(解) 命濁者,因果並劣,壽命短促,乃至不滿百歲,故名為濁。命濁中,非不費時劫,不勞勤苦之行,必不能度。
(Giải: Mạng Trược là nhân và quả đều kém cỏi, tuổi thọ ngắn ngủi, thậm chí chẳng đầy trăm tuổi, nên gọi là Trược. Trong thuở Mạng Trược, mà chẳng dùng hạnh “chẳng tốn kiếp số, chẳng cần phải nhọc nhằn tu tập”, ắt chẳng thể độ được).
Mọi người thường nói tới khỏe mạnh, sống lâu, đấy là chuyện chúng sanh mong cầu nhiều nhất. Nếu luận theo nhân thì điều thứ nhất là phải có tâm thanh tịnh và tâm đại từ bi. Nếu cái nhân không tốt, tâm chẳng thanh tịnh, chẳng từ bi, thân ắt sẽ đoản mạng, lắm bệnh. Phật nói người có đủ sáu căn, tức sáu căn không thiếu sót, chẳng sứt sẹo, rất khó có. Bất cứ quả báo nào cũng đều có nguyên nhân. Nói theo mặt cương lãnh thì bố thí là nhân, phước báo là quả. Tài Bố Thí được giàu có, Pháp Bố Thí được thông minh, trí huệ, Vô Úy Bố Thí được mạnh khỏe, sống lâu. Chẳng tu nhân mà mong có quả báo tốt thì chính là huyễn tưởng. Con người hiện thời thiếu khuyết tâm từ bi và tâm thanh tịnh; do vậy, Mạng Trược. Trong thời kỳ này, nhất định phải chọn một phương pháp tu hành chẳng tốn bao nhiêu thời gian, chẳng phải nhọc nhằn tu tập thì mới hòng đắc độ.
(Giải) Phục thứ, chỉ thử tín nguyện, trang nghiêm nhất thanh A Di Đà Phật, chuyển Kiếp Trược vi thanh tịnh hải hội, chuyển Kiến Trược vi vô lượng quang, chuyển Phiền Não Trược vi Thường Tịch Quang, chuyển Chúng Sanh Trược vi liên hoa hóa sanh, chuyển Mạng Trược vi vô lượng thọ. Cố, nhất thanh A Di Đà Phật tức Thích Ca Bổn Sư ư ngũ trược ác thế, sở đắc chi A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề pháp. Kim dĩ thử quả giác toàn thể, thọ dữ trược ác chúng sanh, nãi chư Phật sở hành cảnh giới, duy Phật dữ Phật năng cứu tận, phi cửu giới tự lực sở năng tín giải dã. “Chư chúng sanh”, biệt chỉ ngũ trược ác nhân. “Nhất thiết thế gian”, thông chỉ tứ độ khí thế gian, cửu giới hữu tình thế gian dã.
(解) 復次。祇此信願。莊嚴一聲阿彌陀佛。轉劫濁。為清淨海會。轉見濁。為無量光。轉煩惱濁。為常寂光。轉眾生濁。為蓮華化生。轉命濁。為無量壽。故一聲阿彌陀佛。即釋迦本師。於五濁惡世。所得之阿耨多羅三藐三菩提法。今以此果覺全體。授與濁惡眾生。乃諸佛所行境界。唯佛與佛能究盡。非九界自力。所能信解也。諸眾生。別指五濁惡人。一切世間。通指四土器世間。九界有情世間也。
(Giải: Lại nữa, chỉ dùng tín nguyện này để trang nghiêm, niệm một tiếng A Di Đà Phật, sẽ chuyển Kiếp Trược thành hải hội thanh tịnh, chuyển Kiến Trược thành vô lượng quang, chuyển Phiền Não Trược thành Thường Tịch Quang, chuyển Chúng Sanh Trược thành hóa sanh trong hoa sen, chuyển Mạng Trược thành vô lượng thọ. Vì thế, một câu A Di Đà Phật chính là pháp mà đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật đã dùng để đắc Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác trong đời ác ngũ trược. Nay Ngài đem toàn thể sự giác ngộ nơi Phật quả truyền cho chúng sanh trong đời trược ác. Đấy chính là cảnh giới thực hành của chư Phật, chỉ có Phật với Phật mới hòng thấu suốt cùng tận, chứ chúng sanh trong chín pháp giới cậy vào tự lực sẽ chẳng thể tin hiểu được. Chữ “chư chúng sanh” chỉ riêng những kẻ ác trong đời ngũ trược. Chữ “nhất thiết thế gian” chỉ chung thế giới vật chất trong bốn cõi và hữu tình chúng sanh trong chín pháp giới).
Có lòng tin chân thật, nguyện thiết tha thì một tiếng A Di Đà Phật sẽ chuyển Kiếp Trược thành hải hội thanh tịnh, chuyển biến ngay lập tức. Chuyển Kiến Trược thành vô lượng quang, chuyển biến kiến giải sai lầm thành sự quán sát trí huệ. Chuyển Phiền Não Trược thành Thường Tịch Quang, chuyển hết thảy phiền não thành Đại Định. Chuyển Chúng Sanh Trược thành hóa sanh trong hoa sen, chuyển Mạng Trược thành vô lượng thọ. Cách chuyển như thế nào? Chỉ dựa vào tín nguyện trì danh, dễ dàng xiết bao! Khó ở chỗ người ta chẳng chịu tin tưởng. Hết thảy chư Phật đều cảm thán pháp này là pháp khó tin, ai có thể tin tưởng thì chính là người thật sự có phước. Phàm phu hoàn toàn chẳng thể thấu hiểu nghĩa lý của pháp này, đấy là đại phước báo viên mãn rốt ráo chẳng thể nghĩ bàn. Đại sư lại dạy rõ: Thích Ca Mâu Ni Phật do niệm A Di Đà Phật mà thành Phật, vì đức Phật Thích Ca đắc A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề trong đời ác ngũ trược. A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề là Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, mà cũng là “thành Phật”. Nếu Phật chẳng giảng kinh Di Đà, chẳng dạy chúng ta pháp môn Niệm Phật, dù Phật có nói ngàn kinh muôn luận thì cũng là phạm lỗi thiếu sót đối với chúng ta. Chúng ta là phàm phu nghiệp chướng sâu nặng, nếu chẳng giảng pháp môn thành Phật viên mãn ngay trong một đời này thì làm sao gọi là đối xử đúng lẽ với con người cho được? Do vậy, hết thảy chư Phật nhất định chẳng phụ bạc chúng sanh. Tận hư không, khắp pháp giới tuyên dương phổ biến pháp môn này, bất luận tu học bất cứ pháp môn nào, Thiền Tông, Giáo Hạ, Mật Tông, Giới Luật, sau khi tu thành tựu, đến cuối cùng đều về thế giới Hoa Tạng, Hoa Tạng là chỗ quy túc chung. Đến được thế giới Hoa Tạng rồi sẽ gặp Văn Thù, Phổ Hiền. Văn Thù, Phổ Hiền dạy mọi người niệm Phật cầu sanh về thế giới Cực Lạc hòng viên thành Phật đạo. Khi tôi giảng Quán Kinh, giảng đến phần ba thứ phước, thấy “tin sâu nhân quả” được xếp vào điều thứ ba; nếu xếp vào điều thứ nhất, tôi cũng chẳng hoài nghi một tí nào, [nay tin sâu nhân quả] lại xếp vào điều thứ ba, mà điều thứ ba là pháp tu của Bồ Tát. Tôi giảng kinh cũng là giảng theo kiểu nuốt trộng quả táo, nhưng vẫn hoài nghi, tự hỏi Bồ Tát mà vẫn chẳng tin nhân quả hay sao? Nhiều năm sau mới biết “niệm Phật là nhân, thành Phật là quả”. Đấy là cảnh giới của Phật, rất nhiều vị Bồ Tát chẳng biết. Chúng sanh trong chín pháp giới nếu không được bổn nguyện và oai thần của Phật gia trì, sẽ đều chẳng tin tưởng. Chúng sanh thiện căn chưa chín muồi, Phật cũng chẳng gia trì được! Do vậy, đại sư nói: “Chúng sanh trong chín pháp giới cậy vào tự lực sẽ chẳng thể tin hiểu được”. Chữ “chư chúng sanh” riêng chỉ những kẻ tạo ác trong đời ác ngũ trược. Theo Thiện Đạo đại sư, chữ “chư chúng sanh” trong Quán Kinh chỉ ba bậc vãng sanh thuộc hạng Hạ. Ba phẩm thuộc bậc Thượng là đại tâm phàm phu, ba phẩm thuộc bậc Trung là phàm phu tu thiện trong thế gian, ba phẩm thuộc bậc Hạ là phàm phu tạo ác. Chữ “nhất thiết thế gian” chỉ chung các hữu tình thế gian trong chín pháp giới.
(Giải) Tiền khuyến tín lưu thông, thị chư Phật phó chúc. Thử Bổn Sư phó chúc, chúc ngữ lược biệt tùng thông, đản vân “nhất thiết thế gian” do tiền chư Phật sở vân “nhữ đẳng chúng sanh”, đương tri Văn Thù, Ca Diếp đẳng, giai tại sở chúc dã.
(解) 前勸信流通。是諸佛付囑。此本師付囑。囑語略別從通。但云一切世間。猶前諸佛所云。汝等眾生。當知文殊迦葉等。皆在所囑也。
(Giải: Đoạn Khuyến Tín Lưu Thông trong phần trước là lời dặn bảo của chư Phật. Trong đoạn này là đức Bổn Sư dặn bảo. Trong lời dặn bảo riêng này, chỉ nói đại lược, nhưng ý nghĩa vẫn giống như trong phần dặn bảo chung [của mười phương chư Phật]. Trong phần trước, chư Phật đã nói “chúng sanh các ngươi”, cho nên biết Văn Thù, Ca Diếp v.v... đều thuộc trong số những người được đức Phật căn dặn).
Trong phần Lưu Thông, ba tiểu đoạn Tín, Nguyện, Hạnh đến đây là hết. Tiếp theo đây là lời đức Giáo Chủ khen ngợi để kết thúc. Phần sáu phương Phật [tán thán] trong phần trước chính là vô lượng vô biên chư Phật Như Lai dặn dò chúng ta, còn khuyên phát nguyện, khuyên hành trì là lời Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni dặn bảo. Lời dặn dò nằm trong phần kinh văn này, kinh văn khá giản lược, chỉ gồm hai từ ngữ “nhữ đẳng chúng sanh” và “nhất thiết thế gian”, nhưng bao gồm thánh phàm trong chín pháp giới. Văn Thù là thượng thủ của hàng Bồ Tát, Ca Diếp là thượng thủ trong hàng A La Hán, đều là đối tượng để Phật căn dặn.
(Kinh) Xá Lợi Phất! Đương tri ngã ư ngũ trược ác thế, hành thử nan sự, đắc A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề, vị nhất thiết thế gian, thuyết thử nan tín chi pháp, thị vi thậm nan.
(經) 舍利弗。當知我於五濁惡世。行此難事。得阿耨多羅三藐三菩提。為一切世間。說此難信之法。是為甚難。
(Chánh kinh: Này Xá Lợi Phất! Hãy nên biết: Ta ở trong đời ác ngũ trược, làm chuyện khó khăn này, đắc Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, vì hết thảy thế gian, nói pháp khó tin này, thật là rất khó).
Trong đoạn trước, đại sư đã nói: “Vì thế, niệm một tiếng A Di Đà Phật, chính là pháp để Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật đắc Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác trong đời ác ngũ trược” chính là dựa trên đoạn kinh văn ngắn ngủi này. Chúng ta niệm hằng ngày nhưng hoàn toàn chẳng nhận biết. Có người niệm kinh A Di Đà, niệm nhuyễn nhừ, nhưng nếu có ai hỏi: “Thích Ca Mâu Ni Phật do tu pháp môn gì mà thành Phật?” liền lúng túng không biết đáp ra sao. Nếu đại sư không nhắc nhở, chúng ta vẫn cứ lơ mơ chẳng hiểu biết y như cũ. Đủ thấy đại sư có ân đức rất lớn đối với chúng ta.
(Giải) Tín nguyện trì danh nhất hạnh, bất thiệp thi vi, viên chuyển ngũ trược, duy tín nãi nhập, phi tư nghị sở hành cảnh giới. Thiết phi Bổn Sư, lai nhập ác thế, thị đắc Bồ Đề, dĩ đại trí, đại bi, kiến thử, hành thử, thuyết thử, chúng sanh hà do bẩm thử dã tai! Nhiên ngô nhân xử Kiếp Trược trung, quyết định vị thời sở hữu, vị khổ sở bức, xử Kiến Trược trung, quyết định vị tà trí sở triền, tà sư sở hoặc. Xử Phiền Não Trược trung, quyết định vị tham dục sở hãm, ác nghiệp sở thích. Xử Chúng Sanh Trược Trung, quyết định an ư xú uế, nhi bất năng đỗng giác, cam ư liệt nhược, nhi bất năng phấn phi. Xử Mạng Trược trung, quyết định vị vô thường sở thốn, thạch hỏa, điện quang, thố thủ bất cập. Nhược bất thâm tri kỳ thậm nan, tương vị cánh hữu biệt pháp khả xuất ngũ trược, bồng bột trạch lý, hý luận phân nhiên. Duy thâm tri kỳ thậm nan, phương khẳng tử tận thâu tâm, bảo thử nhất hạnh. Thử Bổn Sư sở dĩ cực khẩu, thuyết kỳ nan thậm, nhi thâm chúc ngã đẳng đương tri dã. Sơ phổ khuyến cánh.
(解) 信願持名一行。不涉施為。圓轉五濁。唯信乃入。非思議所行境界。設非本師。來入惡世。示得菩提。以大智大悲。見此。行此。說此。眾生何由稟此也哉。然吾人處劫濁中。決定為時所囿。為苦所偪。處見濁中。決定為邪智所纏。邪師所惑。處煩惱濁中。決定為貪欲所陷。惡業所螫。處眾生濁中。決定安於臭穢。而不能洞覺。甘於劣弱。而不能奮飛。處命濁中。決定為無常所吞。石火電光。措手不及。若不深知其甚難。將謂更有別法可出五濁。熢勃宅裡。戲論紛然。唯深知其甚難。方肯死盡偷心。寶此一行。此本師所以極口。說其難甚。而深囑我等當知也。初普勸竟。
(Giải: Một hạnh tín nguyện trì danh, chẳng xen lẫn những hạnh nghiệp nào khác, chuyển biến trọn vẹn ngũ trược, chỉ có tin mới hòng chứng nhập, là cảnh giới chẳng thể do nghĩ bàn mà hòng thấu hiểu được. Nếu đức Bổn Sư chẳng vào trong đời ác, thị hiện chứng đắc Bồ Đề, do đại trí, đại bi, thấy điều này, hành pháp này, giảng pháp này, chúng sanh sẽ do đâu mà nhận lãnh được pháp này vậy thay? Nhưng chúng ta sống trong Kiếp Trược, quyết định bị thời đại vây bủa, bị khổ não bức bách. Sống trong Kiến Trược, chắc chắn bị tà trí trói buộc, bị tà sư mê hoặc. Sống trong Phiền Não Trược, chắc chắn bị tham dục vây hãm, bị ác nghiệp cắn rứt. Sống trong Chúng Sanh Trược, chắc chắn ở yên trong cảnh hôi nhơ mà chẳng thấu hiểu, cam lòng kém hèn, chẳng thể phấn chấn mạnh mẽ tiến lên. Ở trong Mạng Trược, chắc chắn bị vô thường nuốt mất, [mạng người ngắn ngủi] như tia lửa xẹt do đập vào đá, như ánh chớp, trở tay chẳng kịp. Nếu chẳng biết sâu xa [thoát ly Ngũ Trược] là cực khó, ắt sẽ ngỡ còn có một pháp nào khác để thoát khỏi Ngũ Trược, cứ hý luận rối bời trong ngôi nhà lửa cháy bừng bừng. Chỉ có hiểu sâu xa [thoát ly Ngũ Trược] là rất khó thì mới chịu chết sạch tấm lòng mong ngóng so đo, quý báu một hạnh này. Đây chính là lý do vì sao đức Bổn Sư cạn hết lời, bảo pháp này rất khó, lại còn tha thiết dặn dò chúng ta phải nên thấu hiểu. [Đoạn lớn] thứ nhất [trong phần Lưu Thông] là Phổ Khuyến hết).
“Tín nguyện trì danh nhất hạnh, bất thiệp thi vi”: “Thiệp” (涉) là thiệp cập (涉及: dính dáng), “thi vi” (施為) là chẳng dùng tới phương tiện, chẳng dùng những pháp môn nào khác để phụ trợ; chẳng dùng Thiền mà cũng chẳng dùng chú. Dùng ngay một câu Phật hiệu này bèn có thể chuyển biến trọn vẹn ngũ trược. Trong thời rất gần đây, ở Đài Loan bị hạn hán thiếu nước, Quán Trưởng phát khởi lòng từ bi, tính thông báo đạo tràng tại Đài Bắc hãy cầu mưa, hỏi tôi cách thức cầu mưa. Trong Thiền Môn Nhật Tụng có Cầu Vũ Nghi Quy (nghi thức cầu mưa). Trong quá khứ, Liên Trì đại sư trụ tích158 tại Hàng Châu, có một năm trời hạn hán. Quan Thái Thú Hàng Châu biết đại sư là bậc cao tăng hữu đức, thỉnh Ngài lập đàn cầu mưa. Đại sư nói: “Tôi chỉ biết niệm Phật, chẳng biết cầu mưa, nhưng là chuyện cầu phước cho dân chúng thì cũng nên tùy hỷ”. Ngài liền dẫn đồ đệ niệm Phật suốt trên đường đi. Đại sư đi tới đâu, trời đổ mưa tới đó, cũng là kỳ tích. Trong truyện ký của Liên Trì đại sư có chép chuyện này. Bất luận cầu điều gì, chỉ một câu Phật hiệu thật sự đủ dùng rồi.
Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật xuất hiện trong thế gian, do đại trí, đại bi, thấy pháp trì danh niệm Phật này sẽ thành Phật, bèn đích thân thực hành, và nói cho chúng ta biết, chúng ta mới biết ân đức lớn lao của Phật. Sống trong cõi đời nhơ bẩn này, giống như tù nhân bị nhốt chặt trong ngục khó trốn, lại không may gặp phải thời pháp yếu, ma mạnh. Đạo tràng chánh pháp phần nhiều đìu hiu; ngược lại, đạo tràng của tà sư đông đúc. Chúng ta tự thẹn đạo đức, định lực chẳng đủ, trước hết, hãy nên thành tựu chính mình, đừng bị mê hoặc, trói buộc bởi tà trí, tà sư. Hãy nên biết rằng: Trong đời này, không ai chẳng tham, tham là hầm bẫy. Tham tiếng tăm, lợi dưỡng thế gian, ngũ dục, lục trần chính là hầm bẫy tam ác đạo. Tham pháp xuất thế gian thì vẫn là cạm bẫy tam ác đạo. Đức Phật bảo chúng ta trừ khử tâm tham, chứ không bảo chúng ta thay đổi đối tượng tham lam. Nếu có pháp môn nào chưa học, đợi đến Tây Phương hãy học cũng chẳng muộn. Trong giai đoạn hiện thời, nhất tâm nhất ý cầu sanh Tịnh Độ. Trong xã hội hiện thời, đại đa số con người tâm chẳng thanh tịnh, tranh danh, đoạt lợi, đều là tạo ác, điều sai chồng chất mãi sẽ trở thành đúng. Nếu chẳng tùy thuận thế tục, đâm ra sẽ bị coi như kẻ quái dị. Vì thế, chúng ta phải độc lập, độc hành thì mới có thể thoát khỏi [người đời dị nghị].
“Bồng bột trạch lý, hý luận phân nhiên” (trong căn nhà cháy bừng bừng, tơi bời hý luận): Trong căn nhà khói lửa mù mịt như thế, người tỉnh táo sẽ gấp rút chạy thoát thân, kẻ mê hoặc vẫn ở trong nhà thảo luận, nghiên cứu. Chỉ có thấu hiểu [tam giới] rất khó thoát lìa, mới chịu chết sạch những ý nghĩ chụp giựt, cầu may, coi một câu A Di Đà như thần chú cứu mạng hết sức quý báu.
4.3.2. Kết khuyến
(Kinh) Phật thuyết thử kinh dĩ, Xá Lợi Phất, cập chư tỳ-kheo, nhất thiết thế gian, thiên, nhân, A Tu La đẳng, văn Phật sở thuyết, hoan hỷ tín thọ, tác lễ nhi khứ.
(Giải) Pháp môn bất khả tư nghị, nan tín, nan tri, vô nhất nhân
năng phát vấn giả. Phật trí giám cơ, tri chúng sanh thành Phật duyên thục, vô vấn tự thuyết, linh đắc tứ ích, như thời vũ hóa. Cố “hoan hỷ tín thọ” dã. Thân tâm di duyệt, danh “hoan hỷ”. Hào vô nghi nhị, danh “tín”. Lãnh nạp bất vong, danh “thọ”. Cảm đại ân đức, đầu thân quy mạng, danh “tác lễ”. Y giáo tu trì, nhất vãng bất thoái, danh “nhi khứ”.
(經) 佛說此經已。舍利弗。及諸比丘。一切世間。天人阿修羅等。聞佛所說。歡喜信受。作禮而去。
(解) 法門不可思議。難信難知。無一人能發問者。佛智鑒機。知眾生成佛緣熟。無問自說。令得四益。如時雨化。故歡喜信受也。身心怡悅。名歡喜。毫無疑貳。名信。領納不忘。名受。感大恩德。投身歸命。名作禮。依教修持。一往不退。名而去。
(Chánh kinh: Đức Phật nói kinh này xong, ngài Xá Lợi Phất và các vị tỳ-kheo, hết thảy thế gian, trời, người, A Tu La v.v... nghe lời Phật dạy, hoan hỷ tin nhận, làm lễ, lui ra.
Giải: Pháp môn chẳng thể nghĩ bàn, khó tin, khó biết, không một ai có thể nêu câu hỏi. Đức Phật dùng trí huệ xét soi căn cơ, biết duyên thành Phật của chúng sanh đã chín, bèn không ai hỏi tự nói, khiến cho mọi người được bốn thứ lợi ích, giống như trận mưa đúng thời khiến cho muôn loài tăng trưởng. Vì thế, [đại chúng] “hoan hỷ tín thọ” (hoan hỷ tin nhận). Thân tâm vui sướng gọi là “hoan hỷ”. Chẳng nghi ngờ mảy may, gọi là “tín”. Lãnh nhận chẳng quên mất, gọi là “thọ” (nhận). Cảm kích ân đức lớn lao, gieo toàn thân quy mạng, gọi là “tác lễ”. Vâng theo lời dạy tu trì, thẳng tiến chẳng lui sụt, gọi là “nhi khứ”).
Tuy đức Thế Tôn gọi ngài Xá Lợi Phất, mà ngài Xá Lợi Phất từ đầu đến giờ chẳng thưa một câu. Đối với chuyện này, Ngài chẳng biết một điều nào, cho thấy pháp môn này chẳng thể nghĩ bàn, khó tin, khó biết. Đây là cảnh giới viên mãn nơi quả địa Như Lai, Phật dùng trí huệ viên mãn xét soi chúng sanh, thấy cơ duyên của họ đã chín muồi, không ai hỏi tự nói, nói ra bộ kinh A Di Đà này. Chúng ta nghe xong, nếu hoan hỷ tin nhận, liền được bổn nguyện và oai thần của chư Phật Như Lai gia trì, giống như mưa ngọt đúng lúc, thân tâm vui sướng, đối với lời Phật nói chẳng hoài nghi mảy may, hoàn toàn tiếp nhận lời Phật giáo huấn, cảm tạ ân đức khôn sánh của đức Thế Tôn, nương theo lời dạy tu trì. Pháp hội đã giải tán nhưng tu hành mới bắt đầu. Chính mình phải vui mừng, chớ phụ bạc thiện căn từ vô lượng kiếp của chính mình, đừng phụ bạc chư Phật gia trì, đừng phụ bạc Thích Ca Mâu Ni Phật buốt lòng rát miệng vì chúng ta nói ra pháp môn này, mà cũng đừng phụ rẫy Ngẫu Ích đại sư đã giải thích cặn kẽ trong cuốn Di Đà Yếu Giải này, khiến cho chúng ta có thể trên báo bốn ân, dưới cứu tam khổ. Hôm nay đã giảng đến ngày thứ bốn mươi tám, viên mãn vừa khéo. Cảm ơn quý vị.
Phụ lục - Ngẫu Ích đại sư bạt
Kinh vân: “Mạt pháp ức ức nhân tu hành, hãn nhất đắc đạo. Duy y niệm Phật đắc độ”. Ô hô! Kim chánh thị kỳ thời hỹ! Xả thử bất tư nghị pháp môn, kỳ hà năng thục? Húc xuất gia thời, tông thừa tự phụ, miểu thị giáo điển, vọng vị trì danh, khúc vi trung hạ. Hậu nhân đại bệnh, phát ý Tây quy. Phục nghiên Diệu Tông, Viên Trung nhị sao, cập Vân Thê Sớ Sao đẳng thư, tri kỳ Niệm Phật tam-muội, thật vô thượng bảo vương, phương khẳng tử tâm, chấp trì danh hiệu, vạn ngưu mạc vãn dã. Ngô hữu Khứ Bệnh, cửu sự Tịnh nghiệp, dục linh thử kinh đại chỉ, từ bất phiền, nhi bỉnh trước, thỉnh dư vị thuật Yếu Giải. Dư dục phổ dữ pháp giới hữu tình đồng sanh Cực Lạc, lý bất khả khước, cử bút vu Đinh Hợi cửu nguyệt nhị thập hữu thất, thoát cảo ư thập nguyệt sơ ngũ, phàm cửu nhật cáo thành. Sở nguyện nhất cú, nhất tự, hàm tác tư lương, nhất kiến, nhất văn, đồng giai Bất Thoái. Tín nghi giai thực đạo chủng, tán báng đẳng quy giải thoát. Ngưỡng duy chư Phật, Bồ Tát, nhiếp thọ chứng minh, đồng học hữu nhân tùy hỷ gia bị.
Tây Hữu đạo nhân Ngẫu Ích Trí Húc các bút cố bạt, thời niên tứ thập hữu cửu.
蕅益大師跋
經云:末法億億人修行,罕一得道,唯依念佛得度。嗚呼!今正是其時矣。捨此不思議法門,其何能淑。旭出家時,宗乘自負,藐視教典。妄謂持名,曲為中下。後因大病,發意西歸。復研《妙宗》《圓中》二鈔,及雲棲《疏鈔》等書,始知念佛三昧,實無上寶王,方肯死心執持名號,萬牛莫挽也。吾友去病,久事淨業,欲令此經大旨,辭不繁而炳著,請余為述要解。余欲普與法界有情同生極樂,理不可卻。舉筆于丁亥九月二十有七,脫稿於十月初五,凡九日告成。所願一句一字,咸作資糧。一見一聞,同階不退。信疑皆植道種,讚謗等歸解脫。仰唯諸佛菩薩攝受證明,同學友人隨喜加被。西有道人蕅益智旭閣筆故跋,時年四十有九。
Lời bạt của Ngẫu Ích đại sư
Kinh dạy: “Trong đời Mạt Pháp, ức ức người tu hành, hiếm có một ai đắc đạo, chỉ có nương vào pháp Niệm Phật thì mới đắc độ”. Than ôi! Nay đúng nhằm thời ấy vậy. Bỏ pháp môn chẳng thể nghĩ bàn này, thì còn cậy vào đâu để giải thoát cho được? Húc tôi lúc xuất gia, tự phụ là người thuộc Thiền Tông, coi thường những kinh điển thuộc Giáo môn, nói xằng “phép trì danh là pháp quyền biến nhằm phù hợp căn tánh của những kẻ trung căn và hạ căn”. Về sau, do bệnh ngặt nghèo, mới phát tâm quy Tây. Lại nghiên cứu hai bộ Viên Trung Sao và Diệu Tông Sao, và sách Sớ Sao của ngài Vân Thê, mới biết Niệm Phật tam-muội quả thật là vua báu vô thượng, mới chịu chết sạch tấm lòng mong ngóng, so đo, chấp trì danh hiệu, một vạn con trâu cũng không lôi lại được. Bạn tôi là ông Khứ Bệnh, tu Tịnh nghiệp đã lâu, muốn cho tông chỉ của kinh này nêu tỏ rạng ngời mà lời lẽ giảng giải đơn giản, xin tôi viết lời giải thích những điểm trọng yếu. Tôi muốn làm cho hữu tình trong khắp pháp giới đều cùng sanh về Cực Lạc, xét theo lý chẳng thể chối từ được, bèn cầm bút viết từ ngày Hai Mươi Bảy tháng Chín năm Đinh Hợi (1647), đến ngày mồng Năm tháng Mười là hoàn thành, tổng cộng viết xong trong chín ngày. Kính mong mỗi một câu, mỗi một chữ đều là tư lương [cho người tu Tịnh nghiệp]. Ai thấy, ai nghe cũng đều đạt lên Bất Thoái. Người tin tưởng hay nghi ngờ, kẻ khen ngợi hay hủy báng đều cùng về giải thoát. Ngưỡng mong chư Phật, Bồ Tát nhiếp thọ, chứng minh, các bạn đồng học tùy hỷ gia bị.
Tây Hữu đạo nhân Ngẫu Ích Trí Húc gác bút.
(Đề lời bạt này vào năm bốn mươi chín tuổi).
Phật Thuyết A Di Đà Kinh Yếu Giải Giảng Ký
Trọn bộ
(Hoàn thành cảo bản ngày 22 tháng 09 năm 2010
Giảo duyệt lần hai ngày 30 tháng 8 năm 2011)
Hồi Hướng
Nếu việc chuyển ngữ này có chút công đức nào đều xin hồi hướng cho cha mẹ hiện tiền và quá vãng, sư trưởng, Bổn Sư Thượng Tọa Thích Giải Thắng (trụ trì Bửu Quang Tự, quận 7, Sài Gòn), lịch đại tổ tiên, cừu gia oán đối nhiều đời nhiều kiếp, các liên hữu cùng hết thảy hữu tình hàm thức trong mười phương pháp giới đều cùng vãng sanh Cực Lạc quốc. Xin đặc biệt trân trọng hồi hướng công đức này đến các liên hữu Vạn Từ, Minh Tiến, Huệ Trang, Đức Phong và Chơn Phù đã tốn không ít thời gian và công sức giảo duyệt, sửa chữa bản dịch Trong quá trình chuyển ngữ, do kiến thức nông cạn, hiểu biết nội điển kém cỏi, tâm trí si ám, nghiệp chướng trùng trùng chắc chắn sẽ phạm rất nhiều lỗi sai lầm không thể chấp nhận được, ngưỡng xin Tam Bảo từ bi gia hộ khiến cho chúng đệ tử tội chướng tiêu trừ, không đến nỗi đọa lạc, không đến nỗi biến diệu dược cam lộ thành độc dược.
Bửu Quang Tự đệ tử Như Hòa đê đầu hòa-nam kính bạch
Chia sẻ với bạn bè của bạn: |