TÁC ĐỘng của khu vực mậu dịch tự do asean trung quốC”


III. CÁC BIỆN PHÁP CHỦ YẾU KHAI THÁC TIỀM NĂNG HỢP TÁC PHÁT TRIỂN DỊCH VỤ VIỆT NAM VÀ TRUNG QUỐC TRONG BỐI CẢNH HÌNH THÀNH ACFTA



tải về 4.81 Mb.
trang31/79
Chuyển đổi dữ liệu19.07.2016
Kích4.81 Mb.
#2039
1   ...   27   28   29   30   31   32   33   34   ...   79

III. CÁC BIỆN PHÁP CHỦ YẾU KHAI THÁC TIỀM NĂNG HỢP TÁC PHÁT TRIỂN DỊCH VỤ VIỆT NAM VÀ TRUNG QUỐC TRONG BỐI CẢNH HÌNH THÀNH ACFTA:

1. Cơ chế hợp tác của ACFTA với yêu cầu hợp tác khai thác tiềm năng của các ngành dịch vụ của Việt Nam và Trung Quốc:


Việc xác định một cách rõ ràng cơ chế hợp tác phù hợp giữa Việt Nam và Trung Quốc để khai thác và phát triển các tiềm năng dịch vụ của hai bên là hết sức quan trọng. Đây là vấn đề đòi hỏi không những là các cơ quan quản lý mà cả các doanh nghiệp cũng cần phải nắm vững.

ACFTA là một cơ chế mới được hình thành từ cuối năm 2002 sau khi lãnh đạo ASEAN và Trung Quốc đồng ý ký kết Hiệp định khung về Hợp tác Kinh tế Toàn diện ASEAN – Trung Quốc tại Phnôm Pênh. Nội dung căn bản của Hiệp định khung là thể hiện các nguyên tắc và mục tiêu hợp tác của các bên trên hai phương diện tự do hoá thương mại và hợp tác kinh tế khác trong đó bao gồm vấn đề thương mại dịch vụ. ACFTA ra đời cũng là lúc Trung Quốc vừa kết thúc đàm phán gia nhập WTO trong khi Việt Nam vẫn đang trong quá trình đàm phán gia nhập. Như vậy, đối với Việt Nam và Trung Quốc, bên cạnh quan hệ hợp tác song phương truyền thống, không chỉ ACFTA mà tiến trình đàm phán gia nhập WTO của Việt Nam cũng sẽ ảnh hưởng đến quan hệ hợp tác kinh tế của hai nước. Mỗi một góc độ hợp tác có những đặc điểm riêng có khác nhau. Có thể nhìn nhận quan hệ giữa Việt Nam và Trung Quốc thông qua biểu đồ sau



WTO


ACFTA


Việt Nam



Trung Quốc

Song phương


ACFTA và quan hệ song phương của hai bên đặt trong khuôn khổ của WTO. Trung Quốc là thành viên của WTO, Việt Nam đang trong giai đoạn đàm phán, gia nhập WTO và là thành viên của ACFTA nên WTO đương nhiên trở thành một khuôn khổ pháp lý chung mà cả hai bên cùng tôn trọng. Tuy nhiên, WTO là một tổ chức đa phương có ý nghĩa như một diễn đàn cho đàm phán và xác lập các khuôn khổ pháp lý chung nên WTO không có ý nghĩa phát triển các hoạt động hợp tác kinh tế song phương. ACFTA là một cơ chế đặc biệt theo ngoại lệ của WTO. Những ưu đãi tiếp cận thị trường hay tự do hoá trong ACFTA có thể không nhất thiết phải dành cho các thành viên nằm ngoài ACFTA. Nói cách khác, ACFTA cho phép xúc tiến quá trình tự do hoá mạnh hơn và xa hơn WTO. Việt Nam và Trung Quốc không cùng là thành viên của WTO nên việc xúc tiến đàm phán tự do hoá trong ACFTA là hợp lý nhất mà không phục thuộc vào kết quả đàm phán gia nhập WTO của Việt Nam. Ngoài ra, ACFTA cũng cho phép các bên xúc tiến các hoạt động hợp tác kinh tế trong khu vực cũng như cơ chế hợp tác song phương căn cứ vào điều kiện đặc thù của mỗi nước như Việt Nam và Trung Quốc. Tuy vậy, vì là một cơ chế mới, ACFTA cần có thời gian hoàn thiện để phát huy hiệu quả.

Quan hệ truyền thống song phương giữa Việt Nam và Trung Quốc được xác lập bằng nhiều hình thức và loại hiệp định song phương trước đây là nền tảng chủ yếu để hai bên tăng cường hợp tác phát triển kinh tế trong nhiều năm qua. Các thoả thuận như vậy xuất phát từ nhu cầu thực tế giữa hai quốc gia. Hàng năm, hai bên thường xuyên tiến hành các hoạt động rà soát, phát hiện những trở ngại để tìm cách tháo gỡ trong quan hệ giữa hai nước. Trên thực tế, quan hệ song phương có phạm vi rộng rãi không chỉ với mục tiêu mở rộng tiếp cận thị trường mà còn nhấn mạnh đến vấn đề hỗ trợ, hợp tác để phát triển giữa hai quốc gia. Sau khi Trung Quốc gia nhập WTO, có thể nói về căn bản, các thoả thuận song phương đều phải phù hợp với nguyên tắc của WTO. Tuy vậy, trong điều kiện hai quốc gia liền kề, các hệ thống hợp tác biên mậu ưu đãi giữa hai nước, kể cả trong lĩnh vực dịch vụ được xem là một ngoại lệ riêng của WTO. Do đó, các hợp tác hay ưu đãi biên mậu vẫn có thể tiếp tục được duy trì . Ngoài ra, các hoạt động hợp tác, hỗ trợ và cùng khai thác thế mạnh của nhau là một thế mạnh riêng của các thoả thuận song phương không liên quan đến tiếp cận thị trường. Cơ chế song phương giữa Việt Nam và Trung Quốc như hiện nay rất thiết thực để phát triển hợp tác giữa hai nước và phát triển các quan hệ biên mậu trên cơ sở các ưu đãi tiếp cận thị trường riêng.

Kết luận, cơ chế hợp tác của ACFTA sẽ quyết định mức cam kết, mở cửa thị trường của hai nước Việt Nam – Trung Quốc và góp phần xây dựng một cơ chế hợp tác kinh tế bổ sung. Cơ chế song phương sẽ là nhân tố quyết định hiệu quả hợp tác thực tế của hai bên trong giai đoạn hiện nay, đồng thời mở rộng mức tiếp cận thị trường của ACFTA trong điều kiện pháp triển hợp tác kinh tế biên mậu.


2. Các biện pháp hợp tác khai thác tiềm năng của các ngành dịch vụ của Việt Nam và Trung Quốc

2.1. Dịch vụ viễn thông


2.1.1. Tạo thuận lợi cho hoạt động đầu tư, xây dựng mạng lưới và cung cấp dịch vụ
Để hiện đại hóa mạng lưới, Việt Nam chủ trương lựa chọn các công nghệ tiên tiến nhất, với các yêu cầu về chuyển giao công nghệ và đào tạo trong những năm qua đây chưa phải là thế mạnh của các công ty Trung Quốc. Tuy nhiên trong thời gian gần đây, một số tập đoàn lớn của Trung Quốc đã phát triển rất mạnh (China Telecom, China Unicom, China Netcom...), tạo được cơ sở về nguồn vốn, nhân lực và công nghệ, mở rộng hơn khả năng đầu tư khai thác thị trường quốc tế, trong đó có các nước láng giềng như Việt Nam. Mặc dù môi trường cạnh tranh của Trung Quốc đang tăng lên do các cam kết gia nhập WTO đang phát huy hiệu lực nhưng các tập đoàn viễn thông lớn Trung Quốc có thể tham gia đầu tư phát triển mạng lưới và cung cấp dịch vụ viễn thông tại Việt Nam. Những chính sách ưu đãi đối với các nhà khai thác mới cũng là động lực quan trọng để thu hút các nhà đầu tư Trung Quốc. Việt Nam có thể xem xét mở cửa thị trường viễn thông và cấp phép cho nhiều nhà khai thác mới, tạo điều kiện cho các công ty của Trung Quốc có nhiều lựa chọn hơn trong việc tìm kiếm đối tác. Tuy nhiên, hai bên sẽ cần xử lý các khó khăn liên quan đến tiêu chuẩn kỹ thuật và nhu cầu phát triển cụ thể của ngành dịch vụ của hai quốc gia. Đây là vấn đề có thể xử lý trong khuôn khổ ACFTA hoặc song phương.
Trong khuôn khổ hợp tác phát triển cơ sở hạ tầng thông tin khu vực, hai bên có nhiều cơ hội tham gia hợp tác về đầu tư, trao đổi kinh nghiệm và chính sách phát triển các hệ thống thông tin thế hệ mới. Các xa lộ thông tin khu vực cũng góp phần quan trọng trong việc đáp ứng nhu cầu về dung lượng mạng ngày càng cao của cả Việt Nam và Trung Quốc, nhất là nhu cầu về băng rộng. Hai nước cần tiếp tục chủ động tham gia và nghiên cứu xây dựng các sáng kiến mới để tăng cường khả năng kết nối các mạng viễn thông của mỗi nước.
2.1.2. Nâng cao hiệu quả chuyển giao công nghệ
Công nghiệp viễn thông là một thế mạnh của Trung Quốc, đặc biệt là với các hệ thống thiết bị truyền dẫn và chuyển mạch cho mạng thế hệ mới, mạng thông tin di động, thiết bị đầu cuối... Ngoài lợi thế về giá, thiết bị của Trung Quốc đã bước đầu khẳng định được chất lượng, đáp ứng được các tiêu chuẩn kỹ thuật rất cao của mạng viễn thông Việt Nam. Với các lĩnh vực công nghệ cao, hiện nay Chính phủ Việt Nam đã có nhiều chính sách ưu đãi như về các loại thuế, ưu tiên sử dụng đất... Cùng với sự phát triển nhanh của thị trường viễn thông ở Việt Nam, các cơ chế hợp tác đa phương như ACFTA sẽ tạo điều kiện để mở rộng thị trường thiết bị trong khu vực, tạo thêm động lực để các nhà sản xuất của Trung Quốc đầu tư vào Việt Nam. Trung Quốc là nơi hiện tập trung nhiều tập đoàn, các công ty xuyên quốc gia trong khu vực và thế giới. Đồng thời, các cơ quan quản lý chuyên ngành cần hợp tác chặt chẽ hơn, có chính sách khuyến khích các doanh nghiệp thiết lập quan hệ đối tác và xây dựng các dự án đầu tư trong lĩnh vực này.
2.1.3. Phát triển nguồn nhân lực có chuyên môn cao
Bước đầu hai bên đã đạt được một số kết quả tích cực trong việc phát triển nguồn nhân lực, cả về quản lý, khai thác và điều hành mạng lưới. Tuy nhiên, để đáp ứng yêu cầu phát triển của mạng thông tin thế hệ mới, đa phương tiện và với nhiều loại hình ứng dụng, năng lực và trình độ của đội ngũ nhân viên, kỹ sư phải không ngừng được nâng cao. Các cơ quan chức năng của hai bên cần chủ động xây dựng các cơ chế hỗ trợ, khuyến khích các trường đại học, học viện chuyên ngành, các cơ sở nghiên cứu và đạo tạo của hai nước trực tiếp hợp tác thông qua các chương trình, kế hoạch đào tạo cụ thể. Đây là biện pháp có thể thông qua các hoạt động hợp tác song phương hoặc đa phương trong khuôn khổ ACFTA.

2.2 Dịch vụ y tế 

2.2.1. Tạo thuận lợi cho hoạt động đầu tư và cung cấp dịch vụ trực tiếp giữa hai nước



Đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực y tế là một trong những biện pháp quan trọng của hai bên nhằm xây dựng một hệ thống dịch vụ y tế có thể đáp ứng được nhu cầu chính đáng của các tầng lớp dân cư. Mở cửa thị trường có thể gắn với các cam kết của mỗi bên trong khuôn khổ WTO hay khu vực như ACFTA. Năng lực cạnh tranh và triển vọng đầu tư (cả về tài chính, công nghệ và nhân lực) của y tế Việt Nam ra nước ngoài còn hạn chế, chưa kể đòi hỏi phải đáp ứng nhu cầu ngày càng cao ở trong nước. Đánh giá cho thấy ít có khả năng y tế Việt Nam đầu tư và cung cấp dịch vụ, khai thác thị trường Trung Quốc cho dù cam kết của Trung Quốc tại WTO là rất thông thoáng. Ngược lại nhờ lợi thế về con người, công nghệ và sự gần gũi về văn hoá, Trung Quốc có thể là một nguồn đầu tư quan trọng và đáng tin cậy trên thị trường Việt Nam.


Bên cạnh đó, với đặc thù là một ngành vừa phục vụ vừa kinh doanh, đầu tư về y tế ở quy mô lớn có tính rủi ro cao, cần có sự hỗ trợ về cơ chế và ưu đãi về tín dụng của Chính phủ 2 nước. Hợp tác ở quy mô nhỏ như việc mở các phòng khám đa khoa và chuyên khoa, các trung tâm điều trị có thể được thúc đẩy thông qua việc tạo điều kiện cho các cơ sở y tế hai nước thiết lập quan hệ trực tiếp. Vấn đề là hai bên cần tạo dựng một khuôn khổ giám sát và kiểm tra chặt chẽ đối với chất lượng dịch vụ y tế, mở rộng các nguồn tài chính tốt hỗ trợ các doanh nghiệp của hai bên cung cấp dịch vụ y tế.
2.2.2. Phát triển công nhận bằng cấp trong các dịch vụ chuyên môn
Một trong những khó khăn lớn nhất trong hợp tác y tế đó là vấn đề thừa nhận hoặc công nhận bằng cấp chuyên môn trong lĩnh vực y tế. Sự khác biệt về hệ thống giáo dục, về thử nghiệm khoa học của mỗi bên là trở ngại lớn và cần phải có sự hợp tác lâu dài, có chiều sâu. Cơ quan y tế hai nước cần mở rộng trao đổi kinh nghiệm, kiến thức, hợp tác đào tạo nguồn nhân lực để từng bước thống nhất về các tiêu chuẩn cụ thể. Biện pháp này có thể thực hiện trên cơ sở song phương hoặc đa phương (ACFTA hay WTO).
2.2.3. Phát triển vốn quí trong y học cổ truyền của hai nước
Y học cổ truyền của hai nước có nhiều điểm tương đồng và đang ngày càng được thế giới công nhận. Đặc biệt, khu vực ASEAN chịu ảnh hưởng mạnh bởi văn hoá và tập tục của Trung Quốc sẽ dễ dàng chấp nhận ý nghĩa và tinh hoa của y học cổ truyền của Trung Quốc. Đến nay, Trung Quốc đã đầu tư hiện đại hóa và tiến hành nghiên cứu để tiêu chuẩn hóa chất lượng các bài thuốc cổ truyền, lựa chọn 71 bài thuốc phổ biến nhất để phổ biến và sử dụng rộng rãi. Kinh nghiệm của Trung Quốc về vấn đề này là rất quý báu. Y học cổ truyền của Việt Nam đã ăn sâu vào công chúng trong nước nhưng lại ít được biết đến tại Trung Quốc. Hai nước cần đẩy mạnh hợp tác, trao đổi chuyên gia và nghiên cứu và phổ biến rộng rãi y học cổ truyền, từng bước quảng bá y học của hai nước trong khu vực.
Hai nước cần phối hợp để dịch vụ y tế gắn với y học cổ truyền có thể phát huy trong khu vực ASEAN, nơi cũng có những điều kiện thuận lợi về sự gần gũi về văn hoá và truyền thông. Biện pháp này có thể được thực hiện thông qua các chương trình hợp tác ASEAN – Trung Quốc hay cao hơn nữa các cam kết tiếp cận thị trường.
2.2.4. Trao đổi kinh nghiệm và xúc tiến chuyển giao công nghệ, hợp tác ứng dụng công nghệ thông tin vào công tác khám, điều trị bệnh ở hai nước
Việt Nam có cơ hội tiếp cận đến các công nghệ mới trong ngành y tế của Trung Quốc trên hai khía cạnh hợp tác hoặc mở cửa thị trường để thu hút đầu tư. Thông qua hoạt động đầu tư và thương mại, Trung Quốc có thể là nguồn cung cấp và chuyển giao công nghệ quan trọng cho Việt Nam. Cơ quan chức năng của hai bên cần tích cực trao đổi thông tin, thống nhất tiêu chuẩn và phổ biến rộng rãi đối với doanh nghiệp của hai bên xem xét và quyết định. Đặc biệt cần khuyến khích các trường đại học y, các viện y dược và các bệnh viện lớn của hai bên xây dựng các chương trình hợp tác trực tiếp, trao đổi kết quả nghiên cứu khoa học, kinh nghiệm điều trị và phối hợp xử lý các đại dịch.
2.2.5. Phát triển hợp tác du lịch gắn với hoạt động khám và chữa bệnh giữa hai nước

Cùng với dòng khách du lịch của hai nước và các khách quốc tế đến với Việt Nam và Trung Quốc, tiềm năng du lịch gắn với dịch vụ khám chữa bệnh và an dưỡng là rất lớn. Với lợi thế là những quốc gia láng giềng, Trung Quốc và Việt nam có thế hợp tác để mở rộng hơn nữa loại du lịch gắn với khám chữa bệnh và an dưỡng. Cơ quan du lịch và y tế hai nước cần hợp tác chặt chẽ để tạo nền mong cần thiết cho việc phát triển các tuyến du lịch gắn với việc trao đổi hoặc hỗ trợ phương tiện, nhân lực trong dịch vụ y tế. Ngoài kênh song phương, hai nước có thể phối hợp cùng ASEAN đề phát triển loại hình dịch vụ này trong khu vực.


2.3. Dịch vụ bảo hiểm

2.3.1. Tạo điều kiện để các doanh nghiệp bảo hiểm hai nước đầu tư trực tiếp


Chính phủ hai nước cần có những giải pháp mở rộng giao lưu giữa các doanh nghiệp hai nước; tăng cường hoạt động xúc tiến đầu tư, giới thiệu các cơ hội đầu tư trong ngành bảo hiểm. Các doanh nghiệp bảo hiểm Trung Quốc có tiềm năng được tạo điều kiện khảo sát và tìm kiếm các thông tin về môi trường pháp lý, về khả năng tiếp cận thị trường Việt Nam.
Tại các địa phương biên giới, doanh nghiệp bảo hiểm của hai bên cần được tạo điều kiện hoặc ưu đãi để mở các chi nhành, các đại lý bảo hiểm một cách rộng rãi để hỗ trợ các hoạt động kinh tế và thương mại khu vực biên giới. Biện pháp này có thể được thực hiện trên cơ sở song phương hơn là cấp khu vực ACFTA hay WTO (dựa trên ngoại lệ MFN).
Vấn đề cam kết mở cửa thị trường của hai bên cũng cần được xúc tiến để nâng cao niềm tin của các nhà đầu tư, đồng thời đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế, khai thác tốt hơn thị trường bảo hiểm của hai bên. Ngoài kênh phân phối truyền thống là do các doanh nghiệp bảo hiểm trực tiếp thực hiện, chính phủ hai nước cũng cần khuyến khích các doanh nghiệp bảo hiểm phát huy hình thức phân phối khác thông qua các môi giới và đại lý bảo hiểm và nâng cao trình độ của đội ngũ này; giúp doanh nghiệp bảo hiểm và khách hàng tiết kiệm thời gian và chi phí cho các giao dịch bảo hiểm, nâng cao hiệu quả của ngành dịch vụ có đóng góp lớn trong nền kinh tế hai nước.

2.3.2. Khảo sát, trao đổi kinh nghiệm và phối hợp khai thác các thị trường bảo hiểm tiềm năng


Chính phủ hai nước thường xuyên tổ chức các diễn đàn kinh doanh, hội chợ, triển lãm, ... để các doanh nghiệp bảo hiểm của hai nước có thể tăng cường giao lưu học hỏi kinh nghiệm. Cùng có những điểm chung về hoàn cảnh và điều kiện phát triển, các kinh nghiệm của Trung Quốc về thực hiện các cam kết và hội nhập ngành bảo hiểm là rất rất cần thiết với Việt Nam.
Để khai thác có hiệu quả các tiềm năng, chính phủ cũng cần xây dựng cơ chế phối hợp giữa hiệp hội bảo hiểm và các bộ ngành hữu quan phụ trách các ngành có tiềm năng về bảo hiểm với Trung Quốc như Bộ Thương mại, Tổng cục Du lịch, Bộ Xây dựng để nắm vững nguồn khách hàng tiềm năng là các nhà xuất nhập khẩu Việt Nam và Trung Quốc, khách du lịch Trung Quốc, các nhà thầu công trình của Trung Quốc tại Việt Nam.
2.3.3. Thông tin, tuyên truyền
Hai nước cần tích cực đẩy mạnh công tác thông tin, tuyên truyền trên các phương tiện thông tin đại chúng về:
(i) Những cam kết của hai nước về mở cửa ngành bảo hiểm trong khuôn khổ WTO và ACFTA;
(ii) Tác dụng của bảo hiểm đối với hoạt động thương mại, đầu tư, du lịch cũng như

đời sống của nhần dân đề khuyến khích doanh nhân, nhà thầu xây dựng và khách du lịch hai nước mua bảo hiểm do doanh nghiệp bảo hiểm của hai nước cung cấp.


2.3.4. Tạo hành lang pháp lý để phát triển các sản phẩm bảo hiểm và kênh phân phối mới
Chính phủ hai nước cũng cần tạo điều doanh nghiệp bảo hiểm hai nước phát triển các sản phẩm bảo hiểm mới có tiềm năng như bảo hiểm cháy, nổ, bảo hiểm xuất nhập khẩu hàng hóa, bảo hiểm xây dựng, bảo hiểm du lịch, bảo hiểm nông nghiệp ... theo hướng gắn liền quyền lợi giữa doanh nghiệp bảo hiểm và người tham gia bảo hiểm, bổ sung một số biện pháp tăng thêm quyền lợi của những người tham gia bảo hiểm như mở rộng phạm vi bảo hiểm, bổ sung các quyền lợi bảo hiểm trong các sản phẩm bảo hiểm hiện có. Biện pháp này một mặt tạo cho doanh nghiệp bảo hiểm thêm sự chủ động sẵn sàng đón nhận cơ hội mới cung cấp dịch vụ bảo hiểm đa dạng cho hoạt động kinh tế khu vực, đồng thời nâng cao uy tín và trách nhiệm của doanh nghiệp bảo hiểm đối với sản phẩm của mình.

2.4. Dịch vụ phân phối

2.4.1. Thúc đẩy đầu tư trực tiếp của hai bên trong lĩnh vực phân phối


Trong khuôn khổ đàm phán gia nhập WTO của Việt Nam hay ACFTA, cơ hội mở rộng khả năng đầu tư cho doanh nghiệp Trung Quốc là vấn đề cần được xem xét. Trong bối cảnh hiện nay, Việt Nam đã cho phép một số doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ phân phối lớn như Bourbon (Pháp), Metro Cash&Carry (Mỹ)... đã đánh dấu sự mở rộng cạnh tranh trong lĩnh vực phân phối. Doanh nghiệp Trung Quốc đang đứng vững trên sân nhà có thế là một đối trọng tốt trong cạnh tranh trên thị trường Việt Nam, đồng thời góp phần đa dạng hoá các hình thức kinh doanh dịch vụ, phát triển trao đổi và tạo đà cho tăng trưởng kinh tế.
Ngược lại, cơ quan quản lý của Việt Nam cũng cần có biện pháp khuyến khích doanh nghiệp mình tập trung khai thác thế mạnh của mình trong những lĩnh vực có tiềm năng như cung cấp dịch vụ nhượng quyền thương mại, phân phối các sản phẩm mà mình có thế mạnh như nông sản, thuỷ hải sản.
2.4.2. Tăng cường phối hợp giữa các cơ quan, tạo thuận lợi cho hoạt động phân phối
Hai nước cần thúc đẩy việc xây dựng một hành lang pháp lý về đăng ký và bảo hộ thương hiệu, xây dựng cơ chế hợp tác, phối hợp giữa các cơ quan quản lý và đăng ký của hai nước về thương hiệu và sở hữu trí tuệ. Phối hợp kiểm tra việc thực hiện và xử lý kịp thời các vi phạm quy định về thương hiệu, nhãn mác, bản quyền sở hữu trí tuệ, tạo môi trường kinh doanh thuận lợi cho doanh nhân hai nước thực hiện hoạt động nhượng quyền thương mại.
Thiết lập và kết nối hệ thống thông tin về thị trường hai nước và thị trường quốc tế giữa các cơ quan quản lý, các hiệp hội và doanh nghiệp hai nước, từng bước kết nối các thông tin này tới các chợ đầu mối bán buôn, các sàn giao dịch, nhằm phản ánh kịp thời các diễn biến thị trường-giá cả, phục vụ tốt hoạt động kinh doanh của các nhà phân phối hai nước, đặc biệt ở khu vực biên giới.
Việt Nam và Trung Quốc cần tiếp tục mở rộng hợp tác nhằm bảo đảm kiểm soát tốt chất lượng hàng hoá nhập khẩu từ hai phía, tránh hàng giả, hàng kém chất lượng của hai bên thâm nhập vào hệ thống phân phối. Đây là một khía cạnh cần đặc biệt quan tâm, giúp tăng cường chất lượng của các dịch vụ phân phối.
2.4.3. Trao đổi kinh nghiệm về quản lý
Việt Nam và Trung Quốc cần tăng cường chia sẻ kinh nghiệm trong quản lý điều hành hệ thống phân phối trên một thị trường cực kỳ phức tạp với quy mô lớn nhất thế giới. Hai nước xúc tiến các chương trình trao đổi chuyên gia trong lĩnh vực phân phối, tổ chức các khóa đào tạo ngắn hạn cho các đầu mối bán buôn về quản lý hoạt động phân phối hiện đại để có thể giữ thế cân bằng trong cuộc chạy đua với các nhà bán lẻ nước ngoài. Các nhà quản lý Việt Nam cần tăng cường giao lưu, khảo sát, học hỏi kinh nghiệm tổ chức quản lý hệ thống phân phối của Trung Quốc để vận dụng trong nước. Trên cơ sở tiếp thu có chọn lọc các số kinh nghiệm này của Trung Quốc và tình hình thực tế, các nhà quản lý phân phối một số mặt hàng có tính nhạy cảm của Việt Nam sẽ tăng cường khả năng dự báo thị trường, củng cố vai trò tổ chức thị trường của nhà nước bằng cách xây dựng các đề án, chiến lược phát triển hệ thống phân phối nội địa trong dài hạn.

2.5 Dịch vụ vận tải

2.5.1. Xây dựng các chương trình, kế hoạch chung phát triển hệ thống giao thông vận tải giữa hai quốc gia


Chính phủ hai nước tập trung xây dựng, chi tiết hoá các chương trình, kế hoạch phát triển và kết nối hệ thống giao thông vận tải giữa hai quốc gia, giữa các vùng và địa phương của hai nước và rộng hơn nữa là trong khu vực Trung Quốc và ASEAN. Thông qua hợp tác dịch vụ vận tải với Việt Nam, Trung Quốc có điều kiện thâm nhập thị trường tiểu vùng Mê kông mở rộng và thị trường ASEAN. Trên cơ sở kế hoạch này, Việt Nam và Trung Quốc sẽ tập trung nguồn lực có trọng điểm, đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng, mở rộng sự tham gia của các doanh nghiệp vận tải trong hệ thống, góp phần bảo đảm hiệu quả của hệ thống gắn với mục tiêu phát triển kinh tế. Hiện tại, nhiều dự án đã và đang được nghiên cứu hoặc triển khai trong khuôn khổ hợp tác song phương hay khu vực như hợp tác Tiểu vùng sông Mê Kông.
2.5.2. Tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động dịch vụ vận tải qua biên giới
Để phát triển giao thông vận tải, các cơ quan chức năng của hai nước cần tạo điều kiện cho doanh nghiệp của hai nước có thể sử dụng các dịch vụ vận tải của nhau qua biên giới hoặc săn sàng chấp nhận áp dụng các công nghệ vận tải mới vào việc vận chuyển hàng hoá giữa hai biên giới. Quan trọng là cần phải đơn giản hoá, minh bạch hoá các thủ tục thông quan tại các cửa khẩu biên giới như hài hoà hoá thủ tục về kiểm dịch, vệ sinh, an toàn, hải quan.

2.5.3. Mở rộng đầu tư trực tiếp cho doanh nghiệp hai nước


Liên doanh, liên kết giữa Việt Nam và Trung Quốc để cung cấp dịch vụ vận tải ở hai nước là cơ hội để hai bên nâng cao năng lực cạnh tranh tốt hơn. Hai nước cần hướng tới một môi trường đầu tư thông thoáng hơn trong lĩnh vực dịch vụ nhằm đẩy mạnh khả năng khai thác tiềm năng, lợi thế đặc thù của hai nước trong ngành vận tải. Việc các doanh nghiệp hai bên tham gia vào quá trình phát triển hệ thống vận tải giữa hai nước và khu vực sẽ tạo nên mối quan hệ hữu cơ và khăng khít giữa các nguồn hàng hoá, hành khách di chuyển qua biên giới và khu vực. Chính phủ hai nước tạo điều kiện để các doanh nghiệp liên doanh, liên kết giữa hai nước cần tập trung khai thác các thị trường còn bỏ ngỏ như vận tải đa phương thức, chuyển tải hàng hoá biên mậu từ Việt Nam sang các tỉnh biên giới của Trung Quốc.
2.5.4. Hỗ trợ kỹ thuật và chuyển giao công nghệ
Thực hiện các thoả thuận kinh tế song phương và khu vực sẽ giúp cho tiềm năng của hai nước được phát huy và bổ sung cho nhau. Việc hỗ trợ vốn, kỹ thuật của Trung Quốc đối với Việt Nam trong lĩnh vực vận tải là cần thiết, nhất là về kinh nghiệm phát triển cơ sở hạ tầng đường biển (đóng tàu, phát triển cảng, phát triển đội thương thuyền), đường không (quản lý không lưu, và thương quyền bay), đường sắt (đầu máy, toa xe, thông tin tín hiệu, vận chuyển liên vận hàng hoá và hành khách, xe điện nội đô) và nhất là đường bộ (vận tải quá cảnh quốc tế). Qua đó sẽ hỗ trợ các doanh nghiệp vận tải nâng cao năng lực cạnh tranh, áp dụng công nghệ tiên tiến và trao đổi thông tin thị trường. Hai bên sẽ dần chấp nhận một hệ thống hài hoá về thủ tục, chuẩn mực trong giao thông đường bộ, đường sắt, tạo điều kiện cho các phương tiên di chuyển thuận lợi. Việc hợp tác phải trên nguyên tắc bình đẳng, đôi bên cùng có lợi và phải tôn trọng lẫn nhau, luôn nâng cao chất lượng dịch vụ.

2.5.5. Mở rộng và liên kết các loại hình dịch vụ vận tải


Muốn khai thác tiềm năng cung cấp dịch vụ vận tải, điều cốt yếu đối với doanh nghiệp hai nước là nâng cao chất lượng cung cấp dịch vụ vận tải thông qua cạnh tranh trên tất cả các loại hình vận tải: đường bộ, đường sắt, đường biển và đường không. Ưu tiên cơ bản là tiếp tục củng cố hệ thống giao thông đường sắt, đường bộ, hàng không đặc biệt là các tuyến đường nối các địa phương giữa hai nước tạo thuận lợi cho hàng hoá và hành khách lưu chuyển nhanh chóng.

2.6. Dịch vụ du lịch


2.6.1. Hợp tác thiết lập các tour du lịch giữa hai quốc gia
Tiềm năng du lịch hai nước đang phát triển, hội nhập mạnh mẽ, có tác động tích cực đến thị trường của nhau và thâm nhập thị trường khu vực và thế giới. Thiết lập các tour du lịch giữa 2 nước cho công dân Việt Nam (82 triệu người) và Trung Quốc (1,3 tỷ người) và cho khách du lịch thế giới là một lợi thế của 2 nước. Với địa lý gần kề, Việt Nam và Trung Quốc có điều kiện hợp tác phát triển du lịch bằng đường bộ, đường không, đường sắt và đường biển. Mục tiêu của hai bên là củng cố các tuyến du lịch hiện có đang khai thác hiệu quả, trên cơ sở đó liên kết để thu hút khách từ các nước thứ ba. Thiết lập các tuyến du lịch mới đối với các danh lam, thắng cảnh biên giới để hai nước khai thác. Các cơ quan chức năng của hai nước cùng tiến hành thoả thuận khung khổ để doanh nghiệp hai bên có thể mở rộng hợp tác, cụ thể như vấn đề cùng triển khai các chương trình quảng cáo chung, vấn đề quy hoạch vùng để mở rộng khai thác du lịch.
2.6.2. Phát triển đầu tư trực tiếp trong lĩnh vực du lịch
Với sự tương đồng về văn hóa và sự hiểu biết nhau, 2 nước có đầy đủ khả năng liên doanh cung cấp dịch vụ du lịch trọn gói; qua đó nâng cao năng lực cạnh tranh với các nước trong khu vực. Du lịch Việt nam có thể tranh thủ vốn đầu tư của các nhà cung cấp dịch vụ du lịch của Trung Quốc để phát triển cơ sở hạ tầng du lịch và đào tạo cán bộ, nhất là đội ngũ hướng dẫn viên, về kinh nghiệm quản lý, kinh doanh du lịch của Trung Quốc. Việt Nam và Trung Quốc có thể sẽ thoả thuận trên cơ sở song phương hoặc ACFTA về mở cửa thị trường dịch vụ du lịch. Để việc phát triển các hoạt động đầu tư trực tiếp có định hướng và bền vững, các cơ quan chức năng quản lý du lịch tại các địa phương cần phải tổ chức quy hoạch chặt chẽ.
2.6.3. Phát triển các loại hình dịch vụ mới
Tạo điều kiện cho các doanh nghiệp du lịch, phối hợp với các địa phương để phát triển thêm các loại hình dịch vụ mới, phù hợp với đặc điểm văn hoá, xã hội như du lịch văn hoá, du lịch lịch sử, du lịch sinh thái và du lịch gắn với hoạt động khám chữa bệnh giữa Việt Nam và Trung Quốc. Doanh nghiệp của hai nước được tạo mọi điều kiện cần thiết để thu hút khách du lịch đối với các loại hình dịch vụ mới này bao gồm cả việc thiết kế các tuyến du lịch chung, mở rộng đầu tư, liên doanh, liên kết, phối hợp của các cơ quan quản lý về nội dung truyền bá, quảng cáo về các hoạt động du lịch và tổ chức chặt chẽ có kế hoạch các hoạt động du lịch tại địa phương.
2.6.4. Biện pháp hợp tác để đẩy mạnh du lịch giữa hai nước
Các biện pháp hợp tác du lịch giữa hai nước không trực tiếp liên quan đến vấn đề cam kết tự do hoá trong khuôn khổ ACFTA hay WTO. Tuy nhiên, hiệu quả hợp tác chung trong lĩnh vực dịch vụ của hai bên phụ thuộc rất lớn vào nội dung này. Hai bên cần tiếp tục tạo hoàn chỉnh các quy chế, tạo thuận lợi cho khách du lịch như tiến hành các thủ tục nhập cảnh tại cửa khẩu (thủ tục biên phòng, hải quan, kiểm dịch … ) thông thoáng và thuận lợi hơn, vấn để thanh toán ngân hàng và cải thiện dịch vụ vận tải, quá cảnh với giá cạnh tranh. Ngoài ra, Việt Nam cũng cần Trung Quốc hỗ trợ trực tiếp về đào tạo nguồn nhân lực, kinh nghiệm quản lý du lịch như qui hoạch vùng, lãnh thổ, thiết kế và quảng bá sản phẩm du lịch ra bên ngoài.



tải về 4.81 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   ...   27   28   29   30   31   32   33   34   ...   79




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương