MỘT VÀI CHỈ DẤU CỦA PHƯƠNG NGỮ
BÌNH ĐỊNH - NAM TRUNG BỘ
TRONG TỪ ĐIỂN VIỆT - BỒ - LA CỦA ALEXANDRE DE RHODES
Th.s. Nguyễn Ngọc Oanh
PGS. TS.Nguyễn Công Đức
Chữ Quốc ngữ ra đời đã gần 400 năm. Chữ Quốc ngữ hình thành, tồn tại và phát huy công năng xã hội – văn hóa của mình qua thời gian và cùng với biết bao thăng trầm của lịch sử dân tộc. Tuy vậy, vẫn còn những vấn đề rất cần thiết làm sáng tỏ thêm nhằm làm cơ sở cho những hiệu chỉnh chữ viết Việt Nam hiện nay để nó phát huy hơn nữa trong việc thực hiện các chức năng xã hội, văn hóa, giáo dục của mình. Một trong những vấn đề có tầm quan trọng đặc biệt ấy: xác định một / những vùng phương ngữ nào là đầu tiên làm cơ sở cho sự ra đời của chữ Quốc ngữ dù các cứ liệu khả chấp và khả tín nhiều hay ít. Việc này trước hết liên quan trực tiếp đến các hiệu chỉnh chữ viết Việt Nam hiện nay. Và lẽ nữa cũng là sự công bằng trong việc nhìn nhận công sức của những giáo sĩ người Âu Châu cũng như người Việt trong buổi sơ khai chế tác ra chữ Quốc ngữ. Bằng một vài cứ liệu ngữ âm và từ vựng thu thập được từ trong cuốn từ điển Việt - Bồ - La (1651) của Alexandre de Rhodes, bài viết này mong muốn được góp thêm những chỉ dấu của phương ngữ Bình Định thuộc vùng phương ngữ Trung Trung Bộ nhằm có thêm dữ liệu mà nhận diện và xác định phương ngữ đầu tiên trong sự manh nha ra đời và dần hình thành chữ Quốc ngữ từ buổi ban đầu.
1. Chữ Quốc ngữ khởi nguyên và cuốn Từ điển Việt – Bồ - La
1.1. Xuất phát từ yêu cầu của việc truyền giáo, các giáo sĩ Dòng Tên Thiên Chúa giáo Âu Châu đã đến Việt Nam từ những thập niên đầu thế kỷ thứ 17. Họ đã dùng mẫu tự La tinh để ghi âm một vài từ ngữ / ngữ đọan tiếng Việt mà họ nghe và ghi lại trong một số văn bản bằng tiếng Bồ Đào Nha / tiếng Ý,… để báo cáo cho Bề Trên ở Âu Châu. Có nên chăng coi đây là hình ảnh của chữ Quốc ngữ giai đọan sơ khai.
Theo linh mục (Lm) Đỗ Quang Chính, S.J. - tác giả sách Lịch sử chữ Quốc ngữ (1620-1659)[2], đầu thế kỷ thứ 17 các giáo sĩ Dòng Tên “Khi vừa đến Đàng Trong, nghe người Việt nói chuyện với nhau, nhất là giữa nữ giới, tôi có cảm tưởng như mình nghe chim hót và tôi đâm thất vọng vì nghĩ rằng không bao giờ học được tiếng Việt”, giáo sĩ Alexandre de Rhodes (gọi tên Việt là Đắc Lộ) kể lại khi những ngày đầu đến Hội An (Quảng Nam) và ở lại cư sở Thanh Chiêm (cách cảng thị Hội An chừng 7 km về hướng tây) vào cuối năm 1624 để truyền đạo. Một giáo sĩ ở cùng với ông đã nhờ người giúp việc đi chợ mua cá về dùng bữa nhưng vì cách phát âm của vị giáo sĩ không chuẩn, bà giúp việc thay vì mua cá lại mua về một thúng cà. Còn một vị giáo sĩ khác thì lại làm đám trẻ trong nhà mình hoảng sợ và bỏ chạy tán loạn khi ông nhờ người trong nhà mình đi chém (chặt, đốn) tre nhưng ông lại phát âm là đi chém trẻ! [2]
Lm Đỗ Quang Chính chia lịch sử buổi đầu hình thành chữ Quốc ngữ 1620-1648 thành hai giai đoạn: 1620-1626 và 1631-1648.
Từ năm 1620 đến 1626: các giáo sĩ Dòng Tên mới đặt chân đến đất Quảng Nam (thuộc xứ Đàng Trong) vào đầu năm 1615, trải nhiều lao đao trong việc lập cư sở truyền đạo. Họ đã chuyển di từ cư sở Hội An - 1615, rồi đến các cư sở Nước Mặn (tỉnh Bình Định) -1618 và ngược ra cư sở Thanh Chiêm (Quảng Nam) – 1623. Thời kỳ này, các giáo sĩ đã bắt đầu dùng chữ La Tinh để ghi một số từ ngữ tiếng Việt, trước hết là địa danh, nhân danh và một số từ ngữ / ngữ đọan của tiếng bản xứ.
Nhận thấy ý nghĩa và giá trị của hai quyển sách Tự điển Việt-Bồ-La, Ngữ pháp tiếng Việt và Phép giảng tám ngày cho sứ vụ truyền đạo ở một đất nước có vị trí to lớn trên bản đồ truyền giáo của giáo hội - đặc biệt là qua tường trình của giáo sĩ C. Borri hồi năm 1631, Tòa Thánh La Mã đã cho phép Bộ Truyền giáo - vốn mới được thành lập từ giữa năm 1622 - in ấn và xuất bản. Với gần 500 trang, Tự điển Việt-Bồ-La, lúc đầu giáo sĩ Đắc Lộ dung chữ viết của mình – chữ La tinh để biên soạn từ điển song ngữ : Việt và Bồ Đào Nha . Về sau, theo ý các vị bề trên ở La Mã, ông đã đưa them tiếng La tinh vào đối chiếu để tiện cho người Việt học tiếng La tinh.
Để tiện cho người Âu châu học tiếng Việt, Đắc Lộ đã dụng công viết riêng phần ngữ pháp tiếng Việt bằng tiếng La tinh đặt ở đầu sách. Đây là phần dẫn giải về chữ và vần, trọng âm và các thanh điệu, về danh từ, đại danh từ, động từ, đến cú pháp. Đây cũng là phần đã tốn nhiều công sức của vị giáo sĩ này. “Với Tự điển Việt-Bồ-La, Ngữ pháp tiếng Việt và Phép giảng tám ngày, chữ Quốc ngữ được điển chế và thí nghiệm trong phạm vi sáng tác. Một nền văn học công giáo bằng chữ Quốc ngữ chính thức bắt đầu với giáo sĩ Alexandre de Rhodes” - nhà nghiên cứu Võ Long Tê nhận định.
Với hai quyển sách Tự điển An Nam-Bồ Đào Nha-La tinh (gọi tắt Tự điển Việt-Bồ-La) và Phép giảng tám ngày bằng Quốc ngữ được Tòa Thánh La Mã cho xuất bản năm 1651, giáo sĩ Alexandre de Rhodes (Đắc Lộ) từ lâu được coi là người có công lớn trong việc chế tác ra chữ Quốc ngữ.
Tuy nhiên, công lao tạo ra chữ Quốc ngữ không chỉ có A. de Rhodes mà của các giáo sĩ Dòng Tên. Năm 1955, trong cuốn sách về “Công trạng của nước Pháp ở Đông Dương” của mình, tác giả Pháp Georges Taboulet cũng đã đưa luận điểm như trên khi ông viết: “Việc phiên âm tiếng Việt bằng chữ La tinh điểm thêm các dấu quy ước, là một công lao tập thể mà sự đóng góp chủ yếu của các linh mục Francisco de Pina, Cristophoro Borri, Gaspar d’Amaral, Antonio Barbosa, còn linh mục Alexandre de Rhodes thì có công hệ thống hóa, chỉnh lý và phổ biến văn tự này...”[1].
1.2. Lâu nay, một số nhà nghiên cứu băn khoăn về một trong hai nơi hay cả hai là chiếc nôi của chữ Quốc ngữ : Thanh Chiêm – Hội An và Nước Mặn (Bình Định). Đây là hai nơi mà các giáo sĩ đều đã đến và học tiếng Việt, ghi âm tiếng Việt.
Thanh Chiêm – Hội An là nơi các giáo sĩ đến đây sớm và có thời gian lưu lại đây khá lâu.
Tuy nhiên, Nước Mặn – Bình Định, qua nhiều chứng tích khả tín, lại là nơi mà các giáo sĩ lưu lại và nghiên cứu tiếng An Nam nhiều hơn vào thời kỳ đầu tiên.
Trích dẫn từ các tư liệu có được, Lm. Gioan Võ Đình Đệ - hiện ở tại Tòa Giám Mục Qui Nhơn - cho rằng cư sở Nước Mặn của các thừa sai dòng Tên chẳng những là một trung tâm truyền giáo mà còn là nơi các thừa sai Dòng Tên nghiên cứu và sáng chế chữ Quốc ngữ trong giai đoạn thô sơ nhất. “Theo linh mục Joaõ Roiz, năm 1620 đã có hai thừa sai nói thạo tiếng Việt đó là cha Francisco de Pina và cha Cristophoro Borri. Trong đó cha Borri chỉ làm việc tại Nước Mặn từ 1618 đến khi ra khỏi Đàng Trong vào năm 1622; cha Pina đến Hội An năm 1617 trong thời kỳ bị trục xuất, cha phải lén lút, cha chỉ tiếp xúc được với người Việt khi làm việc tự do tại Nước Mặn từ 1618-1620.
Trong khoảng thời gian từ 1620-1623, cha Pina đi về giữa Nước Mặn và Hội An, rồi năm 1623, cha lập cư sở tại Thanh Chiêm. Ngoài ra, cư sở Nước Mặn cũng là “Trường Quốc ngữ” đầu tiên cho các thừa sai đến sau như Lm Emmanuel Borges -1622, Lm Gaspar Luis, Lm Girolamo Majorica -1624…”. Hai học trò có công lớn kế tục sự nghiệp của cha Pina là giáo sĩ Gaspar d’Amaral và Antonio Barboso. Hai giáo sĩ này là người đầu tiên soạn thảo từ điển Việt – Bồ - La (Diccionário Annamita - Português-Latin) và Bồ-Việt (Diccionário Português - Annamita). Tuy nhiên 2 ông đều mất sớm để lại sự nghiệp còn dang dở tại nhà thờ San Pauli ở Macau. Giáo sĩ Alexandre de Rhodes tiếp nhận và đưa về châu Âu. Đến năm 1651, quyển Từ điển Việt – Bồ - La chính thức ra đời. Đây là cuốn từ điển tiếng Việt đối chiếu đầu tiên xuất hiện.
Từ điển Việt - Bồ - La (tiếng La Tinh: Dictionarium Annamiticum Lusitanum et Latinum) là một cuốn từ điển bằng ba ngôn ngữ: La Tinh–Bồ Đào Nha–Việt do giáo sĩ Công giáo và nhà từ điển học Alexandre de Rhodes biên soạn sau 12 năm hoạt động ở Việt Nam, và được Thánh bộ Truyền bá Đức Tin (Sacra Congregatio de Propaganda Fide nay là Congregatio pro Gentium Evangelizatione) ấn hành tại Roma năm 1651 lúc A. de Rhodes về lại Châu Âu. Nỗ lực của những giáo sĩ tiền nhiệm và đương nhiệm lúc bấy giờ đã cho ra kết quả là cuốn Từ điển Việt - Bồ - La mà Alexandre de Rhodes là người tu chỉnh, bổ sung lớn và hòan tất công trình này. Cuốn từ điển gồm 8.000 từ tiếng Việt được đối chiếu với tiếng Bồ Đào Nha và Latin.
Trong lời tựa cuốn từ điển của mình, chính giáo sĩ de Rhodes đã tri ân công lao và đóng góp của các giáo sĩ Dòng Tên khác, đặc biệt là cuốn từ điển Việt - Bồ - La (Diccionário anamita-português-latim) của Gaspar do Amaral và từ điển Bồ-Việt (Diccionário português-anamita) của Antonio Barbosa (hiện đều đã thất truyền).
Cuốn từ điển Việt–Bồ–La phần chính là phần từ vựng liệt kê 8.000 từ mục được viết bằng chữ Quốc ngữ. Bổ túc thêm là phần phụ lục tóm tắt ngữ pháp tiếng Việt (Brevis Declaratio) và cách thức phát âm tiếng Việt lúc bấy giờ.
Ngoài giá trị lịch sử, cuốn từ điển này là cái mốc quan trọng trong việc định chế chữ Quốc ngữ, tức cách viết tiếng Việt bằng chữ Latinh. Lối chữ này dần được hoàn chỉnh bởi các nhà truyền giáo kế tiếp.
2. Phương ngữ Bình Định - Nam Trung Bộ trong từ điển Việt - Bồ - La
Từ những cơ sở trên, chúng tôi khảo sát trong cuốn Từ điển Việt – Bồ - La mong tìm ra dấu hiệu phương ngữ của vùng Nam Trung Bộ, nơi các giáo sĩ tiếp xúc và nghiên cứu chữ Quốc ngữ.
Trong 8.000 mục từ tiếng Việt được đối chiếu tương đương với tiếng Bồ Đào Nha và Latinh, qua khảo sát, chúng tôi tìm thấy 190 từ có tính chất đặc trưng của phương ngữ Nam Trung Bộ, xét về mặt từ vựng và ngữ âm. Trong 190 từ trên, chúng tôi chia ra 2 loại:
+ Từ địa phương
+ Từ phát âm theo tiếng địa phương
2.1. Lớp từ ngữ thống nhất (trong đa dạng)
Sự có mặt của lớp từ ngữ địa phương Nam Trung Bộ, đặc biệt vùng phương ngữ Bình Định – Phú Yên là rất quan trọng trong quá trình ký âm bằng chữ La tinh của các giáo sĩ.
Nói về công lao của giáo sĩ Đắc Lộ (Alexandre de Rhodes) trong việc hình thành chữ Quốc ngữ, linh mục (Lm) Đỗ Quang Chính, S.J. trong Lịch sử chữ Quốc ngữ (1620-1659) đã không quên nhắc lại quá trình học hỏi tiếng Việt của vị giáo sĩ mà thoạt đầu ông cứ ngỡ rằng mình sẽ không bao giờ học được thứ tiếng này.
Dường như là một chuẩn duyệt đầy ơn phước cho mình, ngay sau khi đáp tàu đến cư sở Hội An (12.1624) giáo sĩ Đắc Lộ được phân đến cư sở Thanh Chiêm mới được thành lập - nơi có giáo sĩ Francisco de Pina làm bề trên, là một người nói thạo tiếng Việt. Đến cư sở Hội An vào năm 1617, qua nỗ lực học tiếng Việt, đến năm 1620, giáo sĩ F. de Pina đã thông thạo tiếng Việt, trở thành là người thạo Việt ngữ nhất lúc bấy giờ trong số các giáo sĩ ở Đàng Trong (gồm các cư sở Hội An, Nước Mặn, Thanh Chiêm). Đến thời điểm 1624, để giảng đạo, một ít giáo sĩ ở các cư sở này vẫn còn nhờ đến thông ngôn. Nhưng những thông ngôn tiếng Việt lúc bấy giờ đa phần là những Nhật kiều thương nhân ở Hội An, vốn tiếng Việt của họ còn hết sức hạn chế.
Ngoài việc học với người thầy đồng môn - giáo sĩ Pina, Đắc Lộ còn học tiếng Việt với các tân tòng - người mới tòng đạo (Công giáo). Đắc Lộ kể, như thêm một may mắn nữa cho ông: một thiếu niên người địa phương 13 tuổi đã giúp ông nhanh học được tiếng Việt. Thật kỳ diệu, như lời ông kể lại, ấy là chỉ trong ba tuần cậu bé này đã giúp ông vượt qua được phần khó khăn trong phân biệt được các dấu thanh tiếng Việt và cách phát âm mỗi tiếng. Tuy hai người không biết tiếng nhau, nhưng vẫn hiểu nhau được, cũng trong ba tuần này, người thiếu niên thông minh hiểu được rất nhanh những gì ông nói, cả Pháp ngữ và La tinh ngữ. Theo ghi chép của Đắc Lộ, thiếu niên này sau được ông làm phép cho vào đạo, và vì yêu quý ông nên em đã lấy tên ông đặt kề tên thánh của mình, Raphael Rhodes.
Chưa có nhiều cở sở để khẳng định cậu bé dạy chữ cho A. Rhodes ở đâu nhưng phần lớn thời gian sống và làm việc chủ yếu của các giáo sĩ là ở vùng phương ngữ Nam Trung Bộ. Dấu tích vùng phương ngữ này ít nhiều ảnh hưởng đến quá trình ghi âm tiếng Việt thời kỳ đầu.
Trong 8.000 mục từ trong từ điển Việt – Bồ - La, còn tồn tại một số từ có phụ âm đôi như ml, tl, bl… còn lại phần lớn ký âm bằng tự mẫu La tinh cho đến nay vẫn còn sử dụng như trong các từ điển hiện nay và cách dùng chúng trong nói năng như trong tiếng Việt hiện đại.
2.2. Những yếu tố đặc phương ngữ (dialectism) Bình Định, Phú Yên
2.2.1. Phương ngữ Bình Định – Phú Ỵên về mặt từ vựng
Nhiều từ ngữ trong từ điển mang đậm dấu ấn vùng miền, nơi các giáo sĩ có thời gian lưu lại, học tiếng Việt và kí âm bằng con chữ Latinh là Hội An (Quảng Nam) và Nước Mặn (Bình Định).
Trong 190 từ khảo sát trên, chúng tôi tìm ra 152 từ là phương ngữ Nam Trung Bộ, trong đó có nhiều từ ngữ đặc phương ngữ, chỉ có ở vùng Bình Định, Phú Yên là thường hay sử dụng.
Từ đàng đèo: đường trong rừng [1, tr.29] chủ yếu được sử dụng ở vùng nông thôn Nam Trung Bộ. Người dân ở đây ít dùng hình thức ngữ âm đường mà dùng nó với diện mạo cổ hơn là đàng.
Từ bấy lâu: lâu dường ấy [1, tr.34]. Từ này thường xuất hiện trong các câu hát bội ở Bình Định. Trong các tuồng hát bội, ít khi sử dụng từ trước đến nay hoặc lâu nay mà hay dùng bấy lâu. Thanh trắc trong từ bấy cũng phù hợp với chất giọng trong hát bội.
Biểu: bảo, nhắn nhủ [1, tr.36]. Từ Bình Định trở vào đến Nam Bộ chủ yếu sử dụng từ biểu chứ không dùng bảo. Chẳng hạn: Tối đến nhà chú biểu cái này.
Một số từ ngữ khác thuộc phương ngữ Nam Trung Bộ trở vào hay dùng như: Bày đồ bày đảng (bầy du đảng), mấy bận (mấy lần), bết (cuối cùng, sau cùng), bịch (cái bịch, cái sọt lớn), binh ai (Bênh vực, giúp đỡ. Binh lấy tôi cũ: xin hãy bênh vực tôi), bực (sự buồn), bực thang (bậc thang), chói lói tai (làm điếc tai), quăng (làm cho vật gì bể vỡ và tan ra từng mảnh), rình chết (gần chết. Rình ngả: gần ngã, gần té…), rún (cái rốn)…
Trong số các từ ngữ đặc phương ngữ, có lẽ khá rõ là đại từ qua. Đại từ qua có nghĩa là tôi. Từ điển giải thích: Khi người trên nói với người dưới. Mớ qua: Chúng tôi, khi nhiều người có địa vị hơn nói với người dưới, hay một người nói thay cho tất cả [1, tr.185]. Đây là từ xưng hô của người Nam Trung Bộ và Nam Bộ. Qua là đại từ, ngôi thứ nhất, dùng riêng rẻ là từ xưng hô của người lớn tuổi với người nhỏ tuổi. Tuy từ qua được dùng như một từ xưng hô trên những vùng phương ngữ khá rộng, nhưng cách dùng lại mang dấu ấn đặc phương ngữ Bình Định – Phú Yên. Hiện nay, ngôn ngữ lứa tuổi già ở Bình Định vẫn còn dùng đại từ xưng hô qua khi họ xưng hô với người nhỏ tuổi hơn theo cách thức khá đặc thù.
Riêng từ bạu (bạn) có thể do cách phát âm của vùng phương ngữ Bắc Bình Định nên khi ký âm từ bạn thành bạu? Hoặc ghi âm từ từ bậu. Trung Bộ có câu Dẫu rằng tình bậu muốn thâu (thôi)/ Bậu gieo tiếng dữ cho rời bậu ra (ca dao)
2.2.2. Phương ngữ Bình Định – Phú Ỵên về mặt ngữ âm
Rất nhiều từ ngữ trong từ điển Việt – Bồ - La được ghi âm tiếng Việt bằng con chữ ABC (Latinh) có diện mạo ngữ âm của người địa phương vùng Nam Trung Bộ. Nhiều nhất là các tiếng mà chúng tôi khảo sát trong cuốn từ điển này là tác giả của nó đã sử dụng dấu ghi thanh hỏi thay cho dấu ghi thanh ngã. Đây là cách phát âm phổ biến ở của vùng phương ngữ này, chỉ có 5 thanh (không phân biệt thanh hỏi và ngã), đặc biệt là vùng Bình Định, Phú Yên.
- Nhiều từ được ghi bằng thanh hỏi thay cho thanh ngã như: bà lảo, bải biển, bẩy (cái bẫy), chuổi hột, chuổi hoa, cởi ngựa (cởi voi, cởi tlâu), diểu hành (đi chung quanh, đi giễu), đải gạo kẻo sỏi (lọc gạo khỏi đất và đá)… Khởi nguyên chữ Quốc ngữ sử dụng rất nhiều thanh hỏi thay cho thanh ngã, điều này gắn với cách phát âm của vùng phương ngữ Nam Trung Bộ hiện nay, nhất là cư dân vùng gần biển như Bình Định, Phú Yên.
- Một số cách biến thanh như chưa thành chửa theo nguyên tắc biến âm của vùng Nam Trung Bộ kéo dài đến Nam Bộ.
- Nhiều từ được ghi âm theo cách phát âm ở vùng Nam Trung Bộ, điển hình là động từ cổi (lột ra. Cổi áo ra: tự cởi áo ra. Cổi dêi ra: cởi dây ra) [1, tr.65].
- Các khuôn vần –ơi, -ơm khá đặc trưng của phương ngữ Bình Định. Chẳng hạn, những vần như: -ơi (phát âm gần khai độ của “a”cùng với bán âm kết thúc, cũng giống với cách thể hiện vần này như trong tiếng Thái Lan và tiếng Thái ở Việt Nam), thì phát âm nghe như thành -aơi, vần -ơm thì phát âm thành -ôm (cơm phát âm thành côm, phương ngữ Phú Yên cũng thể hiện như vậy, song vần –ôm như trong con tôm thì lại thể hiện thành con tơm, trong khi phương ngữ Bình Định vẫn thể hiện : con tôm). Cách phát âm những khuôn vần vừa nêu đã tạo nên một sự khu biệt khá rõ giữa vùng phương ngữ Bình Định với Phú Yên, mặc dù đây là hai phương ngữ có rất nhiều đặc điểm chung. Từ cổi (cởi) hiện người dân vùng biển dọc khu đông Bình Định như Tuy Phước, Phù Cát, Nhơn Lý, Nhơn Hải… vẫn còn phát âm cởi thành cổi / cẩu. Cách ghi âm kiểu phát âm này còn có một số từ như ăn mầng (ăn mừng), ánh gờng (nhánh gừng), gió bức (gió bấc), bạnh, tật bạnh (tại họa, bệnh dịch), Làm biấng (lười biếng), bợc (bậc, bực), buân (mua để bán),…
- Bên cạnh, qua khảo sát chúng tôi cũng tìm thấy những vần như -uy (chung thủy) được người địa phương cách phát âm thành -i lối phát âm này chỉ gặp ở Bình Định và Phú Yên: Vô thỉ vô chung (không bắt đầu, không cùng tận, tức là một mình Thiên Chúa)[1, tr.62] và nguiên thỉ (Trạng thái đầu tiên của loài người, nguồn gốc của trời và đất)[1, tr.166]. Thỉ ở đây dùng với nghĩa là bắt đầu (thủy) rất trùng hợp với các phát âm ở vùng Bình Định, Phú Yên. Các vần có bán âm đệm như -oa,- oe,- uê,- uy… thường được phát âm vắng âm đệm. Ví dụ: hoa -> wa, tròn xoe -> tròn xe, thủy ->thỉ… Theo chúng tôi, đây là một cứ liệu khá rõ của cách phát âm ở vùng Nam Trung Bộ trong từ điển Việt – Bồ - La.
Trong một nghiên cứu của mình, Đào Đức Chương cho rằng, Bình Định trước thế kỷ XV là kinh đô của Vijaya, thành Đồ Bàn của vương quốc Chămpa. Trong công cuộc thiên di về phương Nam, từ thời Hồng Đức, người Việt đã đi từ vùng Bắc Bộ vào sinh cư ở vùng đất này như một vùng đất mới. Sự xúc tiếp giữa những người Chăm còn lưu lại với người Việt di dân vào Bình Định (phủ Hoài Nhơn) cùng với chủ trương “an sáp”(di dân vào vùng đất mới) của thời Hậu Lê và với những yếu tố khác về địa lý, xã hội đã tạo cho Bình Định một giọng nói riêng, ít trầm bổng, nên cách thể hiện chất giọng Bình Định cũng ít chú ý đến sắc âm hơn, biên độ trầm bổng không nhiều nên giọng xơ cứng, nặng [4].
Phủ Hoài Nhơn lúc bấy giờ được coi như là địa vực của cộng đồng nói tiếng Việt ở cực Nam, đến cuối thế kỷ XVI chúa Nguyễn mới nghĩ đến việc mở rộng bờ cõi về phương Nam mà phủ Hoài Nhơn là điểm đầu của công cuộc thiên di. Vì vậy, các vùng đất phía Nam ít nhiều ảnh hưởng tiếng Bình Định, Phú Yên, nhất là Bình Thuận, Ninh Thuận, tuy nhiên càng vào Nam thì giọng càng nhẹ hơn.
Những dấu hiệu từ vựng và ngữ âm như trình bày trên đây hiện nay vẫn còn trong phương ngữ vùng Bình Định - Nam Trung Bộ, trong đó có những dữ kiện ngữ âm – từ vựng chỉ gặp ở riêng phương ngữ Bình Định và nó có mặt trong cuốn Từ điển Việt – Bồ - La theo cách ghi của A. de Rhodes.
Từ đó, nên chăng, với các cứ liệu ngôn ngữ cùng các chỉ dấu tìm được thuộc lĩnh vực lịch sử, văn hóa,…mà có thể nêu lên một nhận định khả chấp rằng, Bình Định là một / những vùng phương ngữ / thổ ngữ làm cơ sở đầu tiên cho việc ghi âm bằng chữ La tinh của các giáo sĩ người Âu Châu khi hành đạo ở Đàng Trong – Việt Nam.
Cùng với những cứ liệu lịch sử và văn hóa, tuy còn một số vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu thêm, song hòan tòan có thể xác quyết rằng, như một sự sắp xếp của lịch sử dân tộc : chữ Quốc ngữ hình thành, phát triển và phổ biến trên tòan lãnh thổ và tòan bộ cộng đồng các dân tộc Việt Nam đã góp phần rất đáng kể vào quá trình “giải Hán hóa” (déchinois) của lịch sử dân tộc Việr Nam.
Bảng 1: Phương ngữ Nam Trung bộ trong từ điển Việt – Bồ - La
STT
|
TỪ
|
NGHĨA
|
TRANG
| -
|
Đàng đèo
|
Đường trong rừng.
|
29
| -
|
Ải
|
Mục nát.
|
29
| -
|
Ăn lờ, ăn lãi
|
Được lời vượt quá tiền vốn do ăn lãi nặng.
|
30
| -
|
Ánh gờng
|
Nhánh gừng.
|
31
| -
|
Áo cọc
|
Áo lót, áo vắn, áo cộc.
|
31
| -
|
Áo bực
|
Áo buồn thảm, áo tang.
|
31
| -
|
Thịt ba rội
|
Thịt heo có xen kẽ mỡ.
|
33
| -
|
Bà lảo
|
Người đàn bà già đáng kính
|
33
| -
|
Bạ
|
Xức, bôi, trát, thiếp, mạ.
|
33
| -
|
Bạ vàng
|
Mạ vàng
|
33
| -
|
Bái
|
Cúi mình xuống mà không quì lạy
|
34
| -
|
Ai bạ thì ley
|
Vật được coi là bỏ, là vật thuộc về người chiếm trước.
|
33
| -
|
Gió bớc
|
Gió bấc
|
33
| -
|
Bại mình
|
Tứ chi bất toại. Bại chên: Bị bại chân.
|
34
| -
|
Bải
|
Bãi. Bải biển: Bãi biển. Bải cát: Bãi cát
|
34
| -
|
Bải chên
|
Bị bại chân
|
34
| -
|
Bày đàn bày đố
|
Bầy con nít.
|
34
| -
|
Bày đồ bày đảng
|
Bầy du đãng.
|
34
| -
|
Bẩy
|
Cái bẫy, cái cạm.
|
34
| -
|
Bấy lâu
|
Lâu dường ấy
|
34
| -
|
Ban hôm
|
Chiều tối
|
45
| -
|
Mấy bận
|
Mấy lần, mấy bận.
|
35
| -
|
Bàng
|
Bằng phẳng. Bàng nhau: Bằng nhau.
|
35
| -
|
-Bàng an
-Bàng yên
|
Sự an nghỉ, sự bằng an, sự an toàn.
|
35
| -
|
Bạnh, tật bạnh
|
Tai họa, bệnh dịch.
|
36
| -
|
Bảo, biểu, bởu
|
Nhắn nhủ, bảo, biểu
|
36
| -
|
Báp một mlát
|
Chặt chỉ một nhát
|
36
| -
|
Bát
|
Sườn bên mặt của cầu tàu.
|
37
| -
|
Bàu
|
Ao, bàu
|
37
| -
|
Bạu
|
Bạn
|
37
| -
|
Bắt đền
|
Bắt buộc bồi thường
|
| -
|
Bẻ tiền bẻ đủa
|
Ly dị. Bởi vì việc bẻ đồng tiền và những chiếc đũa dùng để ăn là dấu hiệu sự tan vỡ của hôn nhân khiến cho người vợ từ lúc đó có thể lấy người chồng khác mà không có tội.
|
37
| -
|
Bết
|
Cuối cùng. Đi rốt bết: đi sau hết.
|
38
| -
|
Bí, đau bí, bí đái
|
Đau sạn, không tống nước tiểu ra ngoài được.
|
38
| -
|
Lược bí
|
Lược để chải rận, chí.
|
38
| -
|
Làm biấng
|
Lười biếng.
|
38
| -
|
Bịch, cái bịch
|
Cái sọt lớn.
|
38
| -
|
Biên
|
Ghi chép.
|
38
| -
|
Biên đàng
|
Mép, bìa, bờ đường. Vô biên vô lạng: vô cùng tận.
|
38
| -
|
Biều
|
Bệnh yết hầu, cái bướu.
|
38
| -
|
Biểu
|
Bảo, dặn bảo
|
38
| -
|
Binh ai
|
Bênh vực, giúp đỡ. Binh lấy tôi cũ: xin hãy bênh vực tôi.
|
38
| -
|
Blẻ đàng
|
Rời bỏ con đường thẳng, con đường chung vì sự khó khăn, trẽ đàng, rẽ đàng. Tôi blẻ đàng này oũ đi đàng kia: tôi quẹo con đường này, ông hãy đi con đường kia.
|
38
| -
|
Bồ nhin, mồ nhin
|
Những hình làm bằng rơm được các thầy phù thủy dùng để hại người khác.
|
41
| -
|
Bồ
|
Cái thúng phần trên tròn, phầ ndưới vuông dùng để chứa gạo
|
| -
|
Blớ blỉng
|
Cười để mà nói dối.
|
40
| -
|
Bỏ
|
Vất đi, ném đi
|
41
| -
|
Bỏ
|
Bù lại cho cân xứng với sự ác. Làm cho bỏ: làm khổ người khác xứng với việc nó làm, làm cho bõ.
|
42
| -
|
Bớc
|
Bắc, bấc. Gió bớc: gió bấc.
|
42
| -
|
Bợc
|
Bậc, bực
|
42
| -
|
Bợc
|
Ôm, ẵm.
|
42
| -
|
Chưởi bối
|
Buông lờihu ng dữ
|
| -
|
Bóp
|
Sờ nắn
|
| -
|
Bứ ngủ
|
Buồn ngủ.
|
43
| -
|
Bửa củi
|
Bổ củi, chẻ củi.
|
43
| -
|
Bửa
|
Một lần. Ăn 1 bửa, bửa cơm trưa…
(khác bữa, cách phát âm ở vùng biển)
|
43
| -
|
Buân
|
Mua để bán. Buân bán. Cùng 1 nghĩa
|
| -
|
Bức
|
Bấc đèn, tim đèn.
|
44
| -
|
Bực
|
Sự buồn
|
| -
|
Bực thang
|
Bậc thang.
|
44
| -
|
Bủm miệng, bỏm miệng
|
Chụm miệng
|
44
| -
|
Buóc, một buóc
|
Một nắm, một vốc.
|
44
| -
|
Bưng tinh
|
Sớm tinh sương.
|
49
| -
|
Mà cà mà cạp
|
Nói lắp, nói cà lăm.
|
51
| -
|
Cà cuấng
|
Côn trùng giống như con ve người An Nam ăn 1 cách khoái trá
|
51
| -
|
Cả gan
|
Hào hiệp.
|
51
| -
|
Cải tên
|
Đổi tên. Cải chữ: thay thế chữ khác.
|
52
| -
|
Cạy
|
Chuyển tay lái về phía bên trái.
|
52
| -
|
Cạy cơm cháy
|
Tách cơm cháy nửa chừng ra khỏi nồi.
|
52
| -
|
Cạy cửa
|
Lay cửa ra khỏi các chốt cửa.
|
52
| -
|
Cắn dầu, cắn rượu
|
Những chất cặn của một chất lỏng nào đó như dầu, rượu, cặn dầu, cặn rượu.
|
53
| -
|
Ranh càng
|
Đẻ non, tiếng rủa để rủa con nít.
|
53
| -
|
Cạp chài
|
Cục chì của lưới.
|
54
| -
|
Đàng cát
|
Đường cát.
|
54
| -
|
Cắt ai đi
|
Sai phái ai đi. Cắt mình đi: tự mình đi, thân hành trẩy đi.
|
54
| -
|
Câu liêm
|
Cái hái để cắt cỏ.
|
54
| -
|
Cạu
|
Người anh em của mẹ.
(cách xưng hô của trung, nam bộ)
|
55
| -
|
Chản
|
Đều nhau trong phép tính, chẵn. Ba ngày chản: trọn vẹn ba ngày.
|
56
| -
|
Chảng
|
Không có gì hết. Có người nói: chả.
|
56
| -
|
Chàng thuièn
|
Thừng, chão, dụng cụ ghe tàu.
|
56
| -
|
Chạo
|
Đồ ăn mặn bằng cá ướp vừa phải, chạo.
|
56
| -
|
Chặp
|
Đếm từng năm cái một. Một chặp: một lần năm cái.
|
56
| -
|
Chạt
|
Cắt cái gì bằng việc bổ con dao xuống, hay vật gì khác, nhờ đó một vật được cắt ra.
|
57
| -
|
Chạu
|
Cái chậu bằng đất.
|
57
| -
|
Chép
|
Viết
|
57
| -
|
Chẹt
|
Làm kẹp bàn tay hay vật gì khác mà không thể rút ra được.
|
57
| -
|
Chè, bánh chè
|
Đầu gối
|
57
| -
|
Phan chi
|
Nói ngược lại chứng gian.
|
58
| -
|
Chiềng
|
Lời mở đầu thưa với người trang trọng.
|
58
| -
|
Nhỏ chít
|
Nhỏ bé
|
59
| -
|
Chỏ, cái chỏ
|
Một thứ bình, chõ.
|
59
| -
|
Chở dậy
|
Chỗi dậy.
|
60
| -
|
Chói lói tai
|
Làm điếc tai
|
60
| -
|
Chọt
|
Đặt vào. Nếu được nối kết với những tiếng trong sạch thì đó là một từ trong sạch, nếu được nối kết với những tiếng dâm ô thì đó là một từ rất tục tĩu.
|
61
| -
|
Chửa
|
Chưa.
|
61
| -
|
Chừa
|
Sửa mình 1 phần. Chừa cới: Sửa mình hoàn toàn
|
62
| -
|
Chun
|
Nhăn nheo. Chun áo: nếp nhăn của áo. Khan chun: khăn bị nhăn nheo. Chun lại: bị nhăn nheo.
|
62
| -
|
Vô thỉ vô chung
|
Không bắt đầu, không cùng tận, tức là một mình Thiên Chúa.
|
62
| -
|
Chúoc rượu
|
Rót rượu vào ly, vào chén
|
| -
|
Chuổi hột
|
Tràng hạt.
|
63
| -
|
Chuổi hoa
|
Tràng hoa.
|
63
| -
|
Chút
|
1 ít, một chút
|
63
| -
|
Cồ, gà cồ
|
Con gà mái loại cao lớn. Soũ gà cồ: con gà đực loại rất to lớn, loại gà rất thích hợp để chiến đấu. Gà chọi: cùng một nghĩa.
|
64
| -
|
Cổi
|
Lột ra. Cổi áo ra: tự cởi áo ra. Cổi dêi ra: cởi dây ra.
|
65
| -
|
Cởi ngựa
|
Cởi ngựa (cởi voi, cởi trâu (tlâu))
|
65
| -
|
Cồm
|
Cùm bằng gỗ. Cầm cồm, đáõ cồm: đóng cùm, tra vào cùm.
|
65
| -
|
Cơn do naò
|
Bởi đâu vậy, bởi cái gì mà sinh ra vậy?
|
66
| -
|
Cót, cái cót
|
Một thứ phên đan bằng tre nứa.
|
66
| -
|
Củ lang
|
Củ khoai lang
|
67
| -
|
Dạ
|
Một lời lịch sự trả lời cho kẻ gọi mình.
|
71
| -
|
Deạm
|
Đã thuần thục, trở nên quen thuộc, dạn. Nói về loài vật và những trẻ thơ không còn nhút nhát theo kiểu con nít.
|
74
| -
|
Deạm
|
Dặm đường. Có người nói là dạm (tiếng Quảng)
|
| -
|
Deọc đàng
|
Dọc đường.
|
75
| -
|
Diểu quanh
|
Đi chung quanh, đi diễu. Diểu qua diểu lại: cùng một nghĩa.
|
76
| -
|
Dò
|
Cái bẫy. Làm dò chim: dùng bẫy bắt chim.
|
76
| -
|
Dở
|
Kéo ra. Dở lên: dỡ lên. Dở xuấng: dỡ xuống.
|
76
| -
|
Dòm
|
Ngó nhìn kỹ, như nhìn qua lỗ nhỏ.
|
| -
|
-Đải của lại
-Đải mời người ta
-Đải gạo kẻo sỏi
|
-Trả lại lễ vật bằng một lễ vật khác.
-Mời.
-Lọc gạo khỏi đất và đá.
|
81
| -
|
Đạy
|
Đậy nắp nồi, chảo và những vật tương tự. Úp: cùng một nghĩa.
|
82
| -
|
Đám đất
|
Khoảng đất, khoảng ruộng
|
82
| -
|
Đàng
|
Đường đi.
|
83
| -
|
Đàng cái
|
Đường nhà vua, đường thiên lý.
|
83
| -
|
Đâu, cây thâu đâu
|
Cây có lá giống là cây mông hòe
|
85
| -
|
Đầu lưởi
|
Đầu lưỡi
|
85
| -
|
Đẩu, cái đẩu
|
Hộp tròn có cái đỡ, hay có chân
|
85
| -
|
Địt
|
Tiếng nổ xuất phát từ bụng mà có hơi.
|
88
| -
|
Đụt
|
Trú khỏi mưa gió.
|
93
| -
|
Giâm
|
Gỗ vụn. Giâm củi: cùng một nghĩa.
|
103
| -
|
Hạp nhau
|
Hợp nhau, giống nhau.
|
113
| -
|
Hè nhà
|
Một phần của ngôi nhà không có mái che
|
114
| -
|
Hẹ, hành hẹ
|
Một thứ hành, hẹ
|
114
| -
|
Hể
|
Tiếng chỉ lòng độ lượng hay thương xót. Thương hể: đáng tương cho anh, đáng thương cho tôi.
|
114
| -
|
Hèm rượu
|
Bã cơm đã cất rượu xong.
|
114
| -
|
Hở
|
Tiếng để hỏi hay nài nỉ.
|
116
| -
|
Hở là, ngờ là
|
Nghĩ là.
|
116
| -
|
Hột
|
Hạt. Hột gióũ: hạt giống. Hột muối: hạt muối. Hột tlai: hạt trai.
|
119
| -
|
Kể
|
Đánh giá cao, coi trọng ai. Chẳng kể sự ấy: coi sự ấy không ra gì
|
123
| -
|
Khu
|
Mông, đít.
|
128
| -
|
Lâu lác
|
Đã lâu.
|
131
| -
|
Lải
|
Lấy lãi, lời nhuận.
|
132
| -
|
Đi lang
|
Lang thang.
|
133
| -
|
Cả nước ling lang
|
Vật gì bị nước bao phủ, nước lên láng.
|
133
| -
|
Sáng láng
|
Sáng sủa. Nói về sự sáng sủa và ánh sáng thể chất cũng như linh thiêng.
|
133
| -
|
Laỏ
|
Già. Bà lảo: bà già.
|
134
| -
|
Lộn lạo
|
Lẫn lộn.
|
134
| -
|
Leỏ, lạnh leỏ
|
Lạnh
|
136
| -
|
Lìn lịt
|
Nhìn cách đáng sợ. lịt lịt, cùng 1 nghĩa
|
137
| -
|
Lói, chói lói con mắt
|
Ánh sáng rực làm chói lòa con mắt. Chói lói tai: Làm chói tai
|
138
| -
|
Lỏi
|
Lõi, phần bên trong. Lỏi gỗ: lõi gỗ.
|
139
| -
|
Lòn qua
|
Cúi đầu đi qua, như qua cửa quá thấp.
|
139
| -
|
Lọn
|
Bó, cuộn lụa hay vật gì khác.
|
139
| -
|
Đi một lủ
|
Đoàn người cùng đi một đường.
|
140
| -
|
Lút
|
Tới, đến. Nước lút đến gối: nước tới đầu gối.. Mlút: cùng một nghĩa.
|
142
| -
|
Mầng
|
Vui mừng, chúc mừng.
|
145
| -
|
Mắt
|
Vật trị giá cao, mắc, đắt.
|
146
| -
|
Mền, áo mền
|
Áo giống như cái nệm, khâu bằng bông gòn hay bằng thứ gì tương tự. Chăn mền: chăn khâu theo kiểu cái nệm.
|
148
| -
|
Mớ tôi
|
Chúng tôi, phụ từ chỉ số nhiều.
|
151
| -
|
Mụt
|
Cây đâm chồi.
|
155
| -
|
Nạnh (dấu á) nhau
|
ỷ lại vào sự giúp đỡ của kẻ khác
|
159
| -
|
Nêm
|
Cái nêm, cái chêm, cái chốt.
|
160
| -
|
Nẻo
|
Đường đi. Đi nẻo nào: đi đường nào?
|
160
| -
|
Bò nẹt
|
Con sâu nhiều lông sinh ra ở trên lá tre.
|
161
| -
|
Ngót xuống
|
Xẹp xuống, nhót xuống, ngót xuống.
|
165
| -
|
Nguien thỉ
|
Trạng thái đầu tiên của loài người, nguồn gốc của trời và đất (theo thuyết của Thích Ca).
|
166
| -
|
Nhúm
|
Dúm lửa
|
170
| -
|
Ời
|
Phụ từ để trả lời nhau giữa những người quê mùa; người bề trên cũng trả lời người thuộc hạ như vậy. Giữa những người lịch sự thì dùng dạ.
|
177
| -
|
Phay, deao phay
|
Dao lớn rộng để chặt thịt
|
179
| -
|
Phen, một phen
|
Một lần, hai lần
|
181
| -
|
Phỉnh
|
Dối gạt. Phỉnh phờ ai: những lời dua nịnh, nịnh hót
|
182
| -
|
Qua
|
Tôi. Khi người trên nói với người dưới. Mớ qua: Chúng tôi, khi nhiều người có địa vị hơn nói với người dưới, hay một người nói thay cho tất cả
|
185
| -
|
Quách, chém quách
|
Chém đầu, như trong chiến trận
|
195
| -
|
Quảy, gánh
|
Dùng chiếc gậy để mang vật nặng trên vai, mà sức nặng được chia đều cả hai bên và được treo ở hai đầu của chiếc gậy.
|
186
| -
|
Quăng
|
Làm cho vật gì bể vỡ và tan ra từng mảnh.
|
186
| -
|
Rấm
|
Giữ trái cây cho chín.
|
190
| -
|
Rịm
|
Mục, nát.
|
193
| -
|
Rinh giúp
|
Giúp để khiêng một vật nặng.
|
193
| -
|
Rình chết
|
Gần chết. Rình ngả: gần ngã, gần té…
|
193
| -
|
Rún
|
Cái rốn
|
196
| -
|
Sè, chim sè cành ra
|
Chim mở cánh ra.
|
203
| -
|
Sém hết
|
Trở thành đen hoàn toàn, hay là cháy khét.
|
203
| -
|
Sít
|
Vật gì bị giảm bớt như khi nấu cơm gạo mới.
|
204
| -
|
Sơ cơm
|
Trộn lẫn cơm khi nấu chín.
|
204
| -
|
Sơ thuốc
|
Thoa thuốc
|
204
| -
|
Tè he
|
Để hở, mặc quần áo không chỉnh tề, vô phép.
|
213
| -
|
Thặt
|
Chân lí, chân thực.
|
218
| -
|
Trỡ
|
Bận việc, ngăn trở. Trỡ việc: bị ngăn trở bởi công việc.
|
337
| -
|
Trợt
|
Trượt. tlợt: nghĩa giống nhau.
|
238
| -
|
Xắt
|
Cắt, chặt hay chia vật gì thành từng miếng nhỏ như thịt, rau cỏ… Xắt bí: cắt bí ra thành từng miếng.
|
250
| -
|
Xới cơm
|
Đảo cơm để khỏi đóng cục
|
252
| -
|
Xức
|
Xức. Xức thuốc: bôi xức thuốc để chữa bệnh.
|
253
|
Chia sẻ với bạn bè của bạn: |