9
được gọi là
Tuệ hoặc là Trí Tuệ, và
Tuệ là một phẩm chất mà có khả năng làm
cho một thiền sinh đạt đến Níp Bàn.
It is significant that a monk of such high standing as Venerable Webu
Sayadaw, rather than teach Abhidhamma philosophy – which is intellectually
fascinating and taxing, should spend his life teaching the basics of practical
Buddhism to all who are inclined to listen. U Hte Hlain, the collector of some of
the discourses contained in this book, writes: “Venerable Webu Sayadaw preached
sometimes five, sometimes ten times a day. Seven main points were always
included in his discourses. If Venerable Webu Sayadaw gave 10,000 discourses in
his life, then these points were expounded by him 10,000 times. He always
included them, even if he had to repeat them again and again. He always explained
the teachings in simple terms, so that the ordinary person could understand. He
tried to explain the Dhamma in such a way that the most difficult thing became
easy”.
Điều quan trọng là một vị tu sĩ ở vị trí cao quý như Ngài Đại Trưởng Lão
Webu, thay vì giảng dạy Triết Học
Vô Tỷ Pháp – là một môn học hấp lực trí tuệ và
nan giải, thì lại dành cuộc đời của mình cho việc giảng dạy nguyên tắc cơ bản của
việc thực hành Phật Giáo cho đến tất cả những ai có khuynh hướng muốn lắng
nghe. Ông Hte Hlain, là người sưu tập về một số những Pháp Thoại đã chứa đựng
trong quyển sách nầy, có viết: “Ngài Đại Trưởng Lão Webu thuyết giảng đôi khi
năm, đôi khi mười lần một ngày. Bảy điểm chánh yếu thì luôn được kết hợp trong
những Pháp Thoại của Ngài. Nếu Ngài Đại Trưởng Lão Webu đã ban bố 10,000
Pháp Thoại trong cuộc đời của Ngài, thì những điểm nầy đã được Ngài giảng dạy
chi tiết 10,000 lần. Ngài đã luôn luôn kết hợp chúng vào, cho dù là Ngài đã có
phải nhắc đi nhắc lại những điểm nầy không biết bao nhiêu lần. Ngài đã luôn giải
thích Giáo Pháp trong những thuật ngữ đơn giản, để cho người bình thường có thể
hiểu biết được. Ngài đã cố gắng để giải thích Giáo Pháp trong một phương cách
mà điều khó khăn nhất cũng trở nên dễ dàng”.
The seven Points are:
1. One can only expect the fulfillment of one’s aspirations if one is perfect in
morality.
2. When practicing generosity (Dàna) in the religion of the Buddha, the mental
attitude and volition involved are very important.
10
3. Believing in the Law of Cause and Effect (i.e. the Law of Kamma) one shoud
always act with a upright mind.
4. One should not aspire to any happiness of either the human or celestial
worlds – which are impermanent – but only to Nibbàna.
5. Because of the arising of the Buddha we have the opportunity to practise
right conduct (Carana) and wisdom (Pannà) fully and therefore benefit
greatly.
6. From the moment we are born to the moment we die, there is the in – breath
and the out – breath. This is easy for everybody to understand. Every time
we breathe in or out, the breath touches near the nostrils. Every time it
touches we should be aware of it.
7. While we are walking, working, doing anything, we should always be aware
of the in – and out – breath.
Bảy điểm đó là:
1. Người ta chỉ có thể kỳ vọng sự thành tựu về những sở nguyện với điều
kiện là người hoàn hảo trong đức hạnh.
2. Khi thực hành việc rộng lượng
(Xả Thí) trong tôn giáo của Đức Phật, thái
độ tinh thần và ý chí tham gia thì rất là quan trọng.
3. Tin vào định luật Nhân và Quả (có nghĩa là định luật của Nghiệp Báo)
người ta nên luôn luôn hành động với một tâm trí chánh trực.
4. Người ta không nên khát khao vào bất luận hạnh phúc nào của Nhân Loại
hoặc của Thiên Giới, ngoại trừ duy nhất đến Níp Bàn.
5. Vì sự đản sanh của Đức Phật, chúng ta có cơ hội trau giồi Chánh Hạnh
Chia sẻ với bạn bè của bạn: