Tác giả luận văn xin được gửi lời cảm ơn chân thành đến


Phương pháp đánh giá tổng hợp chất lượng rau trên địa bàn thành phố Hà Nội



tải về 0.96 Mb.
trang9/13
Chuyển đổi dữ liệu04.08.2016
Kích0.96 Mb.
#12311
1   ...   5   6   7   8   9   10   11   12   13

3.2. Phương pháp đánh giá tổng hợp chất lượng rau trên địa bàn thành phố Hà Nội.


Chất lượng một sản phẩm không phải là một kết quả ngẫu nhiên, nó là kết quả tác động của hàng loạt yếu tố có liên quan chặt chẽ với nhau, bao gồm các yếu tố đầu vào và các quá trình từ đầu vào đến đầu ra. Chất lượng rau cũng không nằm ngoài quy luật đó.

Phương pháp đánh giá chất lượng rau dựa vào phân tích đặc tính của rau thành phẩm và so sánh kết quả với các tiêu chuẩn sẵn có là cách làm phổ biến; tuy nhiên đó chưa phải là phương pháp thực sự hiệu quả, nhất là nhìn trên khía cạnh kinh tế và thực tế hoạt động sản xuất, kinh doanh rau ở Hà Nội. Cách làm hiệu quả hơn là, ngoài khâu phân tích đánh giá chất lượng rau thành phẩm, cần thực hiện quá trình kiểm soát chất lượng rau từ các yếu tố đầu vào, quá trình sản xuất đến các sản phẩm đầu ra. Phương pháp kiểm soát, đánh giá tổng hợp chất lượng rau này giúp đảm bảo chất lượng sản phẩm đầu ra ngay từ các khâu chọn đất, chọn giống, chăm bón, canh tác... Nói khác đi, đây là cách thức kiểm soát cả quá trình từ sản xuất đến khi rau được đưa vào tiêu thụ, giúp phát hiện và khắc phục ngay những yếu tố có thể ảnh hưởng đến chất lượng rau trồng - thay vì chỉ có thể biết được chất lượng rau khi rau đã trở thành thương phẩm. Kiểm soát toàn diện cả quá trình, vì thế, sẽ giúp đảm bảo rau thành phẩm có khả năng cao nhất đáp ứng các yêu cầu về chất lượng.

Ngoài ra, Phương pháp kiểm soát và đánh giá tổng hợp chất lượng rau còn giúp giảm thiểu các rủi ro về chất lượng cho rau, và như thế giúp giảm tổng chi phí xã hội trên mỗi đơn vị rau thương phẩm khi rau trồng ra có khả năng đáp ứng tốt hơn yêu cầu về chất lượng. Hơn thế nữa, nó cũng giúp chính người trồng rau có thể giảm chi phí sản xuất trong dài hạn (ví dụ như khi so với rau được sản xuất ra và chỉ trước khi ra thị trường mới biết là không đạt yêu cầu), và giúp cơ quan quản lý giảm chi phí quản lý hành chính, thực thi pháp luật trong dài hạn.

Khi rau thương phẩm đáp ứng tốt được các chỉ tiêu chất lượng, chi phí xã hội cũng theo đó giảm đi (khi giảm nguy cơ ngộ độc do ăn rau, giảm chi phí y tế cho các vấn đề về sức khỏe do ăn rau mà ra, giảm chi phí khắc phục ô nhiễm môi trường do trồng rau...). Trong ngắn hạn, áp dụng phương pháp này sẽ làm tăng chi phí (do thêm chi phí phân tích đất, nước, chi phí đầu tư thiết bị kỹ thuật...). Nhưng trong dài hạn, phần chi phí tăng thêm ban đầu này sẽ được bù đắp hoàn toàn bởi các chi phí cắt giảm được trong việc kiểm soát, đánh giá chất lượng cũng như những tiết kiệm tài chính cho việc khắc phục chất lượng rau không đảm bảo (do giảm số lượng rau không đảm bảo chất lượng), khắc phục ô nhiễm môi trường (do ít tác động xấu đến môi trường), chữa trị bệnh tật và nâng cao sức khỏe người dân (do rau đáp ứng tốt hơn yêu cầu chất lượng nên giảm số trường hợp ngộ độc do rau, giảm tác động xấu đến sức khỏe ra ăn rau không an toàn...). Áp dụng phương pháp này còn đảm bảo nền nông nghiệp thành phố nói chung và hoạt động sản xuất, tiêu thụ rau trở nên bền vững hơn – cả về mặt kinh tế, sinh thái và môi trường.

Với những cơ sở ban đầu mà Hà Nội đã tạo được thông qua việc quản lý, kiểm soát chất lượng rau tiêu thụ trên địa bàn thành phố (như các mô hình trồng rau an toàn, việc tăng cường thanh tra, kiểm tra chất lượng rau trên địa bàn thành phố trong thời gian qua...), việc áp dụng phương pháp kiểm soát, đánh giá tổng hợp chất lượng rau trên địa bàn thành phố là hoàn toàn khả quan. Về phương diện pháp lý, các quy định đã ban hành về vệ sinh an toàn thực phẩm (ví dụ Quy định quản lý sản xuất, kinh doanh rau, quả và chè an toàn (2008); VietGAP (2008); Quy chế chứng nhận VietGAP cùng các quy định liên quan của Hà Nội) tạo ra cơ sở pháp lý đầy đủ cho việc áp dụng này.

3.2.1. Quy trình đánh giá và công nhận chất lượng rau tại Hà Nội


Quy trình đánh giá và công nhận chất lượng rau an toàn ở Hà Nội theo nghiên cứu, tìm hiểu thực tế được thực hiện qua các bước sau:

Bước 1

Nhà sản xuất (các cá nhân, tổ chức sản xuất rau) có nhu cầu được đánh giá và công nhận chất lượng rau theo VietGap sẽ tìm hiểu về chuẩn mực đánh giá và các chính sách do tổ chức chứng nhận VietGAP cho rau, quả, chè an toàn (tổ chức chứng nhận).



Bước 2

Người sản xuất sẽ thuê một tổ chức tư vấn đã được công nhận để hỗ trợ quá trình đào tạo và thực hiện các nội dung đáp ứng yêu cầu theo quy định. Người sản xuất thuê người lấy mẫu (người lấy mẫu được chỉ định) để lấy mẫu đất trồng, nước tưới và gửi đến phòng thí nghiệm đã được công nhận là phòng phân tích sản phẩm giống, cây trồng.



Bước 3

Người sản xuất gửi hồ sơ xin đăng ký kiểm tra và chứng nhận đến tổ chức chứng nhận.



Bước 4

Nhà sản xuất và tổ chức chứng nhận ký kết hợp đồng chứng nhận VietGAP



Bước 5

Tổ chức chứng nhận tiến hành quá trình đánh giá. Các phương pháp được tổ chức công nhận sử dụng đánh giá bao gồm: phỏng vấn, quan sát hoạt động, kiểm tra (hồ sơ, thực địa, phân tích). Các chỉ tiêu kiểm tra và phương pháp đánh giá được ban hành kèm theo Quy chế chứng nhận VietGAP ban hành theo Quyết định số 84/2008/QĐ-BNN (phụ lục 3), bao gồm 71 chỉ tiêu (42 chỉ tiêu loại A – chỉ tiêu bắt buộc thực hiện; 25 chỉ tiêu loại B - chỉ tiêu cần thực hiện; 4 chỉ tiêu loại C - chỉ tiêu khuyến khích thực hiện).



Nhà sản xuất chỉ được cấp chứng nhận VietGap khi đạt 100% chỉ tiêu loại A và tối thiểu đạt 90% chỉ tiêu loại B.

3.2.2. Khó khăn trong quá trình đánh giá và công nhận chất lượng rau tại Hà Nội


Tìm hiểu thực tế tại Hà Nội cho thấy, mặc dù qui định về đánh giá và công nhận chất lượng rau đã được ban hành được gần 2 năm nhưng việc triển khai cũng như đánh giá và chứng nhận rau sản xuất theo VietGap tại Hà NộiHaHhh hiện vẫn gặp rất nhiều khó khăn. Các khó khăn đó bao gồm:

  1. Nông dân thiếu thông tin

Mặc dù VietGAP đã được ban hành và áp dụng vào thực tế sản xuất từ lâu nhưng cho đến nay nhiều nông dân vẫn chưa biết thông tin về quy trình này. Ngay tại vùng sản xuất rau xã Lĩnh Nam – Thanh Trì, nơi nông dân tiếp cận nhanh với tiến bộ kỹ thuật và đã có truyền thống sản xuất rau an toàn, tác giả phỏng vấn 100 hộ trồng rau thì có 50% số hộ có nghe nói về VietGAP nhưng không biết cụ thể là gì, 27% hộ chưa nghe đến VietGap. Chỉ có 23% hộ tham gia HTX RAT Lĩnh Nam hiểu rõ quy trình VietGap.

  1. Hộ sản xuất rau nhỏ trong khi chi phí chứng nhận lớn

Theo báo cáo điều tra của Nguyễn Hồng Sơn năm 2009 [15], ở Hà Nội, hình thức sản xuất cá thể chiếm 63,33%, doanh nghiệp 4,3%, HTX 27,67%, các hình thức khác (nhóm hộ) 4,7%. Kiểm soát, đánh giá chất lượng đối với cá thể sản xuất nhỏ lẻ là rất khó, vì vậy không tạo được niềm tin cho người tiêu dùng. Mặt khác với quy mô diện tích gia đình, nhà sản xuất vẫn phải thuê người tư vấn kỹ thuật, thuê người lấy mẫu và phân tích đất nước, đăng ký chứng nhận VietGap, đầu tư cơ sở kỹ thuật. Chi phí đầu tư là rất lớn so với người nông dân. Theo tìm hiểu của tác giả, chi phí để thuê tổ chức tư vấn cho một cơ sở sản xuất khoảng 20 - 30 triệu đồng, chi phí thấp nhất cho tổ chức chứng nhận VietGap khoảng 14 triệu đồng/1 cơ sở/ 1 năm.

  1. Hà Nội chưa xây dựng đầy đủ cơ chế, quy trình giám sát chất lượng trong khi lực lượng giám sát mỏng.

Năm 2009, Hà Nội có 5 cán bộ chỉ đạo, giám sát sản xuất của Chi cục BVTV trên diện tích sản xuất rau theo quy trình an toàn là 2.105 ha [45]. Số cán bộ chỉ đạo, giám sát quá ít để có thể giám sát được diện tích hơn hai nghìn ha. Trong khi các cơ chế, quy trình còn chưa đầy đủ, rõ ràng thì việc thiếu lực lượng giám sát đang làm cho công tác giám sát ở chính các cơ sở trồng rau an toàn đã được công nhận chưa được thực hiện một cách nghiêm ngặt. Đây cũng là một thách thức cho việc mở rộng mạng lưới cơ sở trồng rau có chứng nhận.

  1. Khó khăn trong tiêu thụ

Một thực tế là nhu cầu RAT của người dân Hà Nội rất cao nhưng việc tiêu thụ RAT đang gặp không ít khó khăn. Số lượng cửa hàng bán RAT có chứng nhận còn rất hạn chế. Hiện nay trên địa bàn thành phố mới chỉ có chuỗi siêu thị Fivimart, Hapro và một số cửa hàng giới thiệu sản phẩm bày bán rau được chứng nhận VietGap. Các siêu thị tiêu thụ lượng rau lớn như Metro, BigC chưa bán loại rau này.

  1. RAT chưa chiếm được lòng tin của người tiêu dùng

Tác giả đã thực hiện một cuộc điều tra nhanh đối với 100 người tiêu dùng ngẫu nhiên tại Hà Nội về lý do không mua RAT (tháng 4/2010), và kết quả được trình bày trong Bảng 11 dưới đây.

Bảng 12 . Lý do người dân Hà Nội không mua RAT

Lý do

Tỷ lệ phần trăm

(trong 100 người được hỏi)

Giá cao

40%

Không tin RAT là an toàn

71%

Có mối quan hệ với người bán

(rau không được chứng nhận là RAT)



4%

Tin vào máy rửa rau, dung dịch rửa rau

10%

Chưa từng bị ngộ độc vì ăn rau

52%

Kết quả điều tra cho thấy lý do người dân không mua RAT vì không tin vào nhãn hiệu RAT chiếm tỉ lệ cao nhất (71%). Sự thiếu tin tưởng này có thể do thiếu lòng tin vào công bố chất lượng rau của nhà sản xuất, của đơn vị bán. Nguyên nhân này bắt nguồn từ việc nhà sản xuất không giữ uy tín cho thương hiệu của mình, làm mất niềm tin của người dân. Theo ông Trịnh Công Toản, Chánh thanh tra Cục Bảo vệ thực vật (Bộ NN&PTNT), một số mẫu rau lấy ở HTX sản xuất, tiêu thụ và chế biến sản phẩm nông sản an toàn của Vân Nội phát hiện mức dư lượng thuốc BVTV lên tới 0,25 mg/kg, trong khi mức quy định tối đa cho phép là 0,02mg/kg. Một nguyên nhân khác là người tiêu dùng thiếu lòng tin vào các cơ chế đảm bảo chất lượng rau cũng như cơ chế đảm bảo thông tin chính xác, minh bạch về chất lượng rau của chính cơ quan chức năng. Đã từng có một nhà khoa học đã bị kỷ luật vì đã công bố nghiên cứu của ông về các hóa chất được sử dụng cho quả với lý do cung cấp thông tin mà không xin phép lãnh đạo (tin tức Việt Nam, 2004, dẫn theo Phan Van Hoi [31]). Trong năm 2001, Cục Quản lý Thực phẩm Thành Phố Hồ Chí Minh phát hiện chất gây ung thư 3-MCPD trong đậu nành. Tuy nhiên, thông tin chỉ được tiết lộ cho công chúng vào năm 2007 (Hà, 2007, dẫn theo Pham Van Hoi [31]). Ngoài ra, người tiêu dùng bị nhầm lẫn bởi sự mâu thuẫn thông tin về chất lượng rau do các cơ quan chức năng cung cấp như BNN&PTNT và Bộ y tế (Hang, 2006, dẫn theo Phan Van Hoi [31]; [42]).

  1. Xử phạt vi phạm về chất lượng rau chưa đủ mạnh

Các quy định về xử phạt vi phạm trong lĩnh vực chất lượng sản phẩm, trong đó có sản phẩm rau, còn nhẹ và chưa thực sự có tác dụng răn đe, ngăn chặn. Mặt khác việc thực thi các chế tài chưa nghiêm minh.

Ví dụ trong mục 3, Điều 66, Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hóa (2007) về xử lý vi phạm pháp luật về chất lượng sản phẩm, hàng hoá quy định: tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh thực phẩm vi phạm pháp luật về ATTP tùy theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý kỷ luật, xử phạt hành chính (được ấn định ít nhất bằng giá trị thực phẩm vi phạm đã tiêu thụ và nhiều nhất không quá 5 lần giá trị hàng hóa vi phạm đã tiêu thụ, tiền do vi phạm mà có sẽ bị tịch thu theo quy định của pháp luật) hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự, nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường và khắc phục hậu quả theo quy định của pháp luật.

Chiếu theo luật định, sản phẩm, hàng hóa là rau có giá trị rất thấp nên ở mức phạt cao nhất gấp 5 lần thì không có tác dụng răn đe. Năm 2007, với hành vi giả mạo nguồn gốc của HTX Vân Nội – Đông Anh (lấy rau thường đóng mác thương hiệu Vân Nội) nhưng chỉ bị phạt hành chính 1 triệu đồng [38]. Hành vi của HTX Vân Nội có nguyên nhân từ việc mức xử phạt theo luật định còn thấp và việc thực thi luật còn chưa thật sự nghiêm minh. Theo ông Trịnh Công Toản, Chánh thanh tra Cục Bảo vệ thực vật (Bộ NN&PTNT), dư lượng thuốc BVTV vượt mức cho phép của RAT Vân Nội còn được ghi nhận trong nhiều đợt kiểm tra khác của các cơ quan chức năng, song cho đến nay chưa có hình thức xử lý với chứng nhận RAT của HTX này.

Do những khó khăn tác giả trình bày ở trên nên chưa khuyến khích được doanh nghiệp cũng như người nông dân đầu tư vào lĩnh vực sản xuất rau an toàn. Hiện nay, ở Hà Nội, ngoài một số mô hình thí điểm sản xuất RAT theo VietGap của các cơ quan nghiên cứu từ kinh phí nhà nước, có duy nhất một doanh nghiệp là công ty TNHH Hương Cảnh đầu tư kinh phí 11 tỷ đồng để xây dựng hệ thống sản xuất, sơ chế và tiêu thụ RAT trên địa bàn xã Văn Đức- Đông Anh theo tiêu chí RAT VietGap dưới sự giám sát, hướng dẫn, hỗ trợ của Chi cục BVTV, Trung tâm Khuyến nông Hà Nội [39]. Mặc dù mô hình này được các cơ quan chức năng đánh giá cao, điển hình cho sự liên kết bốn nhà “nhà sản xuất – doanh nghiệp – nhà khoa học – nhà tiêu thụ”, tuy nhiên dự án mới được triển khai nên tác giả chưa có điều kiện tìm hiểu phương pháp đánh giá chất lượng rau của mô hình và hiệu quả mô hình trong thực tiễn.


3.2.3. Mô hình trồng RST tại xã Thọ Xuân


Qua thực tế hoạt động ứng dụng VietGAP của mô hình nghiên cứu thí điểm ở Thọ Xuân, tác giả cũng đánh giá được là việc ứng dụng rộng rãi trên địa bàn Hà Nội chương trình Thực hành nông nghiệp tốt VietGAP là hoàn toàn khả thi. Với mô hình này rau có thể dễ dàng được kiểm soát và đánh giá tổng hợp về mặt chất lượng.

Mô hình sản xuất có những ưu điểm sau: Người quản lý mô hình chủ động được toàn bộ nguồn vật tư đầu vào, đất sản xuất và nhân công lao động nên chủ động điều tiết được kế hoạch sản xuất (lứa trồng, diện tích trồng) cũng như chất lượng sản phẩm đầu ra (bón phân như thế nào, sử dụng thuốc BVTV ra sao, thời gian thu hoạch, thời gian cách ly của từng loại sản phẩm) vì tuân thủ đúng theo yêu cầu của cán bộ giám sát. Người nông dân góp đất làm vốn và góp công lao động không phải đầu tư kinh phí, ngoài ra có hỗ trợ tiền hàng tháng nên dễ dàng thuyết phục họ tham gia dự án. Khi thu hoạch, người nông dân hưởng % trên doanh thu mà họ làm ra, nên khuyến khích người dân làm việc nâng cao năng suất cây trồng.

Bên cạnh những ưu điểm đó thì có một số vấn đề hạn chế như sau: Do phải đầu tư toàn bộ chi phí và phát sinh thêm các chi phí như tư vấn kỹ thuật, giám sát chất lượng, chứng nhận sản phẩm nên giá thành sản phẩm của mô hình này còn cao. Bên cạnh đó, việc tự tìm đầu ra cho sản phẩm cũng là một vấn đề khó giải quyết trong tình trạng giá bán rau an toàn không cao hơn bao nhiêu thậm chí là không bằng do mẫu mã sản phẩm không đẹp như rau sản xuất được phun nhiều hóa chất kích thích và thuốc BVTV. Việc liên hệ với các đầu mối tiêu thụ hàng lớn như siêu thị, bếp ăn tập thể còn gặp nhiều khó khăn. Đầu tư toàn bộ cơ sơ hạ tầng và chi phí sản xuất yêu cầu một lượng khá lớn về vốn sản xuất, tuy nhiên sản xuất rau an toàn rất dễ gặp rủi ro như thiên tai hay dịch hại nên sẽ khó có nhà đầu tư (trong mô hình đó là người chủ dự án) chấp nhận thử thách để nhận 60% doanh thu bán được. Dự án thực hiện được vì có tiền nhà nước, còn doanh nghiệp thì khi bỏ số tiền lớn ra để đầu tư thì họ phải cân nhắc có những thuận lợi gì và rủi ro ra sao.

Theo tác giả, để mô hình nghiên cứu có thể nhân rộng trên địa bàn thành phố Hà Nội, cũng như phương pháp đánh giá tổng hợp chất lượng rau ứng dụng khả thi thì Hà Nội cần hình thành rộng rãi những mô hình liên kết trong sản xuất rau. Hình thức sản xuất có thể đánh giá, kiểm soát và chứng nhận chất lượng dễ dàng hơn cả chính là hình thức sản xuất theo doanh nghiệp hay nhóm hộ. Để mô hình này có thể phát huy hiệu quả trong thực tế, Hà Nội cũng cần đưa ra chính sách khuyến khích sản xuất, tiêu thụ RAT một cách có hệ thống và đồng bộ.




tải về 0.96 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   ...   5   6   7   8   9   10   11   12   13




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương