11
Venerable Webu Sayadaw wants his audience to realize the teachings through
their own experience, for themselves, rather than through hearing them; and he
says that in this way, as they begin to see the teachings as a reality, people can
pass beyond doubt.
Bảy điểm nầy làm sáng tỏ rằng trong thực tế niềm tin Phật Giáo không đóng
một vai trò trọng yếu như thế. Tầm quan trọng cùng tột là cung cấp để cho hành
động đúng đắn, và sự kinh nghiệm cùng với sự hiểu biết được rút ra từ nơi đó.
Như chúng ta sẽ được thấy trong những Pháp Thoại, Ngài Đại Trưởng Lão Webu
mong mỏi những khán thính giả của Ngài thực hiện được những lời dạy thông qua
những kinh nghiệm của chính họ, cho bản thân của họ, chứ không phải thông qua
việc nghe những điều đó; và Ngài nói rằng chính ngay phương thức nầy, khi họ bắt
đầu nhìn thấy những lời dạy như là một chân lý, thì người ta có thể vượt qua hết
mọi sự nghi ngờ.
Venerable Webu Sayadaw was born on the sixth day of the waxing moon of
Tabaung of the year 1257 (Burmese Era – February 17, 1896) in Ingyinbin, a
small village near Swebo in Upper Burma. He was ordained as a novice at the
age of nine and was given the name Shin Kumara. All boys in Buddhist Burma
become novices at their local monastery at some time in their teens or even earlier,
but usually return home after a predetermined span of time. Shin Kumara,
however, decided to stay at the monastery to receive a religious education. At the
age of twenty, he was ordained as a full member of the Sangha, the Buddhist order
of monks, receiving the Upasampàda ordination, and was thereafter addressed as
U Kumara
(*)
.
Ngài Đại Trưởng Lão Webu đã được sinh ra vào Ngày thứ sáu của thời nữa
tiền nguyệt khuyết Tháng Ba của năm 1257 (Niên Lịch Miến Điện – Ngày 17
Tháng Hai Năm 1896) tại Ingyinbin, một ngôi làng nhỏ cạnh bên Swebo, thuộc
Thượng Phần Miến Điện
[một khu hải đảo của nước Miến Điện, ở về phía Bắc
lãnh thổ quốc gia Myanmar (Miến Điện cũ)]. Ngài đã được thọ Sa Di Giới vào lúc
tuổi lên chín, và được truyền cho tên gọi là Sư Kumara. Tất cả trai trẻ trong Phật
Giáo Miến Điện trở thành những vị Sa Di ở tại Tu Viện địa phương của họ, ở vào
những thời điểm của lứa tuổi thanh thiếu niên hoặc thậm chí là sớm hơn nữa, tuy
nhiên một cách thường lệ, là trở về nhà sau một khoảng thời gian đã quy định
trước. Sư Kumara, mặc dù vậy, đã quyết định ở lại Tu Viện để tiếp thụ một nền
đạo giáo nghiêm túc. Vào lúc tuổi lên hai mươi, Ngài đã thụ giới với tư cách là
12
một thành viên chính thức của Tăng Đoàn, Giáo Hội của những tu sĩ Phật Giáo,
được tiếp thụ
Cụ Túc Giới, và sau đó được xưng hô là Ngài Kumara.
[
(*)
: “Webu Sayadaw” is a title meaning “the noble teacher from Webu”. Though
the title “Sayadaw” is used as a form of address without adding a proper name,
every monk still keeps his monk’s name, which in the case of Webu Sayadaw was
Venerable Kumara.]
[
(*)
: “Đại Trưởng Lão Webu” là một danh hiệu có ý nghĩa là “Vị giáo thọ cao quý
từ nơi Webu”. Cho dù danh hiệu “Đại Trưởng Lão” được dùng như một hình thức
cho việc xưng hô mà không cần phải thêm một biệt danh, mỗi vị tu sĩ vẫn giữ lấy
danh xưng tu sĩ của mình, như với trường hợp của Đại Trưởng Lão Webu đó là
Trưởng Lão Kumara]
U Kumara went to Mandalay to study at the famous Masoyein monastery,
the leading monastic university of the time. In the seventh year after his full
ordination, he abandoned the study of the Pàli scriptures and left the monastery to
put into practice what he had learned about meditation.
Buddhist monks can choose between two activities: the study of the
scriptures (Pariyatti), or the practice of Buddhist meditation (Patipatti). While
scholarly monks tend to live in centres of learning in order to be able to pass on
their knowledge to younger monks, meditating monks leave the busy atmosphere of
the monasteries to retire to a solitary life in the jungle. They often live in caves or
simply under trees and come into contact with people only on the occasion of their
morning alms – rounds.
Ngài Kumara đã đi đến Mandalay để tu học tại Tu Viện Masoyein nổi tiếng,
một Đại Học Tu Viện hàng đầu của đương thời. Trong năm thứ bảy kể từ sau việc
thọ Cụ Túc Giới của mình, Ngài đã từ bỏ việc nghiên cứu những kinh điển Pàli và
đã rời khỏi Tu Viện để dốc tâm lực vào thực hành những điều mà Ngài đã được
học về Thiền.
Những tu sĩ Phật Giáo có thể chọn lựa ở giữa hai phạm vi hoạt động: nghiên
cứu về những kinh điển
(Pháp Học) hoặc là thực hành về Thiền Phật Giáo
(Pháp
Hành). Trong khi những nhà sư học giả có khuynh hướng để sống trong những
Trung Tâm Học Viện với mục đích để có thể truyền trao những kiến thức của mình
đến những vị tu sĩ trẻ tuổi hơn, thì những vị thiền sư lại rời khỏi bầu không khí bận
rộn ở những Tu Viện để rút về với một đời sống ẩn dật ở chốn rừng già. Họ
13
thường sống trong những hang động, hoặc một cách đơn giản là, ở dưới những cội
cây, và chỉ đi ra tiếp xúc với con người vào những duyên sự của những buổi sáng
trì bình khất thực của họ.
After leaving the Masoyein monastery in Mandalay at the age of twenty –
seven, U Kumara spent four years in solitude. Then he went to his native village
of Ingyinbin for a brief visit. His former teacher at the village monastery
requested U Kumara to teach him the technique of meditation he had adopted and
U Kumara did so. “This is a shortcut to Nibbàna”, he said, “anyone can use it. It
stands up to investigation and is in accordance with the teachings of the Buddha as
conserved in the scriptures. It is the straight path to Nibbàna”.
Sau khi rời khỏi Tu Viện Masoyein tại Mandalay vào lúc tuổi hai mươi bảy,
Ngài Kumara đã trải qua bốn năm ở nơi tĩnh mịch. Thế rồi, Ngài đã đi đến ngôi
làng quê của mình ở tại Ingyinbin cho một chuyến thăm ngắn ngủi. Vị thầy giáo
cũ của Ngài ở tại Tu Viện bản làng đã yêu cầu Ngài Kumara chỉ dạy cho ông ta kỷ
thuật về Thiền mà vị nầy đã có áp dụng và cũng như Ngài Kumara đã có thực
hành. “Đây là một phương pháp nhanh chóng ngắn gọn đưa đến Níp Bàn” Ngài đã
nói, “bất luận ai cũng có thể áp đụng được nó. Nó dũng cảm đương đầu với việc
nghiên cứu và phù hợp với những lời chỉ dạy của Đức Phật mà đã được lưu giữ ở
trong những kinh điển. Đây là con đường trực chỉ đến Níp Bàn”.
There is a set of thirteen practices called the Dhutanga
(+)
that are often
taken up by monks living in solitude. They are designed to combat laziness and
indulgence. One is never to lie down, not even to sleep. Monks taking up this
Chia sẻ với bạn bè của bạn: