SƠ LƯỢc lịch lịc sử việt nam nhà NƯỚc sau công nguyên bắc thuộc lần thứ nhấT



tải về 0.71 Mb.
trang9/10
Chuyển đổi dữ liệu30.07.2016
Kích0.71 Mb.
#10742
1   2   3   4   5   6   7   8   9   10

Nguyễn Phúc Khoát (1738- 1765)

Nguyễn Phúc Khoát là con Nguyễn Phúc Chú, sinh năm Giáp Ngọ (1714), mẹ là người họ Trương ở huyện Tống Sơn, Thanh Hóa, con chưởng cơ Trương Phúc Phan. Vào hầu Phúc Chú từ khi còn chưa lên ngôi, được phong Hữu cung tần. Tính bà e lệ cẩn thận, dạy bảo nội chức có phong độ của hậu phi đời xưa. Bà sinh được 2 người con trai rồi mất năm bà mới 22 tuổi.

Nguyễn Phúc Khoát là con trưởng, được phong làm chưởng dinh Dinh tiền thủy chính hầu, làm phủ đệ tại Cơ Tiền Dực ở Dương Xuân. Phúc Chú mất, Khoát được lên ngôi khi 25 tuổi, lấy hiệu là Từ Tế đạo nhân.

Nguyễn Phúc Khoát bắt đầu xưng vương. Năm Giáp Tý (1744) đúc ấn Quốc vương, sau đó, ngày Kỷ Mùi, lên ngôi vua ở phủ chính Phú Xuân, ban chiếu bố cáo thiên hạ. Bộ máy chính quyền từ trên xuống cơ sở, các chức danh, tên gọi cũng thay đổi theo: phủ chúa gọi là Điện, đổi chữ "thân" làm chữ "tấu" khi có việc cần bàn với chúa. Tuy nhiên vua Nguyễn vẫn dùng niên hiệu vua Lê trong các văn bản hành chính. Đối với các thuộc quốc Cao Miên, Ai Lao, Xiêm... lại xưng là Thiên vương. Tôn hiệu các đời trước cũng được nâng lên phù hợp với cương vị mới của Quốc vương. Đối với anh em họ hàng gần thì phong tước Quận công. Hoàng tử vẫn xưng là Công tử con trai trưởng là Thái công tử, cứ theo thứ tự mà xưng. Đặc biệt Nguyễn Vương cho rằng con trai khó nuôi, nên gọi là con gái và ngược lại gái thì gọi là trai.

Cùng với thay đổi trên, triều phục bách quan cũng thay đổi. Các đơn vị hành chính địa phương cũng một phen thay đổi.

Từ năm Giáp Tuất (1754) để xứng đáng là kinh đô của Nguyễn vương, Phú Xuân được xây dựng thêm hàng loạt điện đài mới theo quy mô đế vương: dựng hai điện Kim Hoa và Quang Hoa,các gác Dao Trì, Triệu Dương, Quang Thiên và các nhà Tựu Lạc, Chính Quan, Trung Hòa, Di Nhiên cùng các đài Sướng Xuân, đình Thụy Vân, hiên Đồng Lạc, am Nội Viện, đình Giáng Hương. ở thượng lưu sông Hương có phủ Dương Xuân, điện Trường Lạc, hiên Duyệt Võ, chạm vẽ tinh xào. Vườn hậu uyển có non bộ, đá lạ, hồ vuông, hào cong, cầu vồng, thủy tạ. Tường trong tường ngoài đắp rồng, hổ, lân, phượng, hoa cỏ. Gác Triệu Dương nhìn xuống dòng sông, có quy mô nguy nga. Phía trên phía dưới đô thành đều đặt quân xá và đệ trạch. Cho công hầu, chia ra từng ô như bàn cờ. Phía ngoài thành thì chợ phố liên tiếp, cây to um tùm, thuyền chài buôn bán di lại như mắc cửi. Rõ ràng dưới thời chúa Nguyễn Phúc Khoát, kinh đô Phú Xuân trở thành nơi đô hội lớn, văn vật thanh dung lừng lẫy, đời trước chưa từng có.

Xây dựng xong kinh đô Chúa sai nhiều văn quan đề vịnh phong cảnh cố đô. Phú Xuân trở thành một thành phố nên thơ từ ngày ấy. Chúa Nguyễn đã đón tiếp các quốc vương láng giềng ở đất Phú Xuân.

Nguyễn Phúc Khoát đã tự xưng vương, ở ngôi được 27 năm. Năm ất Dậu (1765), quốc vương băng, thọ 52 tuổi. Con trai thứ 16 lên nối ngôi.



Nguyễn Phúc Thuần (1765- 1777)

Nguyễn Phúc Thuần còn có tên húy là Hân, sinh năm Giáp Tuất (1751), con thứ 16 của Phúc Khoát. Mẹ Phúc Thuần người họ Nguyễn, sinh được hai trai, Phúc Thuần là thứ hai. Năm Giáp Ngọ (1774) bà đi tu ở chùa Phúc Thành, sau đó mất (1804) được truy tôn là Tuệ Tĩnh thánh mẫu Nguyên sư, hiệu là Thiệu Long giáo chủ.

Chúa Phúc Khoát lúc đầu lập Hoàng tử thứ 9 tên là Hiệu làm Thái Hoàng tử, Hiệu mất sớm, con trai của Hiệu là Hoàng Tôn Dương còn thơ ấu mà Hoàng tử cả là Chương cũng đã mất. Hoàng tử thứ hai là Nguyễn Phúc Luân cũng rất khôi ngô, theo thứ tự sẽ phải lập Hoàng Tôn Dương hoặc Nguyễn Phúc Luân lên ngôi. Phúc Khoát có ý lập Phúc Luân, nên đã trao Luân cho một thầy học nổi tiếng là Trương Văn Hạnh dạy bảo những điều cần thiết cho một người gánh vác ngôi vua. Phúc Khoát mất, tình hình lại thay đồi. Quyền thần Trương Phúc Loan không muốn lập Nguyễn Phúc Luân vì Luân đã lớn tuổi, khó bề lộng hành. Thế là Phúc Loan chọn lập Phúc Thuần con thứ 16 của Phúc Khoát, mới 12 tuổi lên ngôi.

Phúc Luân không được lập mà còn bị bắt giam. Nội hữu Trương Văn Hạnh - thầy dạy Phúc Luân cũng bị bắt giết. Phúc Luân không được nối ngôi trời, lo buồn cho tính mạng mà chết khi tuổi mới 33. Đến năm Minh Mệnh thứ 2 (1802) Luân được truy tôn hiệu là Hưng tổ.

Trải 9 đời chúa, đến đây nhà Nguyễn lại bị nạn quyền thần lấn lướt. Phúc Thuần nhỏ tuổi, lại không phải là người được sắp sẵn đề lên ngôi, nay thật bỡ ngỡ trên ngai vàng. Mọi quyền hành đều do Trương Phúc Loan sắp dặt. Loan tự nhận là Quốc phó, giữ bộ Hộ quản cơ Trung tượng kiêm Tần vụ. Thực tế Trương Phúc Loan thâu tóm vào tay từ chính sự đến kinh tế. Các nguồn lợi chủ yếu của vương quốc Đàng Trong đều rơi vào tay Loan. Thuế sản vật các mỏ vàng Thu Bồn, Đồng Hương, Trà Sơn, Trà Vân... hàng năm Trương chỉ nộp vào ngân khố từ 1- 2 phần mười số thu được. Các thứ lâm sản thủy sản đều chảy vào nhà Trương. Ngày nắng Loan cho đem phơi của cải quý báu làm sáng rực cả một góc trời! Cả nhà họ Trương chia nhau nắm hết mọi chức vụ chủ chốt. Quyền và tiền họ Trương lấn át cả trong triều ngoài trấn. Có tiền có quyền. Loan mặc sức hoành hành ngang ngược - người bấy giờ gọi là Trương Tần Cối.

Giữa lúc đó, Lại bộ thượng thư Nguyễn Cư Trinh, người có uy tín tài năng, trụ cột của Nguyễn triều qua đời (tháng 5 năm Đinh Hợi 1767). Thế là họ Trương không còn ai ngăn cản nữa, càng ra sức làm nhiều việc càn rỡ, chẳng còn kiêng nể gì: bán quan buôn tước ăn tiền tha tội hình phạt phiền nhiễu, thuế má nặng nề, thần dân cực khổ và căm giận. Những người có tâm huyết và tài năng như Tôn Thất Dục, tinh thông kinh sử, thuật số, âm nhạc, bị Loan tìm cách hãm hại. Tài chính kiệt quệ đến nỗi dật sĩ Thuận Hóa là Ngô Thế Lân phải kêu lên triều đình. Nhưng mọi cố gắng của họ Ngô không được hồi âm.

Giữa lúc đó, anh em Tây Sơn do Nguyễn Nhạc cầm đầu dấy nghĩa ở Qui Nhơn, thanh thế ngày càng lừng lẫy và được dân chúng đồng tình ủng hộ. Thêm vào đó, tháng 5 năm Giáp Ngọ (1774) Trịnh lại đem đại quân vào đánh Nguyễn. Cả Tây Sơn lẫn Trịnh đều nêu khẩu hiệu trừ khử quyền thần Trương Phúc Loan và tôn phò Hoàng Tôn Dương. Chiến tranh loạn lạc lại nổ ra, đất Thuận Hóa trước trù phú là thế mà nay trăm bề xơ xác la liệt, "mỗi lẻ gạo trị giá một tiền, ngoài đường xác đói, người nhà có khi ăn thịt nhau".

Trước tình cảnh dó, không còn cách nào khác, tôn thất nhà Nguyễn cùng nhau hợp sức bắt trói Trương Phúc Loan nộp cho quân Trịnh. Tháng 12 năm 1774, quân Trịnh chiếm được Phú Xuân và đặt quan cai trị Thuận Hóa. Trong số quan lại nhà Trịnh được cử vào Thuận Hóa có Lê Quí Đôn (1776).

Tây Sơn tìm cách tạm hòa với Trịnh để yên mặt Bắc và có điều kiện đánh Nguyễn ở phía Nam. Đại quân Tây Sơn cả thủy lẫn bộ đánh vào Sài Gòn. Chúa Nguyễn chạy về Định Tường rồi lại sang Long Xuyên. Tháng 9 năm Đinh Dậu (1777) quân Tây Sơn do Nguyễn Huệ thống lĩnh đánh chiếm Long Xuyên, chúa Nguyễn bị chết trận. Như vậy Nguyễn Phúc Thuần ở ngôi chúa 12 năm, khi chết mới 24 tuổi, không có con nối.

Nguyễn Phúc Ánh (1780-1802)

Nguyễn Phúc Ánh còn có tên húy là Chủng và Noãn, sinh năm Nhâm Ngọ (1762), con thứ ba của Nguyễn Phúc Luân. Mẹ Nguyễn Ánh là con gái Diễn Quốc Công Nguyễn Phúc Trung (có lẽ Phúc Trung được ban quốc tính), người làng Minh Linh, phủ Thừa Thiên. Khi Nguyễn Phúc Luân bị quyền thần Trương Phúc Loan phế truất rồi bắt giam năm Ất Dậu (1765), Nguyễn Ánh còn nhỏ (4 tuổi) đang ở nhà riêng. Năm Quí Tỵ (1773), Tây Sơn khởi nghĩa, Nguyễn Phúc Ánh 13 tuổi, theo chúa Phúc Thuần vào Quảng Nam. Mùa thu năm Đinh Dậu (1777) Nguyễn Phúc Thuần tử trận, Nguyễn Phúc

Ánh một mình chạy thoát ra đảo Thổ Chu. Một tháng sau, Phúc Ánh tập hợp được một đội quân nghĩa dũng, binh sĩ mặc toàn đồ tang, quyết tử đánh chiếm lại Sài Gòn. Giúp Nguyễn Phúc Ánh lúc đó mới 17 tuổi có Đỗ Thanh Nhân và một số tướng lĩnh khác. Ánh ra sức xây dựng lực lượng, đắp lũy đất ở phía Tây sông Bến Nghé, đóng cọc gỗ ở các cửa cảng để phòng ngừa tấn công của Tây Sơn. ánh đã có 50 chiến thuyền.

Năm Canh Tý (1780) Phúc ánh chính thức lên ngôi vương tại Sài Gòn, dùng ấn "Đại Việt quốc Nguyễn chúa vĩnh trấn chi bảo" làm ấn truyền quốc, niên hiệu thì vẫn theo chính sóc nhà Lê.

Tháng 3 năm Nhâm Dần (1782) Nhạc và Huệ kéo quân vào đánh Sài Gòn. Phúc ánh chống lại ở cửa biển nhưng yếu sức đành thua trận. Phía Phúc Ánh lần này có cả sĩ quan Pháp tử trận. ánh phải cưỡi thuyền nhỏ chạy ra biển, đến trú ở đảo Phú Quốc. Đại quân của Tây Sơn rút về Quy Nhơn, tháng 8 năm Nhâm Dần (1782) Ánh lại thu thập tàn quân trở lại Gia Định.

Tháng 2 năm Quý Mão (1783) Nguyễn Huệ và Nguyễn Lữ lại kéo vào đánh cửa biển Cần Giờ, quân Nguyễn tan tác. Tôn Thất Mân, Dương Công Trừng bị bắt hoặc chết, Chu Văn Tiếp bỏ chạy. Nguyễn Ánh (Tức Nguyễn Phúc Ánh) cùng với 5, 6 người tùy tùng, 100 lính chạy về Ba Giồng.

Tháng 4 năm đó, bị Nguyễn Huệ đuổi gấp: ánh phải cưỡi trâu lội qua sông thoát thân rồi đem mẹ, vợ con ra Phú Quốc. Thủy quân Tây Sơn truy đuổi đến tận đảo. Tình thế cực kỳ nguy khốn song nhờ cái cớ Lê Phúc Điển mặc áo ngự đứng đầu thuyền giả làm Nguyễn Vương đánh lạc hướng Tây Sơn, Nguyễn Ánh chạy thoát ra đảo Côn Lôn. Phò mã Trương Văn Đa liền kéo thủy quân Tây Sơn ra vây chặt 3 vòng quanh đảo, chúa Nguyễn như "cá nằm trên thớt", bỗng một trận bão lớn làm thiệt hại nặng thủy quân Tây Sơn. Nguyễn Ánh thoát được đến hòn Cổ Cốt, sau lại về Phú Quốc. Thất bại liên tiếp, Nguyễn Ánh phải trao con là Hoàng tử Cảnh mới 4 tuổi cho Bá Đa Lộc làm con tin sang cầu viện người Pháp. Rồi Nguyễn Ánh từ biệt mẹ và vợ con đem quân chạy ra ngoài cõi. Nguyễn Ánh chơi vơi ngoài biển suốt một tuần liền, thiếu lương ăn, nước ngọt, quân sĩ tưởng khó thoát chết, nhưng nhờ may mắn mà sống sót.

Tháng 2 năm Giáp Thìn (1784), Nguyễn Ánh đem theo cả mẹ và vợ con chạy sang Xiêm nương thân và cầu viện. Mùa hè năm đó, Nguyễn Ánh dẫn quân Xiêm gồm 2 vạn thủy quân và 300 chiến thuyền kéo về Sài Gòn, Gia Định. Nhờ có viện binh, Nguyễn Ánh chiếm lại Ba Xắc, Trà Ôn, Mân Thít, Sa Đéc...

Tháng 12 năm Giáp Thìn (1784), Nguyễn Nhạc được tin cấp báo, tức thì sai Nguyễn Huệ đem quân vào cứu Sài Gòn. Quân Tây Sơn mai phục ở Rạch Gầm và Xoài Mút (tinh Định Tường), rồi dụ quân Xiêm vào trận. Quân Xiêm đại bại, Chiêu Tăng, Chiêu Sướng cùng vài nhân sĩ tốt theo đường núi chạy về nước. Nguyễn ánh đi Trấn Giang rồi sang Xiêm, xin trú ở Long Kỳ (người Xiêm gọi là Đồng Khoai, ở ngoài thành Vọng Các) sai người đón mẹ và vợ con đến. Quân Nguyễn nhờ đất Xiêm mà sản xuất, trồng cấy, đóng chiến thuyền, tích trữ lương thực, thu nạp quân sĩ, đợi thời cơ. Lưu trú trên đất Xiêm, Nguyễn Ánh đã giúp vua Xiêm đánh bại Diến Điện... Vua Xiêm thán phục, đem vàng lụa đến tạ ơn và hứa giúp Nguyễn Ánh lấy lại Gia Định. Sau trận đánh Diến Điện, Nguyễn Ánh còn giúp vua Xiêm đánh lại quân Chà Và.

Năm Đinh Mùi (1787), trước lực lượng hùng mạnh của Nguyễn Ánh, lại được Bồ Đào Nha giúp đỡ, vua Xiêm tỏ ra không bằng lòng. Biết vua Xiêm không giúp gì hơn, Nguyễn Ánh lặng lẽ rút quân về nước, dùng kế ly gián giết Phạm Văn Tham, đuổi Nguyễn Lữ chiếm lại Sài Gòn - Gia Định tháng 8 năm Mậu Thân (1788). Thế là trong khi Nguyễn Nhạc bất lực chỉ biết bo bo giữ Qui Nhơn, Nguyễn Huệ phải lo đối phó với tình hình Bắc Hà, đánh đuổi 20 vạn quân Thanh, Nguyễn Ánh ở Gia Định nắm thời cơ chuẩn bị, củng cố lực lượng. Nguyễn Ánh còn sai sứ thần Phan Văn Trọng và Lâm

Đồ mang thư và 50 vạn cân lương sang giúp nhà Thanh. Năm Kỷ Dậu (1789), Hoàng tử Cảnh từ phương Tây về nước, Cảnh đi cùng Bá Đa Lộc sang Pháp cầu viện, lênh đênh trên biển và hải cảng các nước, hai năm sau mới đến Paris. Hoàng đế Pháp tiếp đãi theo vương lễ song chưa giúp được gì. Vì triều đình còn gặp khó khăn. Cảnh về đến Gia Định vừa đúng bốn năm đi xa. Hai sĩ quan Pháp ở lại phụng sự Chúa, được ánh đặt tên là Thắng và Chấn, cấp một nghìn quan tiền, trao cho chức Cai đội.

Trên lãnh địa của mình, Nguyễn Ánh đã hết sức cố gắng nhanh chóng tăng cường binh lực và mọi mặt. Một loạt chính sách được ban hành: đặt quan điền tuấn, chuyên lo việc làm ruộng, thi hành phép ngụ binh ư nông, trai tráng khi cần là lính chiến, hết trận về làm ruộng, định lệ khuyến nông, đặt đồn điền... Nguyễn Ánh đặc biệt quan tâm đến phong thưởng và đãi ngộ tướng sĩ trận vong hoặc có công lao. Nguyễn Ánh đặt quan hệ tốt với các nước láng giềng, nhất là binh sĩ Xiêm nhằm tăng cường thanh thế. Đối với châu Âu đang giúp rập, ánh hết sức ưu ái. Tháng 9 năm Kỷ Mùi (1799) Bá Đa Lộc, giáo sĩ người Pháp, ân nhân của Nguyễn Ánh qua đời được ánh truy tôn là Thái phó Bi Nhu Quận công. Tang lễ được cử hàng cực kỳ trọng thể, nước Nam chưa làm thế bao giờ.

Từ 1792 Nguyễn Ánh bắt đầu mở các đợt tấn công ra Qui Nhơn theo chiến thuật "tằm ăn lá dâu" và theo từng mùa gió nồm: "Gặp nồm thuận thì tiến, vãn thì về; khi phát thì quân lính dủ mặt về thì tản ra đồng ruộng". Sau cái chết của Quang Trung, Nguyễn Ánh càng ráo riết thực thi chiến thuật trên. Năm Kỷ Mùi (1799), Nguyễn ánh chiếm được Qui Nhơn, đồi thành Binh Định.

Từ đó Nguyễn Ánh bắt đầu giành được thế áp đảo, khiến Nguyễn Quang Toản non yếu, nội bộ lục đục không sao chống nổi. Sau khi Nguyễn Quang Toản mất vào tháng 7 năm Nhâm Tuất (1802), Nguyễn Ánh lên ngôi hoàng đế.  



  1. TRIỀU NGUYỄN THỜI KỲ ĐỘC LẬP (1802-1883)

Gia Long Hoàng đế (1802-1819)
Minh Mệnh Hoàng đế (1820-1840)
Thiệu Trị Hoàng đế (1841-1847)
Tự Đức hoàng đế (1848-1883) 

Gia Long Hoàng đế (1802-1819)

Niên hiệu: Gia Long

Nguyễn A'nh lấy được Gia Định nǎm Mậu Thân (1788) tuy đã xưng vương mà chưa đặt niên hiệu riêng vẫn dùng niên hiệu vua Lê. Tháng 5 nǎm Nhâm Tuất (1802) lấy lại được toàn bộ đất đai cũ của các chúa Nguyễn, Nguyễn Vương Phúc ánh cho lập dàn tế cáo trời đất, thiết triều tại Phú Xuân, đặt niên hiệu Gia Long nǎm thứ nhất. Lê Quang Định được cử làm Chánh sứ sang nhà Thanh xin phong vương và đổi tên nước là Nam Việt. Nhà Thanh cho rằng tên nước là Nam Việt sẽ lẫn với nước của Triệu Đà (gồm cả Đông Việt, Tây Việt) nên đổi là Việt Nam. Thế là nǎm Giáp Tý (1804) A'n sát Quảng Tây Tề Bồ Sâm được vua Thanh phái sang phong vương cho Gia Long và nước ta có tên là Việt Nam. Nǎm Bính Dần (1806), Gia Long chính thức làm lễ xưng đế ở điện Thái Hòa và từ đây qui định hàng tháng cứ ngày rằm và mồng một thì thiết đại triều; các ngày 5, 10, 20, và 25 thì thiết tiểu triều.

Là vua sáng nghiệp của triều Nguyễn của một quốc gia thống nhất, Gia Long phải quyết định rất nhiều việc đặt nền móng cho vương triều có một địa bàn thống trị rộng lớn từ Bắc chí Nam. 

Gia Long cho tổ chức lại các đơn vị hành chính từ trung ương xuống. Cà nước chia làm 23 trấn, 4 doanh. Đây là lần đầu trên một lãnh thổ thống nhất, các tổ chức hành chính được sắp đặt chính quy như vậy.

Tháng 11 nǎm Kỷ Mão (1818), vua không được khỏe, Hoàng Thái tử và cận thần vào hầu, vua hạ chiếu cho Hoàng Thái Tử quyết đoán việc nước, tâu lên vua sau. Tháng 12, bệnh nguy kịch, vua gọi Hoàng Thái tử, các hoàng tử và đại thần Lê Vǎn Duyệt, Phạm Đǎng Hưng vào hầu. Vua cho bày ấn ngọc, cờ, gươm trên án vàng trước giường ngự rồi dụ Hoàng Thái tử rằng:


- Đấy là cơ nghiệp gian nan của trẫm, nay giao cho con, con nên cẩn thận giữ gìn.
Hoàng tử cùng các tước công, đại thần ủy lại nhà vua, khuyên gắng gượng thuốc thang, an tâm tĩnh dưỡng, chớ nên lo lắng gì nhiều... Vua nói:
Điều này. bọn ngươi không biết đâu! Phàm truyền ngôi là việc lớn xưa nay, hôm nay còn nói được mà không nói, ngày khác chết thì nói sao kịp! Vua liền gọi Thái tử đến trước giường, dụ rằng:
- Nay việc lớn cùa thiên hạ đã định rồi. Ta cũng sắp chết, không nói gì, chỉ có một việc là ngày sau phải cẩn thận, chớ nên gây hấn ngoài biên.
Nói rồi vua sai Hoàng thái tử lấy bút chép lại lời đó Thái tử ngập ngừng muốn tránh chữ "bǎng", vua liền cầm bút phê vào. Ngày Đinh Mùi tháng 12, vua bǎng ở điện Trung Hòa, thọ 59 tuổi. Gia Long tiếp tục ngôi chúa trong 25 nǎm, làm vua cả nước 18 nǎm tổng cộng 43 nǎm.

Minh Mệnh Hoàng đế (1820-1840) 

Niên hiệu: Minh Mệnh

Vua húy là Hiệu, lại có tên là Đởm, sinh ngày 23 tháng giêng nǎm Tân Hợi (1789), là con thứ tư của vua Gia Long. Tháng giêng nǎm Canh Thìn (1820), Hoàng thái tử Đởm lên ngôi vua, đặt quốc hiệu là Đại Nam, niên hiệu là Minh Mệnh, khi ấy 30 tuổi. Minh Mệnh có tư chất thông minh, hiếu học, nǎng động và quyết đoán. Từ khi lên ngôi, ông ra coi chầu rất sớm, xem xét mọi việc trong triều và tự tay "châu phê" rồi mới cho thi hành.
Là người tinh thâm Nho học, sùng đạo Khổng Mạnh, Minh Mệnh rất quan tâm đến học hành khoa cử, tuyển chọn nhân tài. Dựng Quốc từ giám, đặt chức Tế tửu và Tư nghiệp nǎm Tân Tị (1821), mở lại thi Hội thi Đình nǎm Nhâm Ngọ (1822). Trước đó, 6 nǎm một khoa thi nay rút xuống 3 nǎm: các nǎm Tý, Ngọ, Mão, Dậu, thi Hương; các nǎm Thìn, Tuất, Sửu, Mùi thi Hội thi Đình. Vua còn cho đặt đốc học ở Gia Định thành, dùng thầy giáo người Nghệ An là Nguyễn Trọng Vũ làm phó đốc học để khuyến khích việc học tập ở Nam Bộ. 

Minh Mệnh rất quan tâm đến võ bị, đặc biệt là thủy quân. Ngay những nǎm đầu lên ngôi, vua đã sai người tìm hiểu cách đóng tàu của châu Âu và quyết tâm làm cho người Việt tự đóng được tàu theo kiểu Tây Âu và biết lái tàu vượt đại dương, các quy chế luyện tập thủy quân, khảo sát vị trí bờ biển, hải cảng cũng được chú ý. Trên cơ sở đã có từ thời Gia Long, nay Minh Mệnh củng cố và hoàn thiện hơn bộ máy quản lý đất nước....

Trị vì 21 nǎm, Minh Mệnh lo toan công việc thường như một ngày, sức làm việc phải nói là đáng ngạc nhiên! Mọi phê bảo, dụ chi, chế cáo đều tự tay vua viết ra với số lượng không nhỏ. Không những thế, khi rỗi rãi, ông còn làm thơ viết vǎn. Vua còn để lại 5 tập thơ và 2 tập vǎn.

Tháng 12 nǎm Canh Tý (1840), vua ốm nặng rồi mất, thọ 50 tuổi. Miếu hiệu là Thánh tổ.



Thiệu Trị Hoàng đế (1841-1847)

Niên hiệu: Thiệu Trị

Trong số rất nhiều vợ của Minh Mệnh, có bà vợ cả họ Hồ, con gái lớn của công thần Hồ Vǎn Bôi, quê huyện Bình An, tỉnh Biên Hòa. Hồ Vǎn Bôi đã có công theo giúp vua Gia Long từ buổi đầu. Gia Long và bà Nhị phi đã chọn kỹ và cưới cô gái họ Hồ về làm vợ Hoàng tử Đởm. Là người trang kính, chín chắn, thận trọng, hiền hòa, trinh nhất... được Minh Mệnh hết lòng yêu kính, phong là Thuận đức Thần phi. Bà sinh Hoàng thái tử Dong được 13 ngày thì mất. Hoàng tử Dong được các cung nữ khác nuôi nấng. Nǎm Quí Mùi (1823), theo phép đặt tên của đế hệ. Hoàng tử Dong có tên mới là Miên Tông. Miên Tông là con trưởng trong số 78 hoàng tử của Minh Mệnh nên được nối ngôi. Tháng giêng nǎm Tân Sửu (1841) Miên Tông lên ngôi ở điện Thái Hòa, đặt niên hiệu là Thiệu Trị, vừa đúng 34 tuổi.

Theo ý nguyện thần dân địa phương, Thiệu Trị lại cho đắp đê, đập chắn ngang cửa sông Cửu An. Việc thứ hai là giải quyết vấn đề Chân Lạp. Vấn đề thứ ba là quan hệ với phương Tây. Khi Thiệu Trị lên cầm quyền thì việc cấm đạo có nguôi đi ít nhiều. Một số giáo sĩ bị bắt giam từ trước tại Huế, bị kết án tử hình nay được tự do nhờ sự can thiệp của hải quân Pháp. Nǎm Đinh Mùi (1847) Pháp sai một đại tá, một trung tá đem hai chiến thuyền vào Đà Nẵng xin bỏ chí dụ cấm đạo và cho tự do tín ngưỡng. Đang trên bàn thương lượng thì Pháp dùng đại bác bắn đắm tàu thuyền của Việt Nam neo đỗ bên cạnh rồi chạy ra bể. Trước sự kiện đó, Thiệu Trị vô cùng tức giận, ban thêm sắc dụ cấm người ngoại quốc giảng đạo và trị tội người trong nước đi đạo. 

Tháng 9 nǎm Đinh Mùi (1847), Thiệu Trị bị bệnh rồi mất, ở ngôi được 7 nǎm, thọ 41 tuổi, miếu hiệu là Hiến tổ chương hoàng đế, có 54 người con (29 hoàng tử và 25 hoàng nữ).

Tự Đức hoàng đế (1848-1883)

Niên hiệu: Tự Đức

Vua húy là Thì, tên đặt theo đế hệ là Hồng Nhậm, sinh ngày 25 tháng 8 nǎm Kỷ Sửu (1829), con thứ hai của Thiệu Trị. Tháng 10 nǎm Đinh Mùi (1847), Hồng Nhậm lên ngôi ở điện Thái Hòa, lấy niên hiệu là Tự Đức, lúc 19 tuổi.

Tự Đúc ốm yếu, phải luôn sống tại cung điện Huế, trừ mỗi nǎm hai lần nghỉ hè và nghỉ đông ở cửa biển Thuận An. Suốt đời vua chỉ đi xa một chuyến, đó là dịp phò giá vua cha ra Bắc nhận lễ thụ phong của nhà Thanh ở Thǎng Long nǎm 1842, khi đó mới 13 tuổi. Chính vì kém sức khỏe nên khi lên ngôi, sứ thần sang nhà Thanh phải biện luận khó khǎn để buộc sứ Thanh phải vào Phú Xuân làm lễ phong vương cho Tự Đức.

Tự Đức là người con rất có hiếu. Cũng mới lên nối ngôi, Tự Đức đã làm tang vua cha cực kỳ cẩn thận, trang trọng, tốn kém. Vua tự quy định ngày lẻ thì thiết triều, ngày chẵn vào chầu thǎm mẹ. Như vậy, mỗi tháng vua ngự triều 15 lần, thǎm mẹ 15 lần! Khi đến với mẹ thì sửa mình, nén hơi, quỳ xuống hỏi thǎm sức khoẻ, rồi cùng mẹ bàn luận kinh sách và sự tích xưa nay, nhất là chính sự....

Nhà vua siêng nǎng việc chính sự, sáng 5 giờ đã tỉnh giấc, 6 giờ đã ra triều. Vì thế, những buổi thiết triều, các quan cũng phải dậy sớm, thắp đèn ǎn cháo để vào triều cho kịp. Vua thường ngự triều tại điện Vǎn Minh, bên tả điện Cần Chánh. 

Tự Đức trị vì đất nước trong bối cảnh gặp nhiều thử thách sống còn. Nhà vua thiếu tính quyết đoán, phải dựa vào triều thần bàn việc.

Tự Đức lấy vợ từ nǎm 14-15 tuổi và sau đó còn lấy thêm 103 vợ nữa, nhưng đến nǎm 35 tuổi vẫn chưa có con, mặc dù đã chạy chữa bằng mọi cách, cầu tự khắp đền chùa có tiếng trong nước, thậm chí nhà vua còn hạ cố lấy một phụ nữ đã qua một đời chồng, có con mà vẫn "vô hậu". Nhà vua phải nuôi lấy 3 người con các anh mình làm con nuôi: Ưng Chân, ưng Kỷ và Ưng Đường. Di chúc nhà vua viết: "Trẫm nuôi sẵn ba con, Ưng Chân cố nhiên là học lâu trưởng thành, chính danh đã lâu, nhưng mặt hơi có tật, giấu kín không rõ ràng, sợ sau không sáng, tính lại hiếu dâm, cũng rất không tốt, chưa chắc đương nổi việc lớn. Nhưng nước cần có vua nhiều tuổi, đương lúc khó khǎn này không dùng hắn thì dùng ai? Sau khi Trẫm muôn tuổi, nên cho Quốc công Ưng Chân nối nghiệp..." Về sau, Trần Tiến Thành; Nguyễn Vǎn Tường, Tôn Thất Thuyết là các phụ chính đại thần mưu bỏ vua này lập vua khác gây ra thảm kịch trong triều Nguyễn sau khi Tự Đức mất.



  1. THỜI KỲ BẮT ĐẦU THUỘC PHÁP

Dục Đức
Hiệp Hoà (6/1883-11/1883)
Kiến Phúc (12/1883-8/1884)
Hàm Nghi (8/1884-8/1885)
Đồng Khánh (10/1885-12/1888)
Thành Thái (1/1889-7/1907) 
Duy Tân (1907-1916) 
Khải Định (1916-1925)
Bảo Đại (1926-1945)

Dục Đức (Làm vua ba ngày)

Trước ngày đǎng quang, Dục Đức bàn với ba đại thần phụ chánh là Nguyễn Vǎn Tường, Tôn Thất Thuyết và Trần Tiến Thành sẽ không đọc một đoạn nhận xét về mình trong di chiếu tại lễ lên ngôi. Cả ba vị phụ chính đều đồng ý. Ngày hôm sau, khi Trần Tiến Thành đọc đến đoạn ấy, hạ giọng xuống hầu như không ai nghe rõ, thì Nguyễn Vǎn Tường, Tôn Thất Thuyết nổi giận bảo Nguyễn Trọng Hợp đọc lại rồi chia quân túc vệ canh gác trong ngoài thành thật nghiêm ngặt và bắt gọn 10 người thân tín của vua nối ngôi trong đó có Nguyễn Như Khuê.


Hai hôm sau, tại buổi thiết triều có đông đủ hoàng thân và đình thần, Nguyễn Vǎn Tường đứng lên tuyên cáo phế truất Dục Đức vì bốn tội:
-Cắt bớt một đoạn trong di chiếu của vua cha. 
-Tự tiện đưa một giáo sĩ vào hoàng thành.
-Mặc áo màu xanh trong khi để tang vua cha. 
-Thông dâm với nhiều cung nữ của vua cha.

Dục Đức bị tống giam tại một phòng kín vừa được cấp tốc xây lên ngay trong biệt điện mình. Dục Đức bị đối xử như một tù nhân thường. Nhờ người lính gác thương tình chủ cũ, hàng ngày đút cho một nắm cơm và một chiếc áo cũ thấm nước, vắt ra uống, Dục Đức sống thoi thóp được gần một tháng thì chết, xác vùi trên một quả đồi, không quan tài và không ai được đi đưa tang.

Hơn 20 nǎm sau, con trai thứ 7 tức Thành Thái lên làm vua, Dục Đức mới dược khôi phục lại đế hiệu và tôn là "Cung tôn huệ hoàng đế".

Hiệp Hoà (6/1883-11/1883)

Niên hiệu: Hiệp Hòa

Tên thật là Hồng Dật, con thứ 29 và là con út của Thiệu Trị, sinh tháng 9 nǎm Thiệu Trị thứ 7 tức nǎm Bính Ngọ (1846). Nǎm ất Sửu (1865) Hồng Dật 18 tuổi được phong Vǎn Lãng công. Nǎm Tự Dức 31 tức nǎm Kỷ Mão (1879) được tấn phong Lãng Quốc công.

Tháng 6 nǎm Quý Mùi (1883) phế xong Dục Đức, theo ý của Tôn Thất Thuyết và Nguyễn Vǎn Tường, được ý chỉ của Từ Dụ Hoàng thái hậu, triều đình cử một phái đoàn ra Kim Long rước Lãng Quốc công vào Đại Nội để chuẩn bị làm lễ đǎng quang. Lãng Quốc công khóc mà nói rằng: "Tôi là con út của tiên đế, tư chất tầm thường, không dám nhận ngôi vua". Phái đoàn vừa phải nǎn nỉi vừa dùng vũ lực mới đưa được Hồng Dật vào Cấm thành. Thế là hai hôm sau Lãng Quốc công trở thành vua Hiệp Hòa!

Hiệp Hòa lên ngối ngôi, Nguyễn Vǎn Tường và Tôn Thất Thuyết cậy công tôn lập nên thâu tóm mọi quyền hành, không thèm đếm xỉa gì đến vua. Hiệp Hòa ghét lắm, muốn tước bớt quyền lực của họ. Vua đã kiên quyết điều Tôn Thất Thuyết từ bộ Binh sang bộ Lại. Làm vua được bốn tháng thì Hiệp Hòa nhận được mật sớ của hai người thân tín là Hồng Phi (Tham tri bộ Lại, con trai Tùng Thiện vương) xin giết hai quyền thần Nguyễn Vǎn Tường và Tôn Thất Thuyết.

Hiệp Hòa phê vào sớ: "Giao cho Trần Khanh (Trần Tiến Thành) phụng duyệt", bỏ sớ vào tráp giao thái giám Trần Đại đem đến nhà Trần Tiến Thành ở chợ Dinh Ông. Việc bại lộ, Tôn Thất Thuyết cùng với Nguyễn Vǎn Tường bàn cách phế truất Hiệp Hòa. Họ cho mời các đại thần đến họp, kể tội Hiệp Hòa và Trần Tiến Thành, Hồng Phi và Hồng Sâm có âm mưu dựa vào quân Pháp giết hại hai đại thần phụ chính, với chứng cứ hẳn hoi (tờ mật sớ): Sau ép các quan ký vào tờ sớ đòi phế truất Hiệp Hòa xong, Nguyễn Vǎn Tường, Tôn Thất Thuyết vào cung Diên Thọ xin ý chỉ của Hoàng thái hậu đồng thời cho người dẫn 50 lính vào điện Càn Thành bắt Hiệp Hòa phải tự xử mình theo lệ "Tam ban triều điền" dành cho các đế vương, khanh tướng phạm tội tử hình.

Đang đêm khuya nhà vua mới biết có sự biến, hỏi đến trực hầu, thì chỉ có một vài thái giám. Vua sai thái giám Trần Đạt đem chiếu nhường ngôi tới và xin được trở về phủ cũ. Tôn Thất Thuyết và Nguyễn Vǎn Tường giả vờ nhận lời, cho người đem võng đưa vua và cung phi về phủ cũ ở xã Phú Xuân xong lại bí mật dặn riêng Ông I'ch Khiêm và Trương Vǎn Đễ đón ở cửa Hiều Nhân chặn đường, đưa vua đến nhà Hộ Thành, ép uống thuốc độc tự vẫn.

Riêng Trần Tiến Thành, cáo ốm nằm ở nhà cũng bị lính đến giết chết ngay đêm ấy. Đó là một ngày mùa Đông (29/11/1883). Hiệp Hòa làm vua được 4 tháng, chết 36 tuổi, giao cho phủ Tôn nhân chôn cất theo nghi thức Quốc công.



Каталог: 2007
2007 -> Mẫu 01/hc-sn-dn (Ban hành kèm theo Thông tư số 83/2007/tt-btc ngày 16/7/2007 của Bộ Tài chính) TỜ khai hiện trạng sử DỤng nhà, ĐẤt thuộc sở HỮu nhà NƯỚc và ĐỀ xuất phưƠng án xử LÝ
2007 -> BỘ NÔng nghiệP & phát triển nông thôn cục trồng trọt giới Thiệu
2007 -> 10tcn tiêu chuẩn ngành 10tcn 1011 : 2006 giống cà RỐt-quy phạm khảo nghiệm tính khác biệT, TÍnh đỒng nhấT
2007 -> TIÊu chuẩn ngành 10tcn 683 : 2006 giống dưa chuột-quy phạm khảo nghiệM
2007 -> PHÁt triển nông thôN
2007 -> ĐOÀn tncs hồ chí minh
2007 -> List of the countries of the world sorted by total area
2007 -> Số: 962/QĐ-ubnd vĩnh Long, ngày 16 tháng 5 năm 2007
2007 -> Hồ sơ ngành hàng rau quả
2007 -> BẢn cáo bạch domesco vcbs

tải về 0.71 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4   5   6   7   8   9   10




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương