vật không thể biến thành cái trống rỗng”. Luận đề này là tiền thân của nguyên lý bảo toàn năng lượng mà ta biết đến ngày nay.

Nền vật lý của Aristotle trường tồn hơn mười lăm thế kỷ, lâu hơn hẳn mọi nền vật lý mà hiện tại chúng ta biết đến.

---o0o---


Каталог: kinh -> Ebooks -> Thuyet-Phap -> Phat-Giao-Va-Khoa-Hoc
Phat-Giao-Va-Khoa-Hoc -> Minh Giác Nguyễn Học Tài Chùa Liên Hoa, California, usa ấn hành 1997 o0o MỤc lụC
Phat-Giao-Va-Khoa-Hoc -> PHẬt giáo và khoa học phúc Lâm Tủ Sách Đạo Phật Ngày Nay
Thuyet-Phap -> Trần TrúcLâm những hộ pháp vưƠng của phật giáo trong lịch sử ẤN ĐỘ
Thuyet-Phap -> Thiền sư khưƠng tăng hội nguyễn Lang o0o Nguồn
Thuyet-Phap -> VIỆt nam phật giáo sử luận nguyễn Lang Nhà Xuất Bản Văn Học Hà Nội 1979 o0o Nguồn
Phat-Giao-Va-Khoa-Hoc -> Dao Phat Sieu Khoa Hoc Minh Giac Nguyen Ngoc Tai
Phat-Giao-Va-Khoa-Hoc -> PHẬt giáo và khoa học phúc Lâm Tủ Sách Đạo Phật Ngày Nay
Phat-Giao-Va-Khoa-Hoc -> CHÁnh niệm và ĐẠO ĐỨc giao thoa giữa khoa học và tâm linh ở Mỹ

tải về 1.29 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4   5   6   7   8   9   ...   18




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương