TÀi liệu tập huấN ĐỒng ruộng (ffs)


Chế thuốc trừ sâu từ thuốc lá



tải về 23.9 Mb.
trang9/48
Chuyển đổi dữ liệu14.12.2017
Kích23.9 Mb.
#35057
1   ...   5   6   7   8   9   10   11   12   ...   48

Chế thuốc trừ sâu từ thuốc lá

- Tác dụng: Thuốc làm từ thuốc lá có khả năng diệt trừ bọ trĩ, sâu đục thân, bọ xít dài, sâu cuốn lá nhỏ… các loại rệp ngô, rệp đậu tương, sâu khoang, sâu ba ba trên rau muống, sâu khoang ở cây táo, nhện đỏ ở cam chanh…

- Cách pha chế: Để chế thuốc người ta lấy lá thuốc cho vào ngâm 1-2 ngày trong nước lã với tỷ lệ 1 kg lá/ 20 – 40 lít nước. Sau đó vớt ra nghiền nhỏ rồi lọc đem đi phun.



8. Giới thiệu một số phương pháp phổ biến tại Hàn Quốc về sử dụng tái phụ phẩm nông nghiệp làm phân hữu cơ lỏng và pha chế thuốc trừ dịch hại sinh học.

8.1.Pha chế thuốc trừ sâu và trừ cỏ tự nhiên.

+ Chế thuốc trừ sâu: Pha loãng 120cc dấm có nồng độ acid 6 - 7 % với 20 lít nước và phun hàng tuần có thể giúp phòng ngừa bệnh thán thư trên cây ớt hoặc các vật hại khác. Dấm gỗ pha loãng cũng là một loại thuốc trừ sâu tự nhiên.

+ Chế thuốc trừ cỏ an toàn:Các chất kết dính như lòng đỏ trứng hoặc dầu ăn pha loãng với nước có thể dùng để ngăn ngừa cỏ dại bằng cách bịt kín các khí khổng của chúng. Hỗn hợp tạo bởi việc trộn đều một lòng đỏ trứng với 2 thìa dầu ăn và 2 lít nước được dùng để phòng trừ rệp.

8.2.Tái sử dụng phụ phẩm nông nghiệp.

- Hiện nay ở Hàn Quốc, việc tái sử dụng các phụ/phế phẩm thành phân bón hữu cơ lỏng được sử dụng trong sản xuất hữu cơ một cách có giá trị.Công nghệ canh tác hữu cơ đã được phát triển để sử dụng phụ/phế phẩm rau và/hoặc cỏ để làm phân bón hữu cơ dạng lỏng được thêm vào và ủ với mùn và/hoặc các vi sinh vật hữu ích (EM), sữa chua hoặc các loại rau thực phẩm đã lên men dư thừa.

- Cách làm: Xếp phụ/phế phẩm rau cỏ vào trong thùng chứa và phủ một lớp mùn với tỷ lệ 10% tổng lượng phụ phế phẩm lên trên và/hoặc trộn với enzyme và để ủ trong vòng ba (3) tuần. Các phụ/phế sẽ chuyển thành phân bón dạng lỏng màu đen và pha loãng với nước ở tỷ lệ 100 lần thể tích để bón cho đất và cây. Hoạt động này không tốn nhiều chi phí.

* EM có thể được chế biến bằng cách hòa 1,5 lít nước sạch, 150 cc nước vo gạo, 20 g đường vàng, 1/2 thìa cà phê dung dịch EM nguyên chất và ½ thìa càphê muối với nhau rồi ủ lên men trong vòng 7 đến 10 ngày, lưu ý mở nắp vài lần để xả bớt khí trong chai PET.

PHẦN 2: CÁC CHUYÊN ĐỀ
BÀI 1. CÂY LÚA

1. Sinh lý cây lúa qua các giai đoạn sinh trưởng

1.1. Sinh lý cây lúa giai đoạn nảy mầm

Giai đoạn nảy mầm của hạt được tính từ khi hạt lúa hút no nước và chuyển hoá các chất bên trong hạt, hình thành các bộ phận của cây đến khi cây lúa có một lá thật. Giai đoạn này cây hoàn toàn sử dụng chất dinh dưỡng dự trữ trong hạt, ẩm độ và nhiệt độ là 2 yếu tố quyết định đến giai đoạn này. Việc ngâm ủ tốt sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho hạt nảy mầm. Bài tập này sẽ giúp học viên trao đổi và tìm hiều về đặc điểm của giai đoạn nảy mầm và các yêu cầu ngoại cảnh của giai đoạn này.



1.2. Sinh lý cây lúa giai đoạn mạ

Giai đoạn cây con được xác định từ khi cây lúa có 1 lá thật đến 4 lá thật. Giai đoạn này cây hoàn chỉnh dần chức năng các bộ phận của cây, cây chuyển dần từ việc sử dụng chất dinh dưỡng trong hạt sang việc hoàn toàn sử dụng dinh dưỡng từ đất và tự tổ hợp các chất để hình thành các bộ phận của cây. Giai đoạn này các bộ phận của cây như rễ, lá... chưa hoàn thiện hoàn toàn, khả năng chống chịu với điều kiện bất thuận của cây kém, đặc biệt là điều kiện khô hạn, nhiệt độ quá cao hoặc quá thấp sẽ ảnh hưởng nhiều tới sinh trưởng và phát triển của cây. Giai đoạn này thường gặp một số đối tượng dịch hại như: chuột, rệp, sâu đục thân, sâu năn, bọ trĩ,... gây hại.



1.3. Sinh lý cây lúa giai đoạn bén rễ hồi xanh

Giai đoạn bén rễ hồi xanh của lúa được tính từ khi lúa mới cấy đến khi lúa ra lá mới. Giai đoạn này cây sinh trưởng rất chậm chủ yếu là phục hồi lại bộ rễ bị tổn thương trong quát trình nhổ mạ và cấy. Thời gian bén rễ hồi xanh nhanh hay chậm phụ thuộc vào việc nhổ và vận chuyển mạ khi cấy, kỹ thuật cấy, điều kiện thời tiết khi cấy và điều kiện của ruộng cấy. Thời gian bén rễ hồi xanh càng ngắn càng tốt. Vì vậy ta cần có những biện pháp kỹ thuật tác động để rút ngắn thời gian bén rễ hồi xanh của lúa như: không nhổ mạ mà dùng xẻng xúc mạ để hạn chế cây bị đứt rễ, cấy nông tay, cấy khi điều kiện thời tiết thuận lợi, không cấy khi trời quá lạnh, quá nắng nóng và thường xuyên giữ mực nước vừa phải trên ruộng… Dịch hại chính của lúa ở giai đoạn này là: bọ trĩ, bọ xít đen, bệnh đốm lá,…



1.4. Sinh lý cây lúa giai đoạn đẻ nhánh

Giai đoạn đẻ nhánh cây sinh trưởng nhanh, các bộ phận mới liên tục được hình thành như: lá mới, nhánh mới, rễ mới. Giai đoạn này cây rất khoẻ, có khả năng chống chịu với điều kiện thời tiết bất thuận cao, khi bị hại cây có khả năng đền bù rất mạnh. Giai đoạn này quyết định tới số dảnh và số bông sau này. Dinh dưỡng, nước và ánh sáng là các yếu tố ảnh hưởng nhiều tới sinh trưởng của cây lúa. Cần chăm sóc cho lúa sinh trưởng tốt, đẻ nhánh tập trung để tăng số dảnh hữu hiệu. Các loại dịch hại thường gặp ở giai đoạn này là: sâu đục thân, sâu cuốn lá, bọ trĩ, bọ xít đen, dòi đục lá, khô vằn, đạo ôn…



1.5. Sinh lý cây lúa giai đoạn phân hoá đòng

Giai đoạn phân hoá đòng là giai đoạn cây lúa chuyển từ sinh trưởng sinh dưỡng sang sinh trưởng sinh thực (từ quá trình sinh trưởng thân lá sang quá trình phát triển hoa và hạt trên bông sau này), ở giai đoạn này cây phân hoá chồi hoa và quyết định tới số lượng hoa và hạt trên bông sau này. Nhiệt độ, ẩm độ và dinh dưỡng thuận lợi và đầy đủ, số hạt trên bông nhiều, giai đoạn này khả năng chống chịu với điều kiện bất thuận của cây kém. Các dịch hại thường gặp như: chuột, sâu đục thân, bệnh khô vằn, sâu cuốn lá, rầy các loại, bọ xít đen, bệnh bạc lá, đốm sọc…



1.6. Sinh lý cây lúa giai đoạn làm đòng

Giai đoạn làm đòng của lúa kéo dài khoảng 28-30 ngày và được tính từ sau khi cây phân hoá đòng đến khi cây lúa bắt đầu trỗ bông phơi màu. Đây là giai đoạn cây đã có số hoa ổn định, hoa phân hoá, hình thành và phát triển các bộ phận của hoa. Chất lượng của hoa được quyết định ở giai đoạn này, khả năng chống chịu với điều kiện không thuận lợi và sâu bệnh của cây kém, cây thường nhiễm một số đối tượng sâu bệnh như: bệnh khô vằn, đạo ôn, đốm sọc, bạc lá, sâu đục thân, sâu cuốn lá,… Việc chăm sóc và quản lý sâu bệnh ở giai đoạn này là rất quan trọng.



1.7. Sinh lý cây lúa giai đoạn trỗ bông phơi màu

Giai đoạn trỗ bông phơi màu của lá rất quan trọng, là thời gian thụ phấn, thụ tinh của hoa và hình thành hạt, giai đoạn này quyết định tới tỷ lệ hạt chắc trên bông và quyết định tới tỷ lệ hạt chắc trên bông và quyết định tới năng suất của lá sau này. Cây lúa ở giai đoạn này rất mẫn cảm với điều kiện thời tiết. Nếu lúa ở giai đoạn trỗ bông phơ màu gặp thời tiết không thuận lợi như: nắng hạn, nhiệt độ quá cao, quá thấp, mưa bão… sẽ làm ảnh hưởng nghiêm trọng tới năng suất lúa, để hạn chế ảnh hưởng của điều kiện thời tiết, cần bố trí thời vụ cho lúa trỗ vào thời gian thích hợp và an toàn. Các dịch hại nguy hiểm thường gặp ở giai đoạn này như: sâu đục thân, bệnh đạo ôn, bọ xít, bệnh bạc lá…



1.8. Sinh lý cây lúa giai đoạn chín

Giai đoạn chín của lúa được phân ra thành các quá trình khác nhau như: lúa chính sữa, chín sáp và chín hoàn toàn. Đây là giai đoạn cây lúa chuyển hoá các chất hữu cơ của quá trình quang hợp thành tinh bột và được tích luỹ ở trong hạt. Giai đoạn này ánh sáng là yếu tố thời tiết ảnh hưởng nhiều tới chất lượng của hạt, ngoài ra các yếu tố khác như: nhiệt độ, ẩm độ, gió bão… cũng ảnh hưởng tới năng suất lúa. Các dịch hại nguy hiểm cần chú ý là: sâu cắn gié, bọ xít, rầy, bệnh khô vằn, bạc lá, chim, chuột,…



2. Giới thiệu phương pháp tính toán thời vụ và bố trí thời vụ gieo cấy lúa.

Thanh Hoá là tỉnh cuối Bắc Bộ và đầu Bắc Trung Bộ vì thế chịu ảnh hưởng của thời tiết khí hậu cả hai tiểu vùng khác nhau; điều này ảnh hưởng lớn đến việc bố trí thời vụ trong sản xuất lúa: Có thể nói: khung thời vụ của tỉnh ta hẹp; mặt khác chịu nhiều thiên tai như rét đậm và gió Tây Nam khô nóng trong vụ xuân; mưa, bão, lũ, lụt, lốc trong vụ mùa. Chính vì vậy việc bố trí thời vụ của Thanh Hoá cần phải tuân thủ chặt chẽ quy luật thời tiết; cụ thể như sau :

- Vụ Xuân: các trà lúa gieo cấy trong vụ xuân phải bố trí để lúa trỗ từ 25/4- 5/5 dương lịch ( từ sau Cốc Vũ đến trước Lập Hạ).

- Vụ Xuân: các trà lúa gieo cấy trong vụ xuân phải bố trí để lúa trỗ từ 25/4- 5/5 dương lịch ( từ sau Cốc Vũ đến trước Lập Hạ).

+ trà xuân sớm và Xuân chính vụ: sử dụng các giống Xi23, X21 gieo mạ từ 10-20/12/2016, giống BTE-1 gieo mạ từ 15-20/01/2017, cấy khi mạ đạt 4,5-5 lá.

+ trà xuân muộn: sử dụng các giống có thời gian sinh trưởng dưới 135 ngày như: Thái Xuyên 111, nghi hương 2308, VT404, PHB71, ZZD001….gieo mạ từ 20/1 – 5/02/2017, cấy sau tết Nguyên đán.

- Vụ mùa:

+ Trà mùa sớm: Bố trí các giống trỗ trước 25/8

+ Trà mùa trung: Trỗ trước 10/9 (tuy nhiên diện tích gieo cấy trà mùa trung nên hạn chế đến mức thấp nhất)

Từ cơ sở trên việc tính toán thời vụ cho các giống lúa như sau:

Ngày gieo giống = Thời gian sinh trưởng của giống – 30 ngày (là thời gian lúa từ trỗ đến chín) - thời gian từ gieo đến trỗ.

3. Phương pháp chọn và xử lý hạt giống

3.1. Phương pháp chọn hạt giống

- Giống phải được Bộ Nông nghiệp&PTNT công nhận chính thức và nằm trong cơ cấu giống của tỉnh.

- Hạt giống phải được mua tại cơ sở bán giống đáng tin cậy.

- Hạt giống phải khô, sạch, chắc mẩy, thuần, đúng giống, đồng nhất về kích cỡ, không bị lẫn những hạt giống khác, không bị lẫn hạt cỏ và tạp chất, không có hạt lem, lép và không bị dị dạng.

- Hạt giống không bị côn trùng phá hoại (sâu mọt), không mang mầm bệnh nguy hiểm.

- Tỉ lệ nảy mầm cao, đạt 85% trở lên.



3.2. Xử lý hạt giống

+ Hạt giống trước khi ngâm cần phơi lại trong 4-6h trong nắng nhẹ để tăng khả năng hút nước của hạt giống và kích thích hệ thống men, tăng tỷ lệ nảy mầm. Không phơi trực tiếp trên sân gạch và sân xi măng.

+ Loại bỏ hạt lép, hạt lửng, hạt cỏ, đối với lúa thuần và hạt lép đối với lúa lai để lựa chọn hạt chắc nhằm đảm bảo mật độ và sạch cỏ dại khi gieo bằng nhiều cách: Bằng quạt gió, sàng sảy hoặc trong quá trình ngâm nước cần vớt hết những hạt nổi và giữ lại hạt chìm (hạt tốt).

+ Xử lý hạt giống lúa thuần bằng một trong phương pháp sau



Xử lý bằng nước nóng 540C: Ngâm hạt vào nước lạnh 24 giờ, sau đó đưa vào nước nóng 45- 470c trong 5 phút và cuối cùng là nước nóng 54- 550c trong 10 phút. Phương pháp này đơn giản nhất, có tác dụng trừ nấm bệnh và tuyến trùng trên hạt, tạo cho hạt hút nước nhanh

Xử lý bằng nước vôi trong 2-3%: Hòa tan 1kg vôi sống vào 100 lít nước, ngâm 1-2 ngày ở vụ mùa, 3-4 ngày ở vụ xuân, đãi sạch rồi ủ thúc mầm.

Xử lý bằng thuốc trừ nấm: đối với các giống lúa thuần sử dụng một trong các chế phẩm như:CuSO4 1-4%, Bavistin, Daconil, Captan, Cruser Plus….nồng độ xử lý theo hướng dẫn trên bao bì.

3.4 Kỹ thuật ngâm ủ hạt giống

Ngâm hạt giống

- Thóc giống sau khi xử lý vớt ra, rửa sạch và đưa vào ngâm: vụ Mùa ngâm 24-36 giờ đối với lúa thuần và 14-18 giờ đối với lúa lai; vụ Xuân ngâm 48-60 giờ đối với lúa thuần và 20-24 giờ đối với lúa lai.

- Ngâm = nước sạch, không ngâm dưới ao. Tỷ lệ nước và thóc giống là 3:1 hoặc 5:1 (1kg thóc giống cần 3 – 5 lít nước).

- Dụng cụ ngâm là chum, vại, an, bồn nhỏ hoặc cho vào bao thoáng, không được bỏ hạt giống trong bao đựng thức ăn chăn nuôi, phân bón vì dễ gây chua và thối mầm.

- Trong quá trình ngâm 8 - 12 h thì thay nước đãi chua một lần đối với lúa thuần và 6 - 8h đối với lúa lai.

Hạt giống sau khi đã hút no nước, hạt trong, phôi mầm đã trắng đều (>70%) tiến hành đãi thật sạch cho hết chua, để ráo và đem ủ.



Ủ hạt giống

- Dụng cụ ủ: bao tải, bao vải thấm nước, thúng lót lá chuối …rồi dùng bao tải, rơm rạ, bạt tủ lại. Vụ xuân cần giữ ấm, để nơi kín gió.

- Cần gữi nhiệt độ trong 8 – 10 h ủ đầu tiên (ủ qua đêm) đảm bảo nhiệt độ 38 - 400C cho hạt nứt nanh đều, mầm và rễ xuất hiện. Sau đó bà con tiến hành kiểm tra thường xuyên để tránh thóc giống khi ủ quá nóng (> 400 C có thể làm hỏng mầm). Nếu bị nóng quá thì bà con nên đảo đều hạt giống và bỏ bớt dụng cụ tủ ấm ra. Nếu hạt giống bị khô do thiếu nước thì cần rưới thêm nước ấm vào.



- Mộng đạt tiêu chuẩn là có mầm và có rễ. Vụ xuân mầm và rễ dài =1/2 chiều dài hạt thóc đem gieo là tốt nhất. Vụ Mùa hạt nứt nanh là đem gieo được.

Chú ý: Sau khi mầm mạ đã đủ tiêu chuẩn đem gieo nhưng điều kiện bên ngoài bất thuận (trời mưa to, nhiệt độ thấp <150C) cần phải luyện mầm (rải mỏng trên nền nhà 1-3 ngày) để mầm mạ quen dần với điều kiện ngoại cảnh.

H.ảnh: Hạt mầm đạt tiêu chuẩn



3.5 Phương pháp làm mạ và biện pháp quản lý ruộng mạ

Hiện nay có nhiều phương pháp làm mạ nhưng tại Thanh Hoá áp dụng chủ yếu 3 phương pháp làm mạ: mạ ruộng; mạ trên nền đất cứng; mạ khay; nơi chủ động tưới tiêu, đồng ruộng bằng phẳng có thể áp dụng gieo thẳng lúa bằng giàn sạ kéo tay.



3.5.1. Kỹ thuật làm mạ ruộng

+ Chọn đất: Chọn loại đất có thành phần cơ giới nhẹ, đất cát pha, thịt nhẹ là tốt nhất. Đất phải chủ động được tưới tiêu, nhất là khâu tưới. Ruộng mạ nên bố trí tập chung để tiện cho khâu bảo vệ và chăm sóc. Cũng có thể gieo mạ ngay trên ruộng cấy, dùng để cấy cho ruộng đó (tuy nhiên phải bảo vệ tránh trâu, bò, chim chuột phá hại).

+ Làm đất và bón phân

Nếu có khu đất chuyên làm mạ phải tiến hành ngâm nước cho chết cỏ trước khi cày bừa 5-6 ngày.

Nếu làm mạ trên chân đất cấy lúa thì sau khi thu hoạch cần cắt sát gốc rạ, cày và bừa ngả ngâm nước ngay cho thối gốc rạ, tàn dư của vụ trước.

Đất mạ phải được cày, bừa kỹ, nhuyễn và sạch cỏ dại. Cần bón lót sâu cho 1 sào 500m2 bằng phân chuồng đã ủ hoai mục với lượng 3-4 tạ + 20-25 kg Lân hoặc NPK chuyên dùng bón lót, lượng bón theo hướng dẫn của nhà sản xuất.



+ Lên luống: Sau lần bừa tráng, để lắng bùn hoa trong vòng ½ ngày, tháo bớt nước, chia luống rộng 0,8 - 1 m, cao luống 15-20cm, rãnh rộng 25 – 30 cm. Lên luống theo chiều rút nước. Vụ Xuân mặt luống cần trang phẳng để giữ nước. Vụ Mùa mặt luống trang phẳng hình mai rùa để thoát nước tốt.

+ Gieo hạt:

Lượng giống gieo: 60-80 gam giống/m2 (30-40 kg/sào).

Lượng hạt gieo cho 1 ha lúa cấy: Đối với giống lúa thuần 40-50 kg/ha (2-2,5 kg/sào). Đối với giống lúa lai: 20- 25kg/ha (1-1,2 kg/sào).

Cách gieo: Cần chia lượng thóc giống đều theo luống, tiến hành gieo 2-3 lượt để đảm bảo hạt giống được phân bố đều trên toàn bộ diện tích gieo, gieo chìm 1/3 hạt mộng xuống dưới đất. Hạt giống gieo thừa phải làm thêm đất mạ, không được gieo chồng lên nhau. Sau khi gieo song cần rút nước trên mặt luống và chỉ để nước trong rãnh nhằm tạo độ ẩm cho luống mạ. Qua đêm mộng sẽ ngồi thuận lợi.



+ Chăm sóc và quản lý ruộng mạ

- Phun thuốc trừ cỏ dại: Mạ gieo thưa nên cần trừ cỏ nhất là cỏ lồng vực. Sau khi gieo 1-3 ngày, dùng thuốc trừ cỏ Sofit pha 30-33 ml thuốc với 10lít nước sạch, phun đều tay và phun 2 bình/sào 500m2. Để phát huy hiệu lực của thuốc, chỉ phun thuốc trong điều kiện mặt luống đủ ẩm, trong rãnh có nước, hạn chế không được để mặt luống khô nứt nẻ ít nhất trong vòng 1 tuần.

- Bón phân thúc cho mạ: Khi mạ được 1,5 - 2 lá bón thúc lần với lượng 3 – 4 kg Ure + 2kg Kali/sào 500m2. Hoặc bà con có thể dùng phân lân + nước giải để ngấu pha loãng dùng tưới cho mạ hoặc dùng phân bón lá chứa vi lượng để phun bổ sung cho mạ.

- Tưới nước: Khi mạ được 1 lá thật đưa nước vào ruộng cho láng mặt luống 0,5-1cm, giữ nước cho đến khi mạ được 1,5 - 2 lá kết hợp bón thúc cho mạ. Khi mạ được 3 – 3,5 lá, đưa nước vào ruộng mạ và luôn giữ đủ nước để mềm bùn, đến khi mạ đem cấy.

- Thời kỳ mạ tuy ngắn nhưng cũng cần lưu ý phòng trừ sâu bệnh một số đối tượng sâu bệnh xuất hiện trên mạ trước khi nhổ mạ đi cấy 4 – 5 ngày. Đặc biệt chú ý sâu đục thân, sâu cuốn lá, bệnh đạo ôn, bệnh khô vằn ...

Ruộng mạ đạt yêu cầu là mọc đồng loạt, thân cây mạ to, cứng cây, đanh dảnh và sạch sâu bệnh.



3.5.2. Kỹ thuật làm mạ trên nền đất cứng

+ Chuẩn bị:

Nền gieo có thể lấy bùn ruộng, bùn sông hoặc đất màu đập nhỏ thành bột để làm đất gieo mạ. Không dùng bùn nơi yếm khí ao tù để làm đất gieo mạ.

Diện tích đất mạ cần 12 - 15 m2 để gieo 1,2 - 1,5 kg thóc giống lúa lai hoặc 20 - 25 m2 để gieo các giống lúa thuần đủ cấy cho một sào 500m2. (Có thể gieo dày hơn mạ dược nhưng cũng không nên gieo quá dày. Nên gieo 70 – 100 gam giống/m2).

Chuẩn bị 2 kg lân supe + 10 – 15 kg phân chuồng hoai mục trộn cùng 10 m2 đất mạ. Chuẩn bị tro bếp hoai. Lót nền bằng bao xác rắn rão nước hay lót nilong đã chọc thủng lỗ để dễ thoát nước.

Chuẩn bị nilon trắng, khung cắm = que tre để che chắn rét cho mạ vụ xuân, khổ tre làm khung dài 1,4 - 1,5m, che cao trên mặt luống mạ 50 - 60 cm, không che sát mặt luống mạ, không che quá cao.

+ Làm nền: Trước khi gieo hạt, cần trộn phân chuồng hoai, phân lân với bùn, không bón lót bằng phân đạm hoặc phân NPK tổng hợp dạng viên. Lót nền bằng bao xắc rắn rão nước, tro bếp hay nilon đã chọc thủng lỗ để dễ thoát nước. San đều theo khổ mạ 1 – 1,2 m, dầy bùn khoảng 3-4 cm. Khi mặt bùn se lại mới gieo hạt đã ngâm ủ. Gieo nhiều lần cho đều, gieo hạt chìm trong bùn hoa. Tưới giữ ẩm, và dùng tro bếp hoai phủ kín mặt luống, che nilon để tránh gió lạnh trong vụ chiêm xuân.

+ Chăm sóc đối với vụ chiêm xuân: Từ khi gieo đến khi mạ mọc được 1 lá thật phải liên tục che phủ nilon kín cho mạ. Sau khi gieo mạ 2-3 ngày cần kiểm tra và tưới đủ ẩm cho mạ rồi che nilon lại, nếu trời lạnh nên tưới bằng nước ấm. Khi mạ mọc mũi chông, nếu nhiệt độ ngoài trời > 150C thì mở nilong 2 đầu luống, nếu trời lạnh thì tiếp tục che kín luống mạ.

Không nên dùng đạm để tưới thúc cho mạ mà dùng lân ngâm với nước giải để ngấu, pha loãng để tưới bổ sung cho mạ, hoặc dùng phân bón lá để phun lên lá cho mạ. Trước khi cấy 5 – 6 ngày phải luyện cho mạ quen dần với thời tiết ngoài trời bằng cách mở dần nilon. Khi mạ 2,5-3 lá là cấy được, cấy khi nhiệt độ ngoài trời > 160C. Mạ sân bén rễ nhanh, đẻ nhánh khoẻ không thua kém mạ dược.



3.5.3. Kỹ thuật làm mạ khay

- Chuẩn bị (cho 1 sào 500m2): Khay nhựa 10-12 khay, kích thước tuỳ từng loại. Hạt giống được xử lý và ngâm ủ tương tự như làm mạ ruộng và mạ trên nền đất cứng. Giá thể gồm: đất bột, mùn cưa và phân bón. Đất bột là loại đất đỏ Bazan, đất phù sa, đất màu đã được phơi ải, sàng loại bỏ tạp chất. Mùn cưa được lấy từ các cây gỗ tạp được ủ cho biến màu. Phân bón: Sử dụng phân đơn, phân hữu cơ vi sinh. Không nên sử dụng phân tổng hợp NPK. Phối trộn giá thể theo công thức: 1m3 đất + 0,4-0,5m3 mùn cưa + 1,6 – 1,7 kg đạm ure + 7-8 kg lân + 1,5-1,6 kg kali clorua. Giá thể sau khi phối trộn cần đưa vào kho ủ, tủ bạt. Thời gian ủ từ 15-20 ngày. Trước khi làm mạ phải phơi giá thể từ 12-15 giờ để bay hết khí độc.

- Gieo mạ: Cho giá thể vào 2/3 khay, sắp xếp khay thẳng hàng. Trước khi gieo, dùng ô doa tưới đẫm nước lên phần giá thể đã được chuẩn bị trên khay, đợi ráo nước mới tiến hành gieo mạ. Gieo 2 lần cho đều. Khi đảm bảo mật độ hạt trên khay, dùng ô doa tưới nước lại lần nữa để lúa trồi mầm giống lên trên và trải đều trên mặt khay. Tiến hành phủ lớp đất trên mặt kín hết hạt giống trong khay (bề dày của đất phủ khoảng 0,5-0,7 cm). Sau khi gieo, xếp khay vào nhà ủ, giữ ấm cho mạ tiếp tục mọc qua lớp đất mặt. Thời gian để trong nhà ủ khoảng 50-60 giờ. Khi bao lá mầm trên khay đều, khoẻ, thì đưa ra khu vực chăm sóc.



- Chăm sóc: Xếp khay thành luống rộng 0,9-1m. Kiểm soát nhiệt độ ở mức vừa phải (mùa hè phải làm nhà che bằng lưới đen hoặc để nơi có bóng râm để tránh hiện tượng khô héo táp lá, mùa đông phải che phủ nilon để tránh rét), thường xuyên kiểm tra độ ẩm và tưới ẩm kịp thời, không để hiện tượng thiếu nước trên khay nhất là ở vụ mùa.

- Khi mạ đạt 1,5-2 lá thật, lột mạ ra khỏi khay và đặt mạ xuống nền đất có trải 1 lớp nilon mỏng (không đặt mạ trực tiếp xuống nền sân gạch, xi măng). Chú ý đến nhiệt độ, độ ẩm và sâu bệnh trên mạ. (Vụ Xuân mạ phải được che phủ nilon 100%, và luyện mạ thích nghi với điều kiện bên ngoài trước khi đưa mạ ra cấy khoảng 4-5 ngày).

Mạ đạt tiêu chuẩn khi cấy: đạt 2,5-3,5 lá; chiều cao cây từ 10-20 cm, cứng cây, đanh dảnh, sạch sâu bệnh.

3.6 Kỹ thuật thâm canh lúa

3.6.1 Kỹ thuật làm đất trên ruộng lúa

+ Đất lúa cần phải được cày ải hoặc làm dầm. Ruộng làm dầm phải giữ nước. Ruộng làm ải cần được phơi nỏ. Làm ải có tác dụng làm cho đất thoáng khí, tiêu diệt được một số loại dịch hại trong đất.



+ Đất lúa phải được cày sâu, bừa kỹ cho đất nhuyễn, mặt ruộng phải phẳng thuận lợi cho khi cấy và điều tiết nước. Cày sâu tạo điều kiện cho bộ rễ lúa phát triển tốt, tăng nguồn dự trữ dinh dưỡng, có lợi cho các hoạt động của vi sinh vật vùng rễ phân giải các hợp chất hữu cơ có phân huỷ, tăng cường cung cấp dinh dưỡng cho cây lúa

+ Yêu cầu đất lúa trước khi cấy phải sạch gốc rạ, cỏ dại. Đất lúa cấy mạ trên nền đất cứng và mạ khay càng phải được làm kỹ hơn, mặt ruộng phẳng hơn và để mức nước nông để lúa cấy xong phát triển thuận lợi.

+ Thực hiện tốt khâu vệ sinh đồng ruộng, xử lý cỏ dại, cỏ bờ, các sản phẩm rơm rạ.

+ Bón vôi bột khử chua với lượng: 20-25kg/sào trên chân đất chua ở vụ xuân, 1 năm 1 lần bón.

3.6.2 Kỹ thuật cấy

Tuổi mạ khi cấy: Vụ Xuân cấy khi mạ đạt 3,5 – 4 lá, vụ Mùa tuổi cấy khi mạ 12 – 15 ngày tuổi.

Mật độ cấy: tuỳ chân đất, mùa vụ để điều chỉnh mật độ cho phù hợp:

- Cấy tay: Đối với lúa thuần, lúa chất lượng: 40-45 khóm/m2, 2 - 3 dảnh/khóm. Đối với lúa lai: 35-40 khóm/m2, 1 - 2 dảnh/khóm.

- Cấy máy: Điều chỉnh mật độ cấy từ 30-33 khóm/m2.

Kỹ thuật cấy: Cấy thẳng hàng, nông tay. Cấy theo băng rộng 1,2-1,4m, hướng băng cấy vuông góc với phương mặt trời mọc và lặn.

Khuyến khích việc áp dụng các tiến bộ mới trong kỹ thuật cấy như: Cấy ô vuông (hàng sông = hàng tay, mật độ 33-35 khóm /m2), cấy hàng rộng hàng hẹp (Cấy theo khung, cây cách cây 12 cm, hàng cách hàng 15 cm và 35 cm). Mở rộng diện tích sử dụng mạ khay cấy máy và kỹ thuật thâm canh lúa cải tiến (SRI).


  • Một số mật độ cấy phù hợp được áp dụng trong kỹ thuật SRI

Mật độ gieo cấy áp dụng trong kỹ thuật SRI

TT

Giống lúa/biện pháp gieo cấy

Số khóm/m2

Số dảnh cấy/khóm *

Khoảng cách cấy

(cm x cm)



1

Giống lúa:

- Lúa thuần

(cấy 35-45 khóm/m2)

35

40



45

2 – 3


2 – 3

2 – 3

17 x 17

16 x 16


16 x 16

- Lúa lai

(cấy 25-30 khóm/m2)



25

30


2 – 3

2 – 3


20 x 20

18 x 18


2

Phương thức gieo cấy:

- Sạ hàng



Lượng giống gieo sạ: 60-70 kg/ha, sử dụng phương pháp sạ hàng.


tải về 23.9 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   ...   5   6   7   8   9   10   11   12   ...   48




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương