PHẬt thuyết a di đÀ kinh yếu giải giảng ký 佛說阿彌陀經 要解講記



tải về 3.07 Mb.
trang30/32
Chuyển đổi dữ liệu13.10.2017
Kích3.07 Mb.
#33422
1   ...   24   25   26   27   28   29   30   31   32

() 命濁者,因果並劣,壽命短促,乃至不滿百歲,故名為濁。命濁中,非不費時劫,不勞勤苦之行,必不能度。

(Giải: Mạng Trược là nhân và quả đều kém cỏi, tuổi thọ ngắn ngủi, thậm chí chẳng đầy trăm tuổi, nên gọi là Trược. Trong thuở Mạng Trược, mà chẳng dùng hạnh “chẳng tốn kiếp số, chẳng cần phải nhọc nhằn tu tập”, ắt chẳng thể độ được).


Mọi người thường nói tới khỏe mạnh, sống lâu, đấy là chuyện chúng sanh mong cầu nhiều nhất. Nếu luận theo nhân thì điều thứ nhất là phải có tâm thanh tịnh và tâm đại từ bi. Nếu cái nhân không tốt, tâm chẳng thanh tịnh, chẳng từ bi, thân ắt sẽ đoản mạng, lắm bệnh. Phật nói người có đủ sáu căn, tức sáu căn không thiếu sót, chẳng sứt sẹo, rất khó có. Bất cứ quả báo nào cũng đều có nguyên nhân. Nói theo mặt cương lãnh thì bố thí là nhân, phước báo là quả. Tài Bố Thí được giàu có, Pháp Bố Thí được thông minh, trí huệ, Vô Úy Bố Thí được mạnh khỏe, sống lâu. Chẳng tu nhân mà mong có quả báo tốt thì chính là huyễn tưởng. Con người hiện thời thiếu khuyết tâm từ bi và tâm thanh tịnh; do vậy, Mạng Trược. Trong thời kỳ này, nhất định phải chọn một phương pháp tu hành chẳng tốn bao nhiêu thời gian, chẳng phải nhọc nhằn tu tập thì mới hòng đắc độ.
(Giải) Phục thứ, chỉ thử tín nguyện, trang nghiêm nhất thanh A Di Đà Phật, chuyển Kiếp Trược vi thanh tịnh hải hội, chuyển Kiến Trược vi vô lượng quang, chuyển Phiền Não Trược vi Thường Tịch Quang, chuyển Chúng Sanh Trược vi liên hoa hóa sanh, chuyển Mạng Trược vi vô lượng thọ. Cố, nhất thanh A Di Đà Phật tức Thích Ca Bổn Sư ư ngũ trược ác thế, sở đắc chi A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề pháp. Kim dĩ thử quả giác toàn thể, thọ dữ trược ác chúng sanh, nãi chư Phật sở hành cảnh giới, duy Phật dữ Phật năng cứu tận, phi cửu giới tự lực sở năng tín giải dã. “Chư chúng sanh”, biệt chỉ ngũ trược ác nhân. “Nhất thiết thế gian”, thông chỉ tứ độ khí thế gian, cửu giới hữu tình thế gian dã.
() 復次。祇此信願。莊嚴一聲阿彌陀佛。轉劫濁。為清淨海會。轉見濁。為無量光。轉煩惱濁。為常寂光。轉眾生濁。為蓮華化生。轉命濁。為無量壽。故一聲阿彌陀佛。即釋迦本師。於五濁惡世。所得之阿耨多羅三藐三菩提法。今以此果覺全體。授與濁惡眾生。乃諸佛所行境界。唯佛與佛能究盡。非九界自力。所能信解也。諸眾生。別指五濁惡人。一切世間。通指四土器世間。九界有情世間也。
(Giải: Lại nữa, chỉ dùng tín nguyện này để trang nghiêm, niệm một tiếng A Di Đà Phật, sẽ chuyển Kiếp Trược thành hải hội thanh tịnh, chuyển Kiến Trược thành vô lượng quang, chuyển Phiền Não Trược thành Thường Tịch Quang, chuyển Chúng Sanh Trược thành hóa sanh trong hoa sen, chuyển Mạng Trược thành vô lượng thọ. Vì thế, một câu A Di Đà Phật chính là pháp mà đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật đã dùng để đắc Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác trong đời ác ngũ trược. Nay Ngài đem toàn thể sự giác ngộ nơi Phật quả truyền cho chúng sanh trong đời trược ác. Đấy chính là cảnh giới thực hành của chư Phật, chỉ có Phật với Phật mới hòng thấu suốt cùng tận, chứ chúng sanh trong chín pháp giới cậy vào tự lực sẽ chẳng thể tin hiểu được. Chữ “chư chúng sanh” chỉ riêng những kẻ ác trong đời ngũ trược. Chữ “nhất thiết thế gian” chỉ chung thế giới vật chất trong bốn cõi và hữu tình chúng sanh trong chín pháp giới).
Có lòng tin chân thật, nguyện thiết tha thì một tiếng A Di Đà Phật sẽ chuyển Kiếp Trược thành hải hội thanh tịnh, chuyển biến ngay lập tức. Chuyển Kiến Trược thành vô lượng quang, chuyển biến kiến giải sai lầm thành sự quán sát trí huệ. Chuyển Phiền Não Trược thành Thường Tịch Quang, chuyển hết thảy phiền não thành Đại Định. Chuyển Chúng Sanh Trược thành hóa sanh trong hoa sen, chuyển Mạng Trược thành vô lượng thọ. Cách chuyển như thế nào? Chỉ dựa vào tín nguyện trì danh, dễ dàng xiết bao! Khó ở chỗ người ta chẳng chịu tin tưởng. Hết thảy chư Phật đều cảm thán pháp này là pháp khó tin, ai có thể tin tưởng thì chính là người thật sự có phước. Phàm phu hoàn toàn chẳng thể thấu hiểu nghĩa lý của pháp này, đấy là đại phước báo viên mãn rốt ráo chẳng thể nghĩ bàn. Đại sư lại dạy rõ: Thích Ca Mâu Ni Phật do niệm A Di Đà Phật mà thành Phật, vì đức Phật Thích Ca đắc A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề trong đời ác ngũ trược. A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề là Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, mà cũng là “thành Phật”. Nếu Phật chẳng giảng kinh Di Đà, chẳng dạy chúng ta pháp môn Niệm Phật, dù Phật có nói ngàn kinh muôn luận thì cũng là phạm lỗi thiếu sót đối với chúng ta. Chúng ta là phàm phu nghiệp chướng sâu nặng, nếu chẳng giảng pháp môn thành Phật viên mãn ngay trong một đời này thì làm sao gọi là đối xử đúng lẽ với con người cho được? Do vậy, hết thảy chư Phật nhất định chẳng phụ bạc chúng sanh. Tận hư không, khắp pháp giới tuyên dương phổ biến pháp môn này, bất luận tu học bất cứ pháp môn nào, Thiền Tông, Giáo Hạ, Mật Tông, Giới Luật, sau khi tu thành tựu, đến cuối cùng đều về thế giới Hoa Tạng, Hoa Tạng là chỗ quy túc chung. Đến được thế giới Hoa Tạng rồi sẽ gặp Văn Thù, Phổ Hiền. Văn Thù, Phổ Hiền dạy mọi người niệm Phật cầu sanh về thế giới Cực Lạc hòng viên thành Phật đạo. Khi tôi giảng Quán Kinh, giảng đến phần ba thứ phước, thấy “tin sâu nhân quả” được xếp vào điều thứ ba; nếu xếp vào điều thứ nhất, tôi cũng chẳng hoài nghi một tí nào, [nay tin sâu nhân quả] lại xếp vào điều thứ ba, mà điều thứ ba là pháp tu của Bồ Tát. Tôi giảng kinh cũng là giảng theo kiểu nuốt trộng quả táo, nhưng vẫn hoài nghi, tự hỏi Bồ Tát mà vẫn chẳng tin nhân quả hay sao? Nhiều năm sau mới biết “niệm Phật là nhân, thành Phật là quả”. Đấy là cảnh giới của Phật, rất nhiều vị Bồ Tát chẳng biết. Chúng sanh trong chín pháp giới nếu không được bổn nguyện và oai thần của Phật gia trì, sẽ đều chẳng tin tưởng. Chúng sanh thiện căn chưa chín muồi, Phật cũng chẳng gia trì được! Do vậy, đại sư nói: “Chúng sanh trong chín pháp giới cậy vào tự lực sẽ chẳng thể tin hiểu được”. Chữ “chư chúng sanh” riêng chỉ những kẻ tạo ác trong đời ác ngũ trược. Theo Thiện Đạo đại sư, chữ “chư chúng sanh” trong Quán Kinh chỉ ba bậc vãng sanh thuộc hạng Hạ. Ba phẩm thuộc bậc Thượng là đại tâm phàm phu, ba phẩm thuộc bậc Trung là phàm phu tu thiện trong thế gian, ba phẩm thuộc bậc Hạ là phàm phu tạo ác. Chữ “nhất thiết thế gian” chỉ chung các hữu tình thế gian trong chín pháp giới.
(Giải) Tiền khuyến tín lưu thông, thị chư Phật phó chúc. Thử Bổn Sư phó chúc, chúc ngữ lược biệt tùng thông, đản vân “nhất thiết thế gian” do tiền chư Phật sở vân “nhữ đẳng chúng sanh”, đương tri Văn Thù, Ca Diếp đẳng, giai tại sở chúc dã.
() 前勸信流通。是諸佛付囑。此本師付囑。囑語略別從通。但云一切世間。猶前諸佛所云。汝等眾生。當知文殊迦葉等。皆在所囑也。
(Giải: Đoạn Khuyến Tín Lưu Thông trong phần trước là lời dặn bảo của chư Phật. Trong đoạn này là đức Bổn Sư dặn bảo. Trong lời dặn bảo riêng này, chỉ nói đại lược, nhưng ý nghĩa vẫn giống như trong phần dặn bảo chung [của mười phương chư Phật]. Trong phần trước, chư Phật đã nói “chúng sanh các ngươi”, cho nên biết Văn Thù, Ca Diếp v.v... đều thuộc trong số những người được đức Phật căn dặn).
Trong phần Lưu Thông, ba tiểu đoạn Tín, Nguyện, Hạnh đến đây là hết. Tiếp theo đây là lời đức Giáo Chủ khen ngợi để kết thúc. Phần sáu phương Phật [tán thán] trong phần trước chính là vô lượng vô biên chư Phật Như Lai dặn dò chúng ta, còn khuyên phát nguyện, khuyên hành trì là lời Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni dặn bảo. Lời dặn dò nằm trong phần kinh văn này, kinh văn khá giản lược, chỉ gồm hai từ ngữ “nhữ đẳng chúng sanh”“nhất thiết thế gian”, nhưng bao gồm thánh phàm trong chín pháp giới. Văn Thù là thượng thủ của hàng Bồ Tát, Ca Diếp là thượng thủ trong hàng A La Hán, đều là đối tượng để Phật căn dặn.

(Kinh) Xá Lợi Phất! Đương tri ngã ư ngũ trược ác thế, hành thử nan sự, đắc A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề, vị nhất thiết thế gian, thuyết thử nan tín chi pháp, thị vi thậm nan.
() 舍利弗。當知我於五濁惡世。行此難事。得阿耨多羅三藐三菩提。為一切世間。說此難信之法。是為甚難。

(Chánh kinh: Này Xá Lợi Phất! Hãy nên biết: Ta ở trong đời ác ngũ trược, làm chuyện khó khăn này, đắc Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, vì hết thảy thế gian, nói pháp khó tin này, thật là rất khó).


Trong đoạn trước, đại sư đã nói: “Vì thế, niệm một tiếng A Di Đà Phật, chính là pháp để Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật đắc Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác trong đời ác ngũ trược” chính là dựa trên đoạn kinh văn ngắn ngủi này. Chúng ta niệm hằng ngày nhưng hoàn toàn chẳng nhận biết. Có người niệm kinh A Di Đà, niệm nhuyễn nhừ, nhưng nếu có ai hỏi: “Thích Ca Mâu Ni Phật do tu pháp môn gì mà thành Phật?” liền lúng túng không biết đáp ra sao. Nếu đại sư không nhắc nhở, chúng ta vẫn cứ lơ mơ chẳng hiểu biết y như cũ. Đủ thấy đại sư có ân đức rất lớn đối với chúng ta.
(Giải) Tín nguyện trì danh nhất hạnh, bất thiệp thi vi, viên chuyển ngũ trược, duy tín nãi nhập, phi tư nghị sở hành cảnh giới. Thiết phi Bổn Sư, lai nhập ác thế, thị đắc Bồ Đề, dĩ đại trí, đại bi, kiến thử, hành thử, thuyết thử, chúng sanh hà do bẩm thử dã tai! Nhiên ngô nhân xử Kiếp Trược trung, quyết định vị thời sở hữu, vị khổ sở bức, xử Kiến Trược trung, quyết định vị tà trí sở triền, tà sư sở hoặc. Xử Phiền Não Trược trung, quyết định vị tham dục sở hãm, ác nghiệp sở thích. Xử Chúng Sanh Trược Trung, quyết định an ư xú uế, nhi bất năng đỗng giác, cam ư liệt nhược, nhi bất năng phấn phi. Xử Mạng Trược trung, quyết định vị vô thường sở thốn, thạch hỏa, điện quang, thố thủ bất cập. Nhược bất thâm tri kỳ thậm nan, tương vị cánh hữu biệt pháp khả xuất ngũ trược, bồng bột trạch lý, hý luận phân nhiên. Duy thâm tri kỳ thậm nan, phương khẳng tử tận thâu tâm, bảo thử nhất hạnh. Thử Bổn Sư sở dĩ cực khẩu, thuyết kỳ nan thậm, nhi thâm chúc ngã đẳng đương tri dã. Sơ phổ khuyến cánh.
() 信願持名一行。不涉施為。圓轉五濁。唯信乃入。非思議所行境界。設非本師。來入惡世。示得菩提。以大智大悲。見此。行此。說此。眾生何由稟此也哉。然吾人處劫濁中。決定為時所。為苦所偪。處見濁中。決定為邪智所纏。邪師所惑。處煩惱濁中。決定為貪欲所陷。惡業所螫。處眾生濁中。決定安於臭穢。而不能洞覺。甘於劣弱。而不能奮飛。處命濁中。決定為無常所吞。石火電光。措手不及。若不深知其甚難。將謂更有別法可出五濁。勃宅裡。戲論紛然。唯深知其甚難。方肯死盡偷心。寶此一行。此本師所以極口。說其難甚。而深囑我等當知也。初普勸竟。
(Giải: Một hạnh tín nguyện trì danh, chẳng xen lẫn những hạnh nghiệp nào khác, chuyển biến trọn vẹn ngũ trược, chỉ có tin mới hòng chứng nhập, là cảnh giới chẳng thể do nghĩ bàn mà hòng thấu hiểu được. Nếu đức Bổn Sư chẳng vào trong đời ác, thị hiện chứng đắc Bồ Đề, do đại trí, đại bi, thấy điều này, hành pháp này, giảng pháp này, chúng sanh sẽ do đâu mà nhận lãnh được pháp này vậy thay? Nhưng chúng ta sống trong Kiếp Trược, quyết định bị thời đại vây bủa, bị khổ não bức bách. Sống trong Kiến Trược, chắc chắn bị tà trí trói buộc, bị tà sư mê hoặc. Sống trong Phiền Não Trược, chắc chắn bị tham dục vây hãm, bị ác nghiệp cắn rứt. Sống trong Chúng Sanh Trược, chắc chắn ở yên trong cảnh hôi nhơ mà chẳng thấu hiểu, cam lòng kém hèn, chẳng thể phấn chấn mạnh mẽ tiến lên. Ở trong Mạng Trược, chắc chắn bị vô thường nuốt mất, [mạng người ngắn ngủi] như tia lửa xẹt do đập vào đá, như ánh chớp, trở tay chẳng kịp. Nếu chẳng biết sâu xa [thoát ly Ngũ Trược] là cực khó, ắt sẽ ngỡ còn có một pháp nào khác để thoát khỏi Ngũ Trược, cứ hý luận rối bời trong ngôi nhà lửa cháy bừng bừng. Chỉ có hiểu sâu xa [thoát ly Ngũ Trược] là rất khó thì mới chịu chết sạch tấm lòng mong ngóng so đo, quý báu một hạnh này. Đây chính là lý do vì sao đức Bổn Sư cạn hết lời, bảo pháp này rất khó, lại còn tha thiết dặn dò chúng ta phải nên thấu hiểu. [Đoạn lớn] thứ nhất [trong phần Lưu Thông] là Phổ Khuyến hết).
Tín nguyện trì danh nhất hạnh, bất thiệp thi vi”: “Thiệp” (涉) là thiệp cập (涉及: dính dáng), “thi vi” (施為) là chẳng dùng tới phương tiện, chẳng dùng những pháp môn nào khác để phụ trợ; chẳng dùng Thiền mà cũng chẳng dùng chú. Dùng ngay một câu Phật hiệu này bèn có thể chuyển biến trọn vẹn ngũ trược. Trong thời rất gần đây, ở Đài Loan bị hạn hán thiếu nước, Quán Trưởng phát khởi lòng từ bi, tính thông báo đạo tràng tại Đài Bắc hãy cầu mưa, hỏi tôi cách thức cầu mưa. Trong Thiền Môn Nhật Tụng có Cầu Vũ Nghi Quy (nghi thức cầu mưa). Trong quá khứ, Liên Trì đại sư trụ tích158 tại Hàng Châu, có một năm trời hạn hán. Quan Thái Thú Hàng Châu biết đại sư là bậc cao tăng hữu đức, thỉnh Ngài lập đàn cầu mưa. Đại sư nói: “Tôi chỉ biết niệm Phật, chẳng biết cầu mưa, nhưng là chuyện cầu phước cho dân chúng thì cũng nên tùy hỷ”. Ngài liền dẫn đồ đệ niệm Phật suốt trên đường đi. Đại sư đi tới đâu, trời đổ mưa tới đó, cũng là kỳ tích. Trong truyện ký của Liên Trì đại sư có chép chuyện này. Bất luận cầu điều gì, chỉ một câu Phật hiệu thật sự đủ dùng rồi.

Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật xuất hiện trong thế gian, do đại trí, đại bi, thấy pháp trì danh niệm Phật này sẽ thành Phật, bèn đích thân thực hành, và nói cho chúng ta biết, chúng ta mới biết ân đức lớn lao của Phật. Sống trong cõi đời nhơ bẩn này, giống như tù nhân bị nhốt chặt trong ngục khó trốn, lại không may gặp phải thời pháp yếu, ma mạnh. Đạo tràng chánh pháp phần nhiều đìu hiu; ngược lại, đạo tràng của tà sư đông đúc. Chúng ta tự thẹn đạo đức, định lực chẳng đủ, trước hết, hãy nên thành tựu chính mình, đừng bị mê hoặc, trói buộc bởi tà trí, tà sư. Hãy nên biết rằng: Trong đời này, không ai chẳng tham, tham là hầm bẫy. Tham tiếng tăm, lợi dưỡng thế gian, ngũ dục, lục trần chính là hầm bẫy tam ác đạo. Tham pháp xuất thế gian thì vẫn là cạm bẫy tam ác đạo. Đức Phật bảo chúng ta trừ khử tâm tham, chứ không bảo chúng ta thay đổi đối tượng tham lam. Nếu có pháp môn nào chưa học, đợi đến Tây Phương hãy học cũng chẳng muộn. Trong giai đoạn hiện thời, nhất tâm nhất ý cầu sanh Tịnh Độ. Trong xã hội hiện thời, đại đa số con người tâm chẳng thanh tịnh, tranh danh, đoạt lợi, đều là tạo ác, điều sai chồng chất mãi sẽ trở thành đúng. Nếu chẳng tùy thuận thế tục, đâm ra sẽ bị coi như kẻ quái dị. Vì thế, chúng ta phải độc lập, độc hành thì mới có thể thoát khỏi [người đời dị nghị].



Bồng bột trạch lý, hý luận phân nhiên” (trong căn nhà cháy bừng bừng, tơi bời hý luận): Trong căn nhà khói lửa mù mịt như thế, người tỉnh táo sẽ gấp rút chạy thoát thân, kẻ mê hoặc vẫn ở trong nhà thảo luận, nghiên cứu. Chỉ có thấu hiểu [tam giới] rất khó thoát lìa, mới chịu chết sạch những ý nghĩ chụp giựt, cầu may, coi một câu A Di Đà như thần chú cứu mạng hết sức quý báu.
4.3.2. Kết khuyến
(Kinh) Phật thuyết thử kinh dĩ, Xá Lợi Phất, cập chư tỳ-kheo, nhất thiết thế gian, thiên, nhân, A Tu La đẳng, văn Phật sở thuyết, hoan hỷ tín thọ, tác lễ nhi khứ.

(Giải) Pháp môn bất khả tư nghị, nan tín, nan tri, vô nhất nhân

năng phát vấn giả. Phật trí giám cơ, tri chúng sanh thành Phật duyên thục, vô vấn tự thuyết, linh đắc tứ ích, như thời vũ hóa. Cố “hoan hỷ tín thọ” dã. Thân tâm di duyệt, danh “hoan hỷ”. Hào vô nghi nhị, danh “tín”. Lãnh nạp bất vong, danh “thọ”. Cảm đại ân đức, đầu thân quy mạng, danh “tác lễ”. Y giáo tu trì, nhất vãng bất thoái, danh “nhi khứ”.
() 佛說此經已。舍利弗。及諸比丘。一切世間。天人阿修羅等。聞佛所說。歡喜信受。作禮而去。 

() 法門不可思議。難信難知。無一人能發問者。佛智鑒機。知眾生成佛緣熟。無問自說。令得四益。如時雨化。故歡喜信受也。身心怡悅。名歡喜。毫無疑貳。名信。領納不忘。名受。感大恩德。投身歸命。名作禮。依教修持。一往不退。名而去。
(Chánh kinh: Đức Phật nói kinh này xong, ngài Xá Lợi Phất và các vị tỳ-kheo, hết thảy thế gian, trời, người, A Tu La v.v... nghe lời Phật dạy, hoan hỷ tin nhận, làm lễ, lui ra.

Giải: Pháp môn chẳng thể nghĩ bàn, khó tin, khó biết, không một ai có thể nêu câu hỏi. Đức Phật dùng trí huệ xét soi căn cơ, biết duyên thành Phật của chúng sanh đã chín, bèn không ai hỏi tự nói, khiến cho mọi người được bốn thứ lợi ích, giống như trận mưa đúng thời khiến cho muôn loài tăng trưởng. Vì thế, [đại chúng] “hoan hỷ tín thọ” (hoan hỷ tin nhận). Thân tâm vui sướng gọi là “hoan hỷ”. Chẳng nghi ngờ mảy may, gọi là “tín”. Lãnh nhận chẳng quên mất, gọi là “thọ” (nhận). Cảm kích ân đức lớn lao, gieo toàn thân quy mạng, gọi là “tác lễ”. Vâng theo lời dạy tu trì, thẳng tiến chẳng lui sụt, gọi là “nhi khứ”).
Tuy đức Thế Tôn gọi ngài Xá Lợi Phất, mà ngài Xá Lợi Phất từ đầu đến giờ chẳng thưa một câu. Đối với chuyện này, Ngài chẳng biết một điều nào, cho thấy pháp môn này chẳng thể nghĩ bàn, khó tin, khó biết. Đây là cảnh giới viên mãn nơi quả địa Như Lai, Phật dùng trí huệ viên mãn xét soi chúng sanh, thấy cơ duyên của họ đã chín muồi, không ai hỏi tự nói, nói ra bộ kinh A Di Đà này. Chúng ta nghe xong, nếu hoan hỷ tin nhận, liền được bổn nguyện và oai thần của chư Phật Như Lai gia trì, giống như mưa ngọt đúng lúc, thân tâm vui sướng, đối với lời Phật nói chẳng hoài nghi mảy may, hoàn toàn tiếp nhận lời Phật giáo huấn, cảm tạ ân đức khôn sánh của đức Thế Tôn, nương theo lời dạy tu trì. Pháp hội đã giải tán nhưng tu hành mới bắt đầu. Chính mình phải vui mừng, chớ phụ bạc thiện căn từ vô lượng kiếp của chính mình, đừng phụ bạc chư Phật gia trì, đừng phụ bạc Thích Ca Mâu Ni Phật buốt lòng rát miệng vì chúng ta nói ra pháp môn này, mà cũng đừng phụ rẫy Ngẫu Ích đại sư đã giải thích cặn kẽ trong cuốn Di Đà Yếu Giải này, khiến cho chúng ta có thể trên báo bốn ân, dưới cứu tam khổ. Hôm nay đã giảng đến ngày thứ bốn mươi tám, viên mãn vừa khéo. Cảm ơn quý vị.
Phụ lục - Ngẫu Ích đại sư bạt
Kinh vân: “Mạt pháp ức ức nhân tu hành, hãn nhất đắc đạo. Duy y niệm Phật đắc độ”. Ô hô! Kim chánh thị kỳ thời hỹ! Xả thử bất tư nghị pháp môn, kỳ hà năng thục? Húc xuất gia thời, tông thừa tự phụ, miểu thị giáo điển, vọng vị trì danh, khúc vi trung hạ. Hậu nhân đại bệnh, phát ý Tây quy. Phục nghiên Diệu Tông, Viên Trung nhị sao, cập Vân Thê Sớ Sao đẳng thư, tri kỳ Niệm Phật tam-muội, thật vô thượng bảo vương, phương khẳng tử tâm, chấp trì danh hiệu, vạn ngưu mạc vãn dã. Ngô hữu Khứ Bệnh, cửu sự Tịnh nghiệp, dục linh thử kinh đại chỉ, từ bất phiền, nhi bỉnh trước, thỉnh dư vị thuật Yếu Giải. Dư dục phổ dữ pháp giới hữu tình đồng sanh Cực Lạc, lý bất khả khước, cử bút vu Đinh Hợi cửu nguyệt nhị thập hữu thất, thoát cảo ư thập nguyệt sơ ngũ, phàm cửu nhật cáo thành. Sở nguyện nhất cú, nhất tự, hàm tác tư lương, nhất kiến, nhất văn, đồng giai Bất Thoái. Tín nghi giai thực đạo chủng, tán báng đẳng quy giải thoát. Ngưỡng duy chư Phật, Bồ Tát, nhiếp thọ chứng minh, đồng học hữu nhân tùy hỷ gia bị.

Tây Hữu đạo nhân Ngẫu Ích Trí Húc các bút cố bạt, thời niên tứ thập hữu cửu.
蕅益大師跋

經云:末法億億人修行,罕一得道,唯依念佛得度。嗚呼!今正是其時矣。捨此不思議法門,其何能淑。旭出家時,宗乘自負,藐視教典。妄謂持名,曲為中下。後因大病,發意西歸。復研《妙宗》《圓中》二鈔,及雲棲《疏鈔》等書,始知念佛三昧,實無上寶王,方肯死心執持名號,萬牛莫挽也。吾友去病,久事淨業,欲令此經大旨,辭不繁而炳著,請余為述要解。余欲普與法界有情同生極樂,理不可卻。舉筆于丁亥九月二十有七,脫稿於十月初五,凡九日告成。所願一句一字,咸作資糧。一見一聞,同階不退。信疑皆植道種,讚謗等歸解脫。仰唯諸佛菩薩攝受證明,同學友人隨喜加被。西有道人蕅益智旭閣筆故跋,時年四十有九。
Lời bạt của Ngẫu Ích đại sư
Kinh dạy: “Trong đời Mạt Pháp, ức ức người tu hành, hiếm có một ai đắc đạo, chỉ có nương vào pháp Niệm Phật thì mới đắc độ”. Than ôi! Nay đúng nhằm thời ấy vậy. Bỏ pháp môn chẳng thể nghĩ bàn này, thì còn cậy vào đâu để giải thoát cho được? Húc tôi lúc xuất gia, tự phụ là người thuộc Thiền Tông, coi thường những kinh điển thuộc Giáo môn, nói xằng “phép trì danh là pháp quyền biến nhằm phù hợp căn tánh của những kẻ trung căn và hạ căn”. Về sau, do bệnh ngặt nghèo, mới phát tâm quy Tây. Lại nghiên cứu hai bộ Viên Trung Sao và Diệu Tông Sao, và sách Sớ Sao của ngài Vân Thê, mới biết Niệm Phật tam-muội quả thật là vua báu vô thượng, mới chịu chết sạch tấm lòng mong ngóng, so đo, chấp trì danh hiệu, một vạn con trâu cũng không lôi lại được. Bạn tôi là ông Khứ Bệnh, tu Tịnh nghiệp đã lâu, muốn cho tông chỉ của kinh này nêu tỏ rạng ngời mà lời lẽ giảng giải đơn giản, xin tôi viết lời giải thích những điểm trọng yếu. Tôi muốn làm cho hữu tình trong khắp pháp giới đều cùng sanh về Cực Lạc, xét theo lý chẳng thể chối từ được, bèn cầm bút viết từ ngày Hai Mươi Bảy tháng Chín năm Đinh Hợi (1647), đến ngày mồng Năm tháng Mười là hoàn thành, tổng cộng viết xong trong chín ngày. Kính mong mỗi một câu, mỗi một chữ đều là tư lương [cho người tu Tịnh nghiệp]. Ai thấy, ai nghe cũng đều đạt lên Bất Thoái. Người tin tưởng hay nghi ngờ, kẻ khen ngợi hay hủy báng đều cùng về giải thoát. Ngưỡng mong chư Phật, Bồ Tát nhiếp thọ, chứng minh, các bạn đồng học tùy hỷ gia bị.

Tây Hữu đạo nhân Ngẫu Ích Trí Húc gác bút.

(Đề lời bạt này vào năm bốn mươi chín tuổi).

Phật Thuyết A Di Đà Kinh Yếu Giải Giảng Ký

Trọn bộ

(Hoàn thành cảo bản ngày 22 tháng 09 năm 2010

Giảo duyệt lần hai ngày 30 tháng 8 năm 2011)
Hồi Hướng
Nếu việc chuyển ngữ này có chút công đức nào đều xin hồi hướng cho cha mẹ hiện tiền và quá vãng, sư trưởng, Bổn Sư Thượng Tọa Thích Giải Thắng (trụ trì Bửu Quang Tự, quận 7, Sài Gòn), lịch đại tổ tiên, cừu gia oán đối nhiều đời nhiều kiếp, các liên hữu cùng hết thảy hữu tình hàm thức trong mười phương pháp giới đều cùng vãng sanh Cực Lạc quốc. Xin đặc biệt trân trọng hồi hướng công đức này đến các liên hữu Vạn Từ, Minh Tiến, Huệ Trang, Đức Phong và Chơn Phù đã tốn không ít thời gian và công sức giảo duyệt, sửa chữa bản dịch Trong quá trình chuyển ngữ, do kiến thức nông cạn, hiểu biết nội điển kém cỏi, tâm trí si ám, nghiệp chướng trùng trùng chắc chắn sẽ phạm rất nhiều lỗi sai lầm không thể chấp nhận được, ngưỡng xin Tam Bảo từ bi gia hộ khiến cho chúng đệ tử tội chướng tiêu trừ, không đến nỗi đọa lạc, không đến nỗi biến diệu dược cam lộ thành độc dược.

Bửu Quang Tự đệ tử Như Hòa đê đầu hòa-nam kính bạch



1 Thần Châu là một tên gọi khác Trung Hoa. Theo thần thoại, thời cổ ở Trung Nguyên có hai vị vua là Viêm Đế và Hoàng Đế. Viêm Đế lấy lửa tượng trưng cho đức hạnh của chính mình, nên lãnh thổ cai trị của ông ta gọi là Xích Huyện. Hoàng Đế lấy đất làm biểu trưng, lãnh thổ cai trị của ông ta được gọi là Thần Châu. Về sau, Hoàng Đế đánh bại Viêm Đế, sát nhập Xích Huyện vào Thần Châu, nên người Trung Hoa thường gọi vùng Trung Nguyên là Xích Huyện Thần Châu và tự xưng là “Viêm Hoàng tử tôn” (con cháu của Viêm Hoàng). “Thần Châu thay đổi màu cờ”: Khi Mao Trạch Đông chiến thắng Quốc Dân Đảng, biến Hoa Lục thành Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa, chánh quyền Trung Hoa Dân Quốc của Tưởng Giới Thạch phải chạy ra Đài Loan.

2 Trưởng lão Bạch Thánh (1904-1989) quê ở Ứng Thành, tỉnh Hồ Bắc, họ ngoài đời là Hồ, tên là Tất Khang, tên tự là Khiết Nhân. Xin xuất gia với ngài Long Nham tại chùa Kỳ Viên núi Cửu Hoa vào năm 18 tuổi, pháp danh là Đông Phú, sau đó ít lâu, Sư thọ Cụ Túc Giới, pháp tự là Bạch Thánh. Sư từng tham học với những vị tôn túc nổi tiếng thời ấy như Độ Ách (Sư học kinh Lăng Nghiêm từ vị này), Từ Châu, Trí Diệu, Đạo Giới v.v... và bế quan suốt ba năm tại Vũ Xương để nghiên cứu Đại Tạng Kinh. Sư tốt nghiệp từ Pháp Tạng Phật Học Viện ở Thượng Hải, rồi sang Giang Tô, tham học với thiền sư Lai Quả chùa Cao Mân. Sau đó, đi tham học khắp nơi. Sau khi tham học, Sư đảm nhận chức xử lý thường vụ phân hội Phật giáo Thượng Hải, chủ nhiệm giáo vụ của Lăng Nghiêm Phật Học Viện tại Thượng Hải, rồi trụ trì chùa Phong Lâm thuộc Tây Hồ, Hàng Châu, giám viện Tịnh An Tự (Thượng Hải), kiêm viện trưởng Phật Học Viện tại chùa này. Sư sang Đài Loan năm 1948, tổ chức Trung Quốc Phật Giáo Hội, lãnh chức vụ Hội Trưởng nhiều năm, trụ trì các chùa Thập Phổ (Đài Bắc), Lâm Tế Hộ Quốc Thiền Tự, chùa Cực Lạc (Mã Lai)... Đồng thời, sáng lập và điều hành Trung Quốc Phật Giáo Tam Tạng Học Viện, Trung Quốc Phật Giáo Nghiên Cứu Sở. Sư để lại những tác phẩm Phật Giáo Là Gì, Sổ Tay Cho Người Trụ Trì Tông Lâm Tế, Lăng Nghiêm Kinh Biểu Giải, Tứ Phần Giới Bổn Biểu Giải, Học Thiền Phương Tiện Đàm, Thiền Tông Sử Luận Tập, Phạm Võng Kinh Bồ Tát Giới Bổn Giảng Ký, Duy Ma Cật Kinh Giảng Lục...

3 Tịnh công pháp sư: Từ ngữ để gọi hòa thượng Tịnh Không với ý tôn trọng, không gọi rõ pháp danh, pháp tự ra.

4 Ý nói Di Đà Kinh Yếu Giải là tác phẩm giải thích kinh tường tận, trọn vẹn, tinh xác nhất.

5 [Cư sĩ Lưu Thừa Phù ghi chú]: Trong phần trên, lão pháp sư nhắc tới “mười hai phần giáo”, chúng còn được gọi là Mười Hai Bộ (Thập Nhị Bộ Kinh), tức là căn cứ trên thể tài của kinh điển mà chia thành mười hai loại. Có bài kệ như sau:

Trường Hàng, Trùng Tụng và Cô Khởi,

Thí Dụ, Nhân Duyên, cùng Tự Thuyết,

Bổn Sự, Bổn Sanh, Vị Tằng Hữu,

Phương Quảng, Luận Nghị, và Thọ Ký.

(1) Trường Hàng: Thể văn xuôi từng hàng, từng hàng một.

(2) Trùng Tụng: Dùng phương thức kệ tụng để nhắc lại lần nữa những nghĩa lý trong phần Trường Hàng.

(3) Cô Khởi: Phần kệ tụng riêng biệt, không có ý nghĩa nào liên quan đến phần kinh văn trước và sau nó.

(4) Thí Dụ: Dùng cách thức ví von để nói rõ nghĩa lý trong kinh văn.

(5) Nhân Duyên: Trình bày nhân duyên phát sanh một sự việc nào đó.

(6) Tự Thuyết: Thông thường, có người thỉnh pháp thì đức Phật mới thuyết pháp. Chỉ riêng A Di Đà Kinh, không ai thỉnh pháp mà đức Phật tự nói.

(7) Bổn Sự: Những sự tích trong khi còn tu nhân của hàng Bồ Tát, La Hán.

(8) Bổn Sanh: Phật kể những sự từng trải trong việc hoằng pháp lợi sanh [của chính Ngài] trong quá khứ.

(9) Vị Tằng Hữu: Những sự thần thông, biến hóa từ trước đến nay chưa hề thấy.

(10) Phương Quảng: Những kinh viên dung rộng lớn, có những cảnh giới viên dung vô ngại.

(11) Luận Nghị: Những báo cáo nghiên cứu kinh, luật của đệ tử đức Phật, hoặc là những ghi chép về các cuộc thảo luận giữa đức Phật và đệ tử.



(12) Thọ Ký: Phật thọ ký cho Bồ Tát lúc nào sẽ thành Phật, tiên đoán Tịnh Độ của họ sẽ như thế nào.

6 [Cư sĩ Lưu Thừa Phù ghi chú]: Chương thứ nhất của Đạo Đức Kinh được mở đầu bằng: “Đạo khả đạo, phi thường đạo, danh khả danh, phi thường danh”. Mấy câu này chính là cương lãnh của toàn bộ Đạo Đức Kinh, chẳng dễ hiểu cho lắm. Nhằm thuận tiện cho hàng sơ cơ, tôi bổ sung đại lược. Chữ Đạo thứ nhất trong [câu trích dẫn trên đây] chỉ cái đạo “chân thường”, tức là Đạo Thể (bản thể của Đạo). Chữ Đạo thứ hai có nghĩa là “nói”. [“Đạo khả đạo, phi thường đạo” nghĩa là] đạo chân thường, vô tướng, vô danh, hễ nói liền trật, khởi niệm liền sai. Cũng giống như Đại Thừa Khởi Tín Luận giảng về Chân Như như sau: “Nhất thiết pháp tùng bổn dĩ lai, ly ngôn thuyết tướng, ly danh tự tướng, ly tâm duyên tướng, tất cánh bình đẳng, vô hữu biến dịch, bất khả phá hoại, duy thị nhất tâm, cố danh Chân Như” (Hết thảy pháp vốn từ trước đến nay lìa tướng ngôn thuyết, rời khỏi tướng danh tự, rời khỏi tướng tâm duyên, rốt ráo bình đẳng, chẳng biến đổi, chẳng thể phá hoại, chỉ là nhất tâm, nên gọi là Chân Như). Nhà Phật gọi cái Đạo mà Lão Tử đã nói là Chân Như, còn triết học gọi là Bản Thể. Trong kinh Phật, chỗ nào cũng có thể thấy được Bản Thể ấy, nhưng danh xưng của nó biến hóa đa đoan. Từ những sách đã đọc thường ngày, tôi ghi lại được bảy mươi hai danh xưng khác nhau nhưng có cùng ý nghĩa với Chân Như mà vẫn chưa trọn vẹn. Lão Tử lại nói: “Danh khả danh, phi thường danh”, chính là nói: Đạo vốn không có tên. Nếu miễn cưỡng đặt cho nó một danh tự nào đó thì chỉ là một phần giả danh mà thôi, nhằm biểu hiện một phần ý nghĩa, chứ không thể nào hoàn toàn đại diện cho bản thể của Đạo được. Ngài lại nghĩ, Đạo đã là vô tướng, vô danh, nhưng muôn vật trong trời đất đều do nó biến hóa ra, nên Ngài lại nói: “Vô danh thiên địa chi thủy, hữu danh vạn vật chi mẫu” (Vô danh là khởi đầu của trời đất, hữu danh là mẹ của muôn vật). Vô danh là Thể, hữu danh là Dụng. Vô danh là Tánh, hữu danh là Tướng. Tướng mà không có Tánh sẽ chẳng thể viên dung, Tánh mà không có Tướng sẽ chẳng thể tỏ lộ được. Lão Tử quán sâu xa đến mức ấy, nên tư tưởng triết học của Ngài được tôn là bậc nhất trong các sách vở xa xưa của Trung Quốc. Tôi có một ý nghĩ chưa chín chắn như thế này: Nói chung, Khổng Tử và Lão Tử đều là đại Bồ Tát tái lai, họ là quân tiên phong nhằm mở đường cho đức Phật. Đức Phật sai họ đến Trung Quốc tạo dựng nền tảng triết học tốt đẹp cho người Hoa để sau đấy người Hoa mới có thể tiếp nhận tư tưởng rộng lớn mênh mông tinh vi, sâu thẳm của nhà Phật. Tuy Lão Tử đã quán sát được phía ngoài của Bản Thể, nhưng rốt cuộc, Ngài vẫn chưa đăng đường nhập thất (chưa thâm nhập), vì Ngài thường nói: “Ngô hữu đại hoạn, vị ngô hữu thân” (Ta có hoạn nạn lớn là vì ta có thân). [Ý nghĩa này] khá giống với Nhị Thừa, hư vô tự nhiên; lại giống với ngoại đạo. Xét đến thực chất, Ngài là bậc phạm hạnh tu Nhân Thừa và Thiên Thừa, nhưng rốt cuộc chưa thể thấu suốt tột cùng nguồn tâm. Nếu Ngài có cơ duyên được học Phật, chắc chắn vừa được Phật chỉ điểm, Ngài liền trở thành bậc Pháp Thân đại sĩ hữu tu hữu chứng.

7 Văn Ngôn là một loại văn viết được lưu hành đã lâu, có nghĩa đen là “lối viết văn chương cổ điển được sử dụng trong sách vở”, Văn Ngôn khác với văn nói thông thường (Bạch Thoại). Theo Vương Lực (một nhà Hán học trứ danh cận đại), Văn Ngôn lấy ngôn ngữ thời Tiên Tần (trước thời Tần Thủy Hoàng thống nhất Trung Hoa) làm cơ sở, được canh cải qua các đời Hán, Đường, Tống trở thành một thứ văn viết thống nhất và không bị lệ thuộc vào ngôn ngữ hội thoại thông dụng. Theo tiên sinh Trần Văn Chánh, có thể phân biệt Bạch Thoại và Văn Ngôn một cách đơn giản như sau: “Hễ dùng tai nghe và hiểu được thì là Bạch Thoại. Hễ không dùng mắt để xem sẽ không hiểu được thì đó là Văn Ngôn”. Sau phong trào vận động Ngũ Tứ (1919) của một số người quá khích muốn xóa bỏ toàn bộ nền học vấn cũ, hầu như không còn sách vở nào viết bằng Văn Ngôn. Ngay trong số những người tốt nghiệp đại học ở Đại Lục hoặc Đài Loan hiện thời (nhất là tại Đại Lục), có không ít người lúng túng, cảm thấy Văn Ngôn rất khó hiểu.

8 Cổ Văn Quán Chỉ là bộ sách tập hợp 222 bài cổ văn nổi tiếng, đặc biệt là những bài thuộc thể loại Tản Văn và Biền Văn từ thời Tiên Tần cho đến cuối đời Minh do Ngô Sở Tài và Ngô Điều Hầu biên soạn và chú thích dưới đời Thanh với mục đích giúp đỡ hàng hậu học thấu hiểu cổ văn. Chữ Quán Chỉ lấy từ một câu nói trong bộ Tả Truyện. Công tử nước Ngô là Quý Trát đi sứ nước Lỗ, nghe nhạc công tấu bài Thiều Tiêu đã ca ngợi: “Quán chỉ hỹ! Nhược hữu tha nhạc, ngôn bất cảm thỉnh dĩ”. Câu này được các nhà chú giải Tả Truyện giải thích: “Thiều Tiêu là tuyệt đỉnh của âm nhạc, sau khi đã được thưởng thức rồi thì chẳng còn muốn nghe những loại nhạc khác nữa”. Do vậy, chú cháu Ngô Sở Tài và Ngô Điều Hầu đã dùng chữ Quán Chỉ để đặt tên cho bộ sách với ý nghĩa ca ngợi: Đây là những tác phẩm tuyệt đỉnh của Cổ Văn Hán ngữ.

9 Ở đây, Hòa Thượng chỉ tính những triều đại lớn lấy tên là Tần trong lịch sử Trung Hoa:

1) Đế quốc Đại Tần (221-207 trước Công Nguyên) do Tần Thủy Hoàng Đế (Doanh Chính) sáng lập, chỉ truyền được ba đời: Tần Thủy Hoàng Đế, Nhị Thế Hoàng Đế (Doanh Hồ Hợi) và Tam Thế (Doanh Tử Anh).

2) Tiền Tần (350-394), còn gọi là Phù Tần, do Huệ Vũ Đế (Phù Hồng) sáng lập, truyền được tám đời. Vua cuối cùng là Tần Thái Tông (Phù Đăng) bị vua Hậu Tần là Diêu Hưng đánh bại tại núi Mã Mao vào năm 394, rồi bị chém đầu. Thái Tử Phù Sùng lên ngôi, chưa kịp chọn đế hiệu thì bị tướng Tây Tần là Khất Phục Kha Đạn giết chết. Nhà Tiền Tần diệt vong.

3) Hậu Tần (384-417), còn gọi là Diêu Tần, do Tần Thái Tổ (Diêu Trành) sáng lập, truyền được ba đời. Khi vua thứ hai là Diêu Hưng chết, con là Diêu Hoằng kế vị, tông thất tàn sát lẫn nhau, Lưu Dũ, quyền thần của nhà Đông Tấn thừa cơ phá Trường An, Diêu Hoằng thế cô lực kiệt, phải đầu hàng nhà Đông Tấn. Nhưng Lưu Dũ ra lệnh giết sạch toàn bộ gia quyến, họ hàng của Diêu Hoằng. Về sau, Lưu Dũ soán ngôi nhà Đông Tấn của Tấn Cung Đế (Tư Mã Đức Văn), lập ra nhà Lưu Tống.

4) Tây Tần (385-431) do một viên tướng người Tiên Ty là Khất Phục Quốc Nhân sáng lập. Tộc trưởng người Tiên Ty là Khất Phục Quốc Nhân do thấy Tiền Tần suy yếu bèn chiếm cứ vùng Lũng Tây, xưng là Đại Thiền Vu. Để mua chuộc, nhà Tiền Tần phong cho ông ta làm Uyển Giang Vương. Đến đời vua thứ hai là Khất Phục Càn Quy (em trai Quốc Nhân) mới chính thức xưng đế hiệu là Tần, và tôn anh làm Tần Liệt Tổ. Triều đại này bị diệt vong dưới thời Khất Phục Mộ Mạt. Mộ Mạt hiếu sát, u mê, khiến quốc chánh nát bét, rốt cuộc phải quy thuộc nhà Tây Ngụy. Cuối cùng, Mộ Mạt bị hoàng đế xứ Hồ Hạ là Hách Liên Định bắt được, đem giết chết.

Nếu kể cả những sứ quân chiếm lãnh một hai quận huyện xưng vương, đặt tên cho vương quốc là Tần thì Trung Hoa có rất nhiều “nước” nhỏ có quốc hiệu là Tần như dưới thời các tướng Hư Trừ Quyền Cừ (tù trưởng người Khương, chiếm cứ vùng Lũng Hữu thời Tiền Triệu), Dương Nạn Đương (thủ lãnh quân phiệt vùng Cam Túc, chiếm cứ vùng Cửu Trì thời Thập Lục Quốc), Tiết Cử (thủ lãnh quân phiệt cuối đời Tùy, chiếm lãnh vùng Cam Túc) v.v...



10 Tuy Phù Kiên bị đánh bại trong trận Hợp Phì, mất phần lớn đất nước, nhưng nhà Tiền Tần vẫn tồn tại cho đến khi thái tử Phù Sùng của vua Phù Đăng (đã bị Diêu Hưng giết chết trước đó) bị Khất Phục Kha Đạn giết chết, nhà Tiền Tần mới hoàn toàn diệt vong.

11 Sanh tướng vô minh (Mulavidya) còn gọi là Vô Thỉ Vô Minh, Căn Bản Vô Minh hoặc Nguyên Phẩm Vô Minh là căn bản của hết thảy phiền não. Từ trong biển Chân Như, chợt khởi một niệm vô minh, tạo thành các căn bản phiền não, lầm lạc ngăn cách lý tánh.

12 Mười tông phái là: Thành Thực Tông (Không Tông), Câu Xá Tông (Hữu Tông), Thiền Tông (Tâm Tông), Luật Tông (Nam Sơn Tông), Thiên Thai Tông (Pháp Hoa Tông), Hiền Thủ Tông (Hoa Nghiêm Tông), Từ Ân Tông (Pháp Tướng Tông, Duy Thức Tông), Tam Luận Tông (Tánh Tông), Mật Tông (Chân Ngôn Tông) và Tịnh Độ Tông (Liên Tông).

13 [Chú thích của cư sĩ Lưu Thừa Phù]: Pháp sư nói “pháp môn Niệm Phật có thể vượt cấp”, [nghĩa là] có thể vượt thoát, chẳng cần phải tiệm tu, Ngài nói chẳng sai chút nào! Trong Vô Lượng Thọ Kinh đã chép rõ “mười niệm thành tựu”. Nhưng những đồng tu sơ cơ chớ nên hiểu lầm, học Phật không có chuyện mánh lới, nghĩa là: Đốn siêu cũng do tiệm tu mà có. Huệ Năng Lục Tổ Đại Sư là người bán củi, không biết chữ, vừa nghe “hãy nên chẳng trụ vào đâu để sanh tâm” liền đại ngộ, lại còn nói mấy câu khai ngộ. Ngũ Tổ bèn truyền y bát. Lục Tổ đã tu bao nhiêu kiếp, ai biết được? Thiện Tài đồng tử tham học năm mươi ba vị thiện tri thức, chứng nhập pháp giới, nhưng phải hiểu rõ: Khi Thiện Tài sanh ra, các thứ trân bảo tự nhiên trồi lên. Vì thế, thầy bói đề nghị đặt tên cho đứa trẻ là Thiện Tài. Ai biết Thiện Tài đã tu bao nhiêu kiếp? Một kẻ hạ ngu vừa nghe pháp môn Niệm Phật liền sanh lòng tin, hành theo, người ấy chẳng phải là đã gieo thiện căn nơi một, hai, ba, bốn, năm đức Phật, mà là đã gieo thiện căn nơi vô lượng trăm ngàn vạn đức Phật. Người ấy là kẻ có lai lịch. Chúng ta cũng đừng coi rẻ chính mình, chúng ta cũng tu bao nhiêu kiếp, nên hiện tại mới chịu đến nghe kinh, tiếp nhận pháp môn Niệm Phật. Đời này đã gặp được cơ hội hy hữu khó gặp gỡ này, ngàn vạn phần chớ để luống qua!

14 [Chú thích của cư sĩ Lưu Thừa Phù]: Kiến Hoặc và Tư Hoặc là tên gọi chung của các phiền não trong tam giới. Chúng được liệt kê thành biểu đồ như sau:

Kiến Hoặc

&

Tư HoặcTư Hoặc (tác dụng tâm lý theo phương diện cuộc sống)ThamPhiền Não Chướng (ác kiến câu sanh khởi do mê nơi mặt Sự)SânSi MạnNghiKiến Hoặc (tác dụng tâm lý theo phương diện tri thức)Thân Kiến (Ngã Kiến)Sở Tri Chướng (ác kiến phân biệt khởi do mê nơi mặt Lý)Biên KiếnTà KiếnKiến Thủ KiếnGiới Cấm Thủ KiếnTrên đây, Kiến Hoặc và Tư Hoặc, mỗi loại gồm năm thứ. Các đồng tu sơ cơ đọc đến những danh từ này sẽ hiểu ngay được nghĩa, chỉ có hai thứ cuối là cần phải giảng rõ:



1. Kiến Thủ Kiến chính là kiến giải chủ quan, Thủ (取) có nghĩa là chấp trước. Chấp chặt quan niệm chủ quan của chính mình là chánh xác. Như ngoại đạo coi sanh lên cõi trời là sẽ sống nơi đó vĩnh viễn. Đấy gọi là “phi quả kế quả” (chẳng phải là quả, mà chấp là quả).

2. Giới Cấm Thủ Kiến: Giới là tánh giới, như giết, trộm, dâm, dối. Cấm là ngăn cấm, như uống rượu, ăn thịt. Giữ gìn giới cấm là thiện pháp, nhưng sẽ mắc lỗi nếu chấp vào một thành kiến thiên lệch, tức là dùng quan niệm sai lầm để giữ giới cấm, nhọc nhằn nhưng chẳng ích gì. Như ngoại đạo đắc Thiên Nhãn Thông, thấy trâu được sanh lên trời, liền cho rằng học theo nếp sống của trâu sẽ có thể sanh lên trời. Do vậy, họ bắt chước trâu ăn cỏ, chỉ khiến cho chính mình chịu khổ sở mà chẳng đạt được kết quả. Đấy gọi là “phi nhân kế nhân” (chẳng phải là nhân mà chấp đó là nhân).



15 Hành Châu thuộc tỉnh Hồ Nam, khác với Hàng Châu ở Giang Tô.

16 Tư thục đệ tử: Thờ một vị đã khuất làm thầy, kế thừa chí hướng và học thuyết của vị ấy thì gọi là Tư Thục Đệ Tử.

17 Do hâm mộ ngài Hám Sơn, ngài Ngẫu Ích xin xuất gia với pháp sư Tuyết Lãnh (đệ tử của ngài Hám Sơn) vào năm Thiên Khải thứ 2 (1622) đời Minh. Ngoài tôn hiệu tổ thứ chín của Tịnh Độ Tông, ngài Ngẫu Ích còn được tôn xưng là một vị đại thành tựu cuối cùng của tông Thiên Thai. Ngài U Khê cùng thế hệ với ngài Tuyết Lãnh. Các vị Hám Sơn, U Khê và Ngẫu Ích được tôn là những bậc long tượng trùng hưng tông Thiên Thai.

18 Đại Hựu (1334-1407) là cao tăng tông Thiên Thai đời Minh, quê ở Ngô Huyện, Cô Tô (Giang Tây), tự là Khải Tông, hiệu Cừ Am. Sư xuất gia năm 12 tuổi, thông thạo nội ngoại điển, học kinh Hoa Nghiêm với ngài Cổ Đình, rồi học Ma Ha Chỉ Quán với ngài Cửu Cao Thanh. Một hôm do đọc bộ Thiên Thai Tứ Giáo Nghi Tập Chú của ngài Mông Nhuận có chỗ ngộ, dần dần quán thông giáo nghĩa Thiên Thai. Do vậy, Sư tôn ngài Mông Nhuận làm viễn tổ, thề xiển dương giáo nghĩa Thiên Thai. Tuổi già, Sư chuyên tu Niệm Phật tam-muội, được nhà Minh phong chức Tăng Lục Ty Hữu Thiện Thế vào năm Hồng Vũ 26 (1393), giữ nhiệm vụ khảo thí Tăng đồ. Năm Vĩnh Lạc thứ 3 (1405), Sư vâng chiếu vào kinh giảo duyệt kinh Phật. Sư để lại những tác phẩm Tịnh Độ Chỉ Quy, A Di Đà Kinh Lược Giải, Kim Cang Kinh Lược Giải v.v... Do Ngài sống vào cuối đời Nguyên, tịch đầu đời Minh nên bộ A Di Đà Kinh Lược Giải được biên soạn vào đời Nguyên.

19 Nhằm phân biệt lời giải thích của Tổ với chánh kinh, trước những lời chú giải của Tổ, cụ Lưu Thừa Phù đề chữ Giải, còn trước phần chánh kinh thì ghi chữ Kinh.

20 Thời cổ, chữ Thuyết (說: nói) và Duyệt (悅: vui vẻ) được dùng lẫn cho nhau. Đại sư dùng ngay ý này để giải thích tuyệt khéo: Thuyết là nói ra để thỏa mãn bổn hoài độ sanh của chính mình. Do thấy chúng sanh căn cơ chín muồi, có thể tiếp nhận pháp vô thượng này nên vui sướng nói ra.

21 Thông thường, các vị cổ đức chú giải thường chia tên gọi của một bộ kinh ra làm hai phần: Thông Đề và Biệt Đề. Thông Đề là tên chung của các kinh (chỉ gồm một chữ Kinh), và Biệt Đề là tên riêng của kinh đó. Chẳng hạn, Phật Thuyết A Di Đà Kinh thì Kinh là Thông Đề, còn Biệt Đề là Phật Thuyết A Di Đà.

22 Hoàng Cực Số là một phép bói toán vận mạng dựa theo nguyên tắc và lý luận trong bộ Hoàng Cực Kinh Thế Thư của Thiệu Ung (Thiệu Khang Tiết). Sách này dựa trên lý luận của kinh Dịch để hình thành một hệ thống lý luận bói toán độc đáo.

23 Có hai cách giải thích câu này:

1. Kinh Phật do đức Phật, đệ tử Phật, tiên nhân, chư thiên và hóa nhân (người được biến hóa) nói ra. Đây là quan điểm của ngài Tịnh Ảnh trong Vô Lượng Thọ Kinh Nghĩa Sớ.

2. Năm loại người nói kinh là Phật, Bồ Tát, Thanh Văn, chúng sanh, khí thế gian (vật chất như núi, sông, đại địa). Đây là quan điểm của Hoa Nghiêm Kinh Sớ.


24 Duyên lự: Gọi đủ là “tâm duyên niệm lự”. Đây là từ ngữ diễn tả sự phân biệt, chấp trước của thức thứ sáu. Do tâm (vọng tâm) tiếp xúc (duyên) trần cảnh (Sắc, Thanh, Hương, Vị, Xúc, Pháp), khởi lên suy nghĩ, so đo, tính toán, yêu ghét v.v... Những ý niệm đó đều gọi chung là “tâm duyên niệm lự”.

25 Thể ở đây có thể tạm hiểu như khái niệm bản thể trong triết học, tức thực chất của một sự vật, bản tánh chân thật của một sự vật. Có thể dùng một tỷ dụ để tạm hiểu như thế này. Các món như xuyến, vòng, bông tai, nhẫn, lắc, dây chuyền v.v... đều chế bằng vàng, thì vàng là Thể của những vật đó. Những vật đó là Tướng của vàng. Tuy tướng khác nhau (ta có các món trang sức khác nhau), nhưng Thể chỉ một (tức là chúng đều là vàng). Các pháp, ngay cả các kinh Đại Thừa thiên sai vạn biệt nhưng Thể của chúng chỉ là một, cái Thể ấy tạm gọi bằng Thật Tướng. Ngay cả chữ Thật Tướng cũng chỉ là giả danh, tạm đặt ra để nhằm diễn tả Thể mà thôi.

26 Nhất Nguyên Luận (Monism): Học thuyết cho rằng thế giới chỉ từ một cội nguồn mà có. Thuyết này còn gọi là Bản Nguyên Luận. Quan điểm duy vật cho rằng cội nguồn của thế giới, vạn vật chỉ là do vật chất, còn duy tâm cho cội nguồn của thế giới là tinh thần.

Nhị Nguyên Luận (Dualism) cho rằng vũ trụ do hai yếu tố căn bản, tồn tại độc lập tạo thành. Điển hình của thuyết này như Descartes cho rằng vũ trụ do hai nguyên tố là tinh thần và vật chấp hợp thành, hoặc Bái Hỏa Giáo ( Zoroastrianism) cho rằng thế giới do hai thế lực quang minh và hắc ám tạo thành v.v...



Đa Nguyên Luận (Pluralism) quan niệm thế giới do nhiều nguyên tố bất đồng tạo thành. Quan niệm này đã có từ cổ Hy Lạp, chẳng hạn như Empedocles cho thế giới do nước, không khí, gió và lửa tạo thành.

27 [Chú thích của cư sĩ Lưu Thừa Phù]: Kinh Lăng Nghiêm quyển hai, có câu “Đương xứ xuất sanh, tùy xứ diệt tận”, ý nói: Hết thảy tướng huyễn hóa trong thế gian đều do một niệm vọng tâm của chúng ta huyễn hiện. Câu này chỉ rõ các pháp do nhân duyên sanh, đã không có thực thể, chỉ có giả danh, giả tướng, cho nên bản thể của chúng là không. Tướng huyễn hóa tuy giả, nhưng tánh nó vốn chân. Tánh ấy, xét về Thể, là vô tướng, nhưng có thể hiện ra các tướng. Tánh ấy là chỗ nương tựa cho các tướng. Hết thảy tướng đều do Tánh biến hiện. Tánh là chủ thể biến hiện (Năng Biến), Tướng là đối tượng được biến hiện (Sở Biến). Tánh là chân thật, không hư vọng, cho nên đặt tên là Thật Tướng. Thật Tướng vô tướng, chẳng phải là không có tướng. Tánh tuy chẳng có tướng, nhưng có thể hiện tướng. Hết thảy tướng đều duyên theo Tánh để khởi, nên nói là “vô bất tướng” (chẳng phải là hoàn toàn không có tướng gì). Đây chính là nhằm biểu thị tướng trạng chân thật của Tánh thể (bản thể của Tánh). Do vậy, Không và Hữu chẳng hai, Tánh và Tướng viên dung, cũng chính là nghĩa lý đã được dạy trong Tâm Kinh: “Sắc tức là Không, Không tức là Sắc”. Vì thế, pháp sư nói: “Nếu tâm thanh tịnh đạt đến mức kha khá thì mới có thể lãnh hội Chân Không chẳng phải là Không, Diệu Hữu chẳng phải là Có”. Các đồng tu sơ cơ đối với câu nói này có thể chẳng hiểu rõ trọn vẹn, nên tôi đặc biệt thêm vào mấy câu để quý vị tham khảo.

28 Hai cái mười vạn tám ngàn (2x10.800 = 21.600). Vì một giây có bốn lần khảy ngón tay, mỗi khảy ngón tay là 60 sát-na, mỗi sát-na có 900 lần sanh diệt, vì thế: 4x60x900=21.600 lần.

29 Theo cách giải thích của tông Thiên Thai, “như thị” trong Thập Như Thị diễn tả ý nghĩa hết thảy đều viên dung, xét về bản thể là một. Hiểu đơn giản, Tướng là sự biểu hiện, sự tướng; Tánh là không biến đổi, tức bản tánh nội tại của vật. Thể là bản chất thật sự của Tánh và Tướng (Tánh và Tướng chỉ là hai khía cạnh của Thể, tùy theo nhìn từ góc độ nào), Lực là tác dụng, năng lực của Thể, Tác là biểu hiện, tạo tác của Lực, Nhân là nguyên nhân trực tiếp, Duyên là nguyên nhân gần giúp cho Nhân thành tựu, Bổn là tướng trạng ban đầu, Mạt là quả báo cuối cùng. Đẳng là bình đẳng. Nói cách khác, mười món như thị này nói lên trọn vẹn Thể, Tướng, Dụng của các pháp trong thế gian, không thiếu sót một điều nào. Tất cả hữu tình chúng sanh nói quy nạp đều thuộc về mười pháp giới. Trong mười pháp giới, mỗi pháp giới lại có mười pháp giới, nhân lên thành một trăm pháp giới nên gọi là Bách Giới. Con số một trăm này tượng trưng cho ý nghĩa viên mãn, trùng trùng vô tận. Trong một trăm giới đó, mỗi một pháp đều trọn đủ mười món như thị, nên thành ra một ngàn món như thị (thiên như). Do vậy, “bách giới thiên như” là một từ ngữ phiếm chỉ toàn bộ các pháp và mọi đặc tánh, mọi khía cạnh của chúng.

30 Theo Viên Anh pháp sư, chữ “vắng lặng” (tịch tĩnh) ở đây hàm nghĩa bất biến. Chiếu hàm nghĩa tùy duyên. Tịch là nói tánh của Thật Tướng, bất biến hàm nghĩa nơi thánh chẳng tăng, nơi phàm chẳng giảm. Nói Tịch hay nói Chiếu đều là phân biệt, còn thuộc trong vòng đối đãi, nên mới nói “Thể chẳng phải là Tịch, chẳng phải là Chiếu”.

31 Để dễ hiểu câu này, xin tạm mượn một cách giải thích của Viên Anh pháp sư: “Bất biến nhưng tùy duyên, tùy duyên nhưng luôn bất biến”. Sư còn dùng một hình ảnh như sau: Thể của chân tâm giống như tấm gương. Gương không bị xao động bởi bất cứ hình ảnh nào đối trước nó, người Hồ, người Hán, vật xấu, vật đẹp, gương không phân biệt (đó là Tịch, là “bất biến”), nhưng vật gì soi trước gương, gương đều hiện bóng (đó là chiếu, là tùy duyên). Tức là gương không phân biệt, không xao động bởi hình ảnh, nhưng không mất công năng soi bóng. Tuy soi bóng muôn hình vạn tượng, bản chất của gương không bị thay đổi. Tổ Ngẫu Ích nói “tịch nhi phục chiếu, chiếu nhi hằng tịch” nhằm nhấn mạnh hai khía cạnh này tồn tại đồng thời, không tách rời nhau, mà cũng chỉ là nhìn trên phương diện hình tướng vì Thật Tướng chẳng thể nào diễn tả, suy lường được.

32 Chữ “tâm duyên” ở đây hàm nghĩa dùng tâm ý thức phân biệt để suy lường.

33 Tông Duy Thức coi sáu bộ kinh và mười một bộ luận là kinh điển trọng yếu phải nghiên cứu hòng thông hiểu Pháp Tướng: Hoa Nghiêm Kinh, Giải Thâm Mật Kinh, Lăng Già Kinh, Mật Nghiêm Kinh, Như Lai Xuất Hiện Công Đức Trang Nghiêm Kinh và A Tỳ Đạt Ma Kinh. Mười một bộ luận là 1) Du Già Sư Địa Luận 2) Hiển Dương Thánh Giáo Luận 3) Đại Thừa Trang Nghiêm Kinh Luận 4) Tập Lượng Luận 5) Nhiếp Đại Thừa Luận 6) Thập Địa Kinh Luận 7) Quán Sở Duyên Duyên Luận 8) Đại Thừa A Tỳ Đạt Ma Tập Luận 9) Duy Thức Nhị Thập Luận 10) Biện Trung Biên Luận 11) Phân Biệt Du Già Luận. Đôi khi có những vị giảng sư đề xướng thêm vào danh sách trên đây bộ Duy Thức Tam Thập Luận, tạo thành mười hai luận chủ yếu của tông Duy Thức.

34 Thế giới do các vi trần hợp thành. Nếu tạm vận dụng Vật Lý Học cho dễ hiểu thì “vi trần” là những hạt vật chất cơ bản (elementary particles), nhỏ hơn nguyên tử rất nhiều. Bất cứ vật chất nào trong thế gian đều do vi trần hợp thành nên thế giới không thật sự có (vì do các vi trần hợp thành). Các vi trần nếu chia chẻ ra đến tận cùng thì chúng cũng chẳng còn có gì. Vì thế gọi thế giới là Nhất Hiệp Tướng. Nếu cho rằng chúng thật sự không có thì lại trở thành chấp Không, vì thế giới có hiện hữu (tuy là giả tướng).

35 [Ghi chú của cư sĩ Lưu Thừa Phù] Sách Yếu Giải của Ngẫu Ích đại sư, văn lẫn nghĩa rất sâu, may nhờ pháp sư phân tích đến mức tinh vi nên mới nắm được đại ý một cách sơ lược. Đoạn văn trên đây thuộc về phần Biện Thể trong Ngũ Trùng Huyền Nghĩa, tợ hồ chỉ coi Thật Tướng là Thể, chưa đề cập đến những thứ khác. Trong lời chú giải, đại sư cũng nói các pháp Đại Thừa đều lấy Thật Tướng làm Chánh Thể, nhưng Thể của mỗi bộ kinh Đại Thừa cũng sẽ có đặc tánh riêng biệt. Tôi cho rằng phần lớn A Di Đà Kinh thuật bày công đức trang nghiêm trong cõi Cực Lạc. Nếu nói tổng quát, thì kinh này lấy Thật Tướng làm Thể. Nếu chuyên dựa trên kinh này để luận thì lấy sự trang nghiêm nơi y báo và chánh báo trong cõi nuớc Tây Phương làm Thể của kinh so ra sát sao hơn. Do vậy, chẳng nề hà quê kệch, tôi dùng những phần kinh văn đã có, viết nháp thành những tiêu đề nhỏ đơn giản, rõ ràng cho phần Ngũ Trùng Huyền Nghĩa nhằm giúp cho kẻ sơ cơ dễ hiểu. Đúng sai, thích đáng hay chăng, kính xin sư phụ xét soi, sửa đổi.

1. Thích Danh (giải thích tên kinh): A Di Đà Phật, Vô Lượng Quang Thọ.

2. Biện Thể (biện định về Thể): Tây Phương quốc độ, y chánh trang nghiêm.

3. Minh Tông (nêu rõ Tông): Tín nguyện trì danh, nhất thừa diệu quả.

4. Minh lực dụng (thuật lực dụng): Vãng sanh bất thoái, chứng trọn vẹn bốn cõi.

5. Phán giáo tướng (phán định giáo tướng): Tối cực viên đốn, thích hợp cả ba căn.



36 Đây là một chuyện được Phật nêu ra trong mười phen gạn hỏi A Nan nhằm chỉ rõ tánh Thấy. Phật hỏi vua Ba Tư Nặc thấy sông Hằng vào năm 10, 20 tuổi cho đến 60 tuổi như thế nào, chỉ rõ thân có già suy, mặt có nhăn, nhưng tánh Thấy không nhăn, cho thấy trong cái thân sanh diệt có chân tánh chẳng sanh diệt.

37 Chữ “duyên” ở đây có nghĩa là có thể nhận biết, có thể suy tưởng đến. Nói cách khác, khi một thức tiếp xúc một trần, nhận biết trần cảnh đó thì gọi là “căn duyên nơi cảnh”.

38 Chết lòng sát đất (tử tâm tháp địa): Dứt tuyệt những mong ngóng quá phận, so đo, tính toán, cầu may (chẳng hạn, nghe kinh dạy “mười niệm cũng được vãng sanh” bèn tính toán: Niệm Phật mỗi ngày làm gì cho mệt? Chờ đến già, gần chết, niệm Phật vẫn còn kịp), trọn lòng trọn ý nơi pháp môn này, giống như cõi lòng đã nguội lạnh nên gọi là “tử tâm” (chết lòng). Nhận biết căn cơ của chính mình thuộc phàm phu, độn căn, dốc lòng phát nguyện cầu sanh để được về Tịnh Độ là nơi có hoàn cảnh tu học tốt đẹp hòng dễ tấn tu, không ngạo nghễ, kiêu căng, không tự phụ “chỉ có ông già bà cả dốt nát mới niệm Phật, còn ta là kẻ đại căn đại trí thì phải học Giáo, tu Thiền, tu Mật mới xứng”, nên gọi là “tháp địa” (nép sát đất).

39 Trang Sinh là Trang Tử, tên thật là Trang Châu (sống trong khoảng 369-286 trước Công Nguyên), tự là Tử Hưu, người nước Tống. Ông này là một nhà văn học và triết gia sống vào thời Chiến Quốc. Những trước tác của ông được ghi chép thành bộ Nam Hoa Kinh (do Đạo Giáo vào đời Đường đã tôn xưng ông là Nam Hoa Chân Nhân). Trong bộ sách này, có nhiều câu chuyện ngụ ngôn ngụ ý khuyên đời, hoặc châm biếm, chẳng hạn như chuyện Khổng Tử đi khuyên Đạo Chích hãy hối cải, thôi trộm cướp, bị Đạo Chích mạt sát nặng nề.

40 Tướng Phần (còn gọi là Sở Thủ Phần): Theo quan điểm của Duy Thức Học, sự vật bên ngoài và hình ảnh của cảnh giới bên ngoài in bóng vào trong tâm thì gọi là Tướng Phần. Sách Tam Tạng Pháp Số lại cho rằng Tướng Phần chính là các thứ hình tướng, là đối tượng nhận biết của Thức.

41 Đây là từ ngữ “có Tịnh Độ" trong bài Tứ Liệu Giản của tổ Vĩnh Minh Diên Thọ: “Có Thiền, có Tịnh Độ, ví như cọp đội sừng, đời này làm thầy người. Đời sau làm Phật, Tổ. Không Thiền, có Tịnh Độ. Vạn tu, vạn người về, nếu được thấy Di Đà, lo chi chẳng khai ngộ”.

42 Trưởng giả Chúc Hương (Utpala-bhūti) là vị thiện tri thức thứ 21 trong 53 vị thiện tri thức được Thiện Tài đồng tử tham học. Ngài tên là Ưu Bát La Hoa (hoa sen xanh), có tiệm bán hương ở nước Quảng Đại, nên được gọi là trưởng giả Chúc Hương. Vị này dạy Thiện Tài pháp môn Điều Hòa Nhất Thiết Hương. Do tu môn giải thoát này mà tỵ căn thanh tịnh.

43 Kinh Quán Vô Lượng Thọ Phật gồm mười sáu phép Quán nên còn gọi là Thập Lục Quán Kinh, nhưng thật sự chỉ có mười ba phép Quán (quán mặt trời lặn, quán nước đóng thành băng, quán đất báu, quán cây báu, quán ao báu, quán toàn bộ y báo, quán tòa hoa sen, quán hình tượng Phật, quán chân thân của A Di Đà Phật, quán thân tướng Quán Thế Âm Bồ Tát, quán tưởng thân tướng của Đại Thế Chí Bồ Tát, quán tưởng chính mình vãng sanh, quán thân tướng trượng sáu của Phật (đây chính là phép Quán Tượng như Hòa Thượng Tịnh Không đã nói), ba phép Quán cuối giảng về ba bậc chín phẩm vãng sanh, là nói về chánh nhân, phẩm vị và cảnh tượng vãng sanh.

44 Phạm Võng Kinh Huyền Nghĩa là một tác phẩm nhằm giảng về Ngũ Trùng Huyền Nghĩa của Phạm Võng Kinh Bồ Tát Tâm Địa Phẩm do Ngẫu Ích đại sư soạn.

45 Nguyên văn “câu sanh nhi khởi”. “Câu sanh” có nghĩa là sanh ra đã có, tự nhiên mà có, giống như con người được sanh ra thì loại phiền não này cũng sanh theo nên gọi là “câu sanh”. Xét đến sự hưng khởi của phiền não thì có hai loại:

1. Phân biệt khởi: Do nghe tà sư, tà thuyết, hoặc do suy nghĩ xằng bậy, chấp trước mà khởi phiền não thì gọi là Phân Biệt Khởi.

2. Câu sanh khởi: Đối trước trần cảnh tự khởi phiền não, thì gọi Câu Sanh Khởi.


46 Đoạn chứng: Đoạn phiền não, chứng Pháp Thân.

47 Quyền Giáo Bồ Tát là đối với Thật Giáo Bồ Tát mà nói. Quyền Giáo là những giáo pháp quyền biến, nhằm hướng dẫn người tu từ từ thâm nhập Đại Thừa. Ví dụ như trong Quyền Giáo, quan niệm có nhân trước, quả sau, còn Thật Giáo thấy rõ nhân chính là quả, quả chính là nhân, nhân quả chẳng hai. Nói cách khác, Quyền Giáo chưa ngộ Chân Như, còn chấp tướng tu trì, chưa hoàn toàn thấu hiểu Tam Luân Không Tịch.

48 Khổ hạnh ở đây không có nghĩa là hành xác như chỉ ngủ ngồi không nằm, nhịn ăn v.v... mà là “làm được những việc người khác không thể làm, chịu đựng những việc người khác không thể chịu”, dứt bỏ những tập khí quen hưởng thụ sung sướng, biếng nhác của chính mình, giảm thiểu nhu cầu đến mức thấp nhất.

49 [Chú thích của cư sĩ Lưu Thừa Phù] Trong đoạn văn trên đây, Hòa Thượng nói phải đoạn tám mươi tám phẩm Kiến Hoặc trong thế giới. Tám mươi tám phẩm Kiến Hoặc được gọi là tám mươi tám Sử, liệt kê như sau:

Kiến Hoặc

Dục GiớiKhổ (tham, sân, si, mạn, nghi, thân kiến, biên kiến, tà kiến, kiến thủ kiến, giới cấm thủ kiến)10 Sử

32 Sử Tổng cộng 88 Sử


Tập (trừ thân kiến, biên kiến, giới cấm thủ kiến)7 SửDiệt (giống như trên)7 SửĐạo (trừ thân kiến, biên kiến)8 SửSắc Giới Khổ (trừ sân)9 Sử


28 SửTập (trừ sân, thân kiến, biên kiến, giới cấm thủ kiến)6 SửDiệt (giống như trên) 6 SửĐạo (trừ sân, thân kiến, biên kiến)7 SửVô Sắc GiớiKhổ (trừ sân)9 Sử

28 SửTập (trừ sân, thân kiến, biên kiến, giới cấm thủ kiến)6 SửDiệt (giống như trên)6 SửĐạo (trừ sân, thân kiến, biên kiến)7 Sử



50 [Chú thích của cư sĩ Lưu Thừa Phù]: Trong đoạn văn trên đây nhắc tới Tiểu Thừa Tu Đà Hoàn, sợ hàng sơ học cảm thấy bỡ ngỡ, nên ở đây tôi giảng đại lược.

1. Tu Đà Hoàn (Srotāpanna) là thánh nhân Sơ Quả trong Tiểu Thừa, dịch là Nhập Lưu, hoặc Dự Lưu, tức là tham dự vào dòng Thánh, ngộ pháp tánh bình đẳng. Còn gọi là Nghịch Lưu, ngụ ý: Ngược dòng sanh tử, vào biển thánh trí.

2. Đoạn tám mươi tám Sử trong tam giới, hết sạch Kiến Hoặc, đắc pháp nhãn tịnh, thấy lý Chân Không, lại trải qua bảy lần sanh tử liền nhập Niết Bàn.

3. Vào trong dòng pháp tánh của bậc thánh nhân, ngược dòng lục trần của phàm phu.

4. Chẳng nhập trong tướng của hết thảy cảnh giới lục trần Sắc, Thanh, Hương, Vị, Xúc, Pháp. Do tình thức đã rỗng không, không còn Ngã, Ngã Sở, nên chẳng vào trong lục trần. Đã chẳng nhập lục trần nên tuy Tu Đà Hoàn xưng là Nhập Lưu cũng chẳng tự cảm thấy mình đã dự vào dòng thánh, chẳng qua giả gọi là Nhập Lưu mà thôi, nên nói là “vô sở nhập”. Đắc quả chính là vì vô niệm, hễ khởi niệm sẽ chẳng đắc quả. Do vậy, kinh Kim Cang chép: “Tu Bồ Đề nói: - Bạch Thế Tôn, không ạ! Vì cớ sao? Tu Đà Hoàn gọi là Nhập Lưu, nhưng chẳng có gì để nhập, chẳng nhập Sắc, Thanh, Hương, Vị, Xúc, Pháp, nên gọi là Tu Đà Hoàn”.


51 Hàm thức (Sattva) còn dịch là Tát Đỏa, Hữu Tình, Hàm Linh, Hàm Sanh, Bẩm Thức, hoặc Chúng Sanh, tức là hết thảy những sinh vật có tâm thức. Từ ngữ này thường được dùng chỉ cho hết thảy chúng sanh trong lục đạo.

52 Trong chữ “tuyệt đãi”, đãi là “đối đãi”, tức là thấy có hai bên, có tương đối. Hễ thấy Có thì phải thấy Không, thấy Khổ thì sẽ thấy Lạc. “Đối đãi” còn được gọi bằng danh xưng “nhị biên”. Gọi là tuyệt đãi viên dung vì không còn thấy có nhị biên, nhưng cũng chẳng thấy là chính mình không thấy còn có đối đãi.

53 Ngũ Thừa: Có nhiều cách hiểu như sau:

1. Nhân Thừa, Thiên Thừa, Thanh Văn Thừa, Duyên Giác Thừa và Bồ Tát Thừa (quan điểm này được đề xướng bởi Pháp Hoa Huyền Luận và được dùng phổ biến nhất trong phán giáo).

2. Ngũ Thừa là Thiên Thừa (pháp sanh trong Dục Giới), Phạm Thừa (tức những giáo pháp tu lên cõi Sắc và Vô Sắc), Thanh Văn Thừa, Duyên Giác Thừa và Phật Thừa. Đây là quan điểm của Lăng Già A Bạt Đa La Bảo Kinh.

3. Ngũ Thừa là Nhất Thừa, Bồ Tát Thừa, Duyên Giác Thừa, Thanh Văn Thừa, Tiểu Thừa (Tiểu Thừa ở đây có nghĩa là nhân thiên thừa). Đây là quan điểm của riêng Hoa Nghiêm Tông.

4. Ngũ Thừa là Thanh Văn Thừa, Độc Giác Thừa, Vô Thượng Thừa, Chủng Chủng Thừa và Nhân Thiên Thừa. Đây là thuyết được giảng trong Xưng Tán Đại Thừa Công Đức Kinh.

5. Theo Chân Ngôn Tông, Ngũ Thừa là Nhân Thừa, Thiên Thừa, Thanh Văn Thừa, Duyên Giác Thừa, Bồ Tát Thừa (gần giống quan điểm thứ nhất, nhưng Chân Ngôn Tông phối hợp mỗi thừa với một Đại, chẳng hạn Nhân Thừa là Địa Đại).

6. Tông Thiên Thai phán định Ngũ Thừa là Nhân Thừa, Thiên Thừa, Thanh Văn Duyên Giác Thừa, Bồ Tát Thừa và Phật Thừa (tức là gộp chung Thanh Văn và Duyên Giác thành một thừa).

Như vậy, Bồ Tát Thừa được nói ở đây chỉ có thể hiểu theo cách thứ nhất hoặc cách thứ sáu.



54 A Già Đà (Agada), còn dịch là Phổ Khử, Vô Giá, Vô Bệnh, Bất Tử Dược, còn phiên âm là A Kiệt Đà hoặc A Yết Đà, những từ ngữ này đều có nghĩa là thuốc trị chung hết mọi căn bệnh.

55 Ngũ Quan: Thông thường, Ngũ Quan được hiểu là mắt, mũi, tai, miệng, lưỡi.

56 Bộ luận này có tên gọi đầy đủ là Phật Địa Kinh Luận (Buddhabhūmi-sūtra-sāstra) do các vị như Thân Quang v.v... trước tác, ngài Huyền Trang dịch ra tiếng Hán. Ngài Thân Quang (Bandhu-prabha) là học giả thuộc Duy Thức Học của Ấn Độ, đệ tử của đại luận sư Hộ Pháp (Dharmapāla). Nội dung luận này giải thích những khái niệm trọng yếu trong kinh Hoa Nghiêm như thanh tịnh pháp giới, đại viên kính trí, bình đẳng tánh trí, diệu quán sát trí, thành sở tác trí v.v...

57 Chữ “nước” ở đây không hẳn là một quốc gia mà phải hiểu gần như là “quận quốc” tức nước phong của vua chư hầu tại Trung Hoa, hoặc các nước nhỏ ở Trung Hoa thời Xuân Thu Chiến Quốc. Xá Vệ vừa là tên của một vương triều lớn (tức vương triều Kiều Tát La - Kasi Kosala) ở Ấn Độ, vừa là tên của đô thành vương triều ấy. Tại Ấn Độ thuở ấy có nhiều vương triều tồn tại, đồng thời, lãnh thổ của mỗi vương triều ấy thường được kinh điển gọi là Quốc, và người thời ấy có thói quen thường đồng nhất tên kinh đô với tên quốc gia. Do vậy, chữ “Xá Vệ Quốc” ở đây nếu nói tỉ mỉ thì là kinh thành Xá Vệ của vương quốc Xá Vệ.

58 Lý Thể có thể tạm hiểu là bản thể của một pháp xét theo mặt Lý. Các pháp thiên hình vạn trạng, nhưng Thể của chúng là Không nếu xét theo mặt Lý, đừng nhìn theo hình tướng. Do vậy, ta thường nói Lý Thể của các pháp là Không.

59 Tăng Quốc Phiên (1811-1872), tự Bá Hàm, hiệu Địch Sanh, thụy hiệu Văn Chánh, quê ở phủ Trường Sa, tỉnh Hồ Nam, cháu bảy mươi đời của Tăng Sâm, vừa là chính trị gia, quân sự gia, Lý Học gia và văn học gia đời Thanh. Ông được coi là công thần trung hưng bậc nhất của nhà Thanh, làm quan đến chức Anh Vũ Điện Đại Học Sĩ, Lưỡng Giang Tổng Đốc, tước phong Nhất Đẳng Nghị Dũng Hầu, đời đời tập ấm. Công lao lớn nhất của ông là dẹp yên loạn Thái Bình Thiên Quốc, ông cũng được coi là đại biểu xuất sắc nhất của Đồng Thành Học Phái (một trường phái văn chương cuối đời Thanh, có ảnh hưởng rất rộng đến mọi trào lưu văn học thời ấy).

60 Cấp Cô Độc có nghĩa là nuôi dưỡng, châu cấp trẻ mồ côi và kẻ không con, không nơi nương tựa). Anāthapindada là tiếng Bắc Phạn (Sankrit), thông thường, tên ông thường được các sách vở ghi theo tiếng Nam Phạn (Pali) là Anathapindika. Đôi khi kinh sách Hán Truyền còn gọi ông là trưởng giả Cấp Cô, hoặc trưởng giả A Na Bân. Theo kinh chép, ông sang thành Vương Xá (Rājagrha) để thăm chị. Chị ông ta cũng là vợ của một vị trưởng giả nổi tiếng tại Vương Xá. Thấy cả nhà anh rể bận bịu chuẩn bị tiệc tùng, ông ngỡ họ làm đám cưới, hỏi ra, mới biết họ chuẩn bị vật thực để cúng dường cho Phật và tăng đoàn vào hôm sau. Nghe đến tên Phật, ông sanh hỷ tâm vô lượng, đang đêm đi đến vườn Sitāvana nơi Phật ngự. Do tín tâm, đường đi sáng ngời, trên đường, ông thấy miếu thờ trời, vào lễ bái, trời lại tối om như cũ, kinh sợ muốn trở về. Dạ xoa Sīvaka bèn nói kệ khuyến khích, ông tiếp tục đi, trời lại tỏa sáng như cũ. Đến nơi, thấy Phật đang đi kinh hành thiền định trong vườn. Đức Phật từ bi thuyết pháp khiến Tu Đạt Đa pháp hỷ sung mãn, liền đắc quả Tu Đà Hoàn. Ông bèn cung thỉnh Phật sang Xá Vệ thuyết pháp độ sanh.

61 Năm vị xuất gia là tỳ-kheo Đức Vân, tỳ-kheo Hải Vân, tỳ-kheo Thiện Trụ, tỳ-kheo Hải Tràng, và tỳ-kheo Thiện Hiện.

62 Thật ra, ở Nhật Bản lưu hành hai loại cà-sa chánh yếu:

1. Loại nhỏ, đeo ở cổ như hòa thượng vừa nhắc đến, gọi là Rakusu (絡子: Lạc tử) hoặc Ô-Kuwara (大掛絡: Đại quải lạc). Loại này trông như một cái túi nhỏ hình chữ nhật, có quai đeo vào cổ, thân túi được kết bằng 16 miếng vải may chằm lại, viền quanh mép, có cả khoen và móc đeo, kết cấu giống như một tấm ca-sa thu nhỏ. Tùy theo từng tông phái mà Rakusu có màu sắc và may bằng chất liệu khác nhau. Có những tông phái, tăng sĩ đeo những tấm Rakusu may bằng vải lụa gấm rực rỡ, thêu thùa rất công phu. Riêng tín đồ Tào Động tông tại Nhật Bản khi thọ giới, được trao truyền một tấm Rakusu màu xanh dương. Thông thường, mặt trước tấm Rakusu trông giống như cà-sa thu nhỏ, mặt sau có thêu biểu hiện của một tông phái, chẳng hạn tông Lâm Tế thêu hình ba ngọn núi, tông Hoàng Bá thêu ngôi sao sáu cánh. Người Nhật tin rằng: Khi hoàng đế Trung Hoa hủy diệt đạo Phật, bắt Tăng sĩ hoàn tục, phá chùa chiền, chư Tăng bèn lén lút chế ra một bức cà-sa thu nhỏ như vậy để đeo dưới lớp áo thường nhằm nhắc nhở mình vẫn là tu sĩ và do vậy, thiền sư Đạo Nguyên (Dogen) của Nhật Bản sang Trung Hoa cầu pháp vào năm 1224 đã mang Rakusu về nước.

2. Thứ hai là loại y cà-sa (thường gọi là Kesa) nhỏ hơn y cà-sa của Trung Hoa màu sắc và chất liệu cũng thay đổi tùy theo từng tông phái. Thông thường các thiền phái mặc y àa-sa gần giống Trung Quốc, màu sắc thường xám, xanh đậm, đen, hoặc vàng úa. Trong các tông phái khác, y cà-sa chỉ nhỏ bằng một phần ba y Trung Quốc, bằng lụa là, gấm vóc rực rỡ, nhất là trong các tông Tịnh Độ, Thiên Đài, Hoa Nghiêm, Chân Ngôn. Trong một số pháp hội, y cà-sa thường may bằng gấm hay lụa, hoặc các thứ vật liệu rực rỡ khác, có hoa văn tròn to, đeo lên vai bằng một sợi dây lớn chéo qua vai phải, chỉ che khoảng nửa lưng đến trên đầu gối, chứ không choàng lên vai như loại ca-sa truyền thống. Loại này còn chia ra thành hàng chục loại nữa như luân cà-sa, điệp ngũ điều, oai nghi tế, huyền linh, bình cà-sa, giáp cà-sa, nạp cà-sa, viễn sơn cà-sa v... Nói chung là do kích thước lớn nhỏ, cách may “điều” và số lượng điều cũng như chất liệu sử dụng khác nhau mà có nhiều loại như thế.

Các tăng sĩ Nhật thuộc các phái Thiền, Thiên Đài, và Chân Ngôn Tông vẫn mặc áo tràng. Thông thường, họ chỉ mặc áo tràng và đeo Rakusu khi tụng kinh, thuyết pháp, khi nào có pháp hội mới đắp cà-sa. Các tăng sĩ thuộc các phái khác như Tịnh Độ Tông, Tịnh Độ Chân Tông, Nhật Liên Tông thường không cạo tóc, chỉ cắt tóc ngắn, luôn mặc đồ tây, đeo cà vạt, khi lên làm lễ mới khoác áo tràng ra ngoài và đeo Rakusu hay đắp cà-sa. Đôi khi, họ chỉ đeo Rakusu, không mặc áo tràng.



63 Ngài Da Xá đôi khi còn được ghi là Yaśoda (do vậy, còn phiên âm là Gia Thâu Đa), dịch nghĩa là Danh Văn hoặc Thiện Xưng, người xứ Ba La Nại (Vārānasī), là con của trưởng giả Thiện Giác. Do chán nhàm thế tục, Ngài đến xin xuất gia với Phật, trở thành vị đại đệ tử thứ sáu (sau năm anh em ngài Kiều Trần Như). 49 người kia là bạn bè thân thiết của ngài Da Xá. Khi Ngài xuất gia, cha mẹ buồn phiền, yêu cầu các bạn bè hãy đến khuyên giải. Khuyên không được, họ bèn giả vờ xuất gia để tìm cách dụ Ngài hoàn tục, nhưng sau khi nghe Phật thuyết giảng, tất cả đều chứng Sơ Quả.

64 Tứ Thiền (Catvāri-dhyānāni ) còn gọi là Tứ Tịnh Lự, Tứ Sắc Giới Định, tức các món Thiền Định trong Sắc Giới. Hợp bốn món Thiền của Sắc Giới với bốn món Thiền của Vô Sắc Giới sẽ thành Bát Định.

65 Văn Sức (文飾) có nghĩa là lời nói văn nhã, đẹp đẽ, bóng bẩy, thanh tao.

66 Gọi là “nghĩa trì bậc nhất” vì từ một câu kệ rất ngắn ngủi, Ngài có thể ngộ ra bao nhiêu nghĩa lý. Kinh chép đức Phật thấy Ngài học trước quên sau, không thể nào nhớ được một bài kệ nào, bèn dạy Ngài hãy dạy niệm hai chữ “tảo chửu” (cây chổi để quét dọn). Phật sai Ngài quét dọn tinh xá, vừa dọn vừa niệm hai chữ ấy. Thế mà chật vật mãi Ngài mới nhớ được. Sau một thời gian Ngài ngộ được vô biên nghĩa lý từ hai chữ ấy, chứng quả A La Hán. Khi được cử đi thuyết pháp cho chư ni, các vị ni cười cợt vì nghĩ Ngài nổi tiếng dốt nát, biết gì mà nói. Ngài lên tòa chỉ nói ngắn gọn: “Thưa các vị! Tôi độn căn u tối, không biết nói gì. Đức Phật dạy tôi học hai chữ ‘tảo chửu’. Từ đó, tôi nghĩ quét dọn bụi bặm bên ngoài không quan trọng bằng quét dọn bụi bặm trong tự tâm. Tất cả các pháp môn tu học trong Phật pháp không ngoài quét sạch phiền não trong tự tâm”. Chư ni giật mình, cúi lạy sám hối, hết sức kính phục vì Ngài đã nắm được tinh tủy của Phật pháp. Do vậy, Ngài được tôn xưng là bậc Nghĩa Trì đệ nhất.

67 Do lý do này, mỗi khi trai tăng, các tự viện Trung Hoa thường để trống một ghế giữa bàn chủ tọa, nhằm cung thỉnh ngài Tân Đầu Lô chứng giám. Cũng như khi tác bạch thỉnh tăng thọ trai, luôn niệm danh xưng của trưởng lão Tân Đầu Lô Phả La Đọa.

68 Sao Phòng (Phòng Tú, gọi đầy đủ là Phòng Nhật Thố) là một trong Nhị Thập Bát Tú. Nhị Thập Bát Tú không phải là 28 ngôi sao riêng lẻ mà là hai mươi tám chòm sao (tinh cung) theo Chiêm Tinh Học Trung Hoa. Người Hán chia bầu trời thành bốn khu vực, gọi là Thanh Long (phương Đông), Huyền Vũ (phương Bắc), Bạch Hổ (phương Tây), và Châu Tước (phương Nam). Trong mỗi khu, lại chia thành 7 tinh cung. Do vậy, có khái niệm Nhị Thập Bát Tú. Phòng Tú là tinh cung thứ tư trong bảy tinh cung thuộc phương Đông, được coi là “bụng rồng” vì nằm chính giữa vị trí Thanh Long. Chòm sao này được gọi tên theo ngôi sao chánh là sao Phòng (Phòng tinh). Phòng Tú Tinh Cung gồm bảy ngôi sao là Phòng, Câu Linh, Kiện Bế, Phạt, Đông Hàm, Tây Hàm, Nhật Tinh và Tùng Cung.

69 Theo Wikipedia, từ ngữ Maitreya phát xuất từ Maitrī (từ ái). Sở dĩ chữ Maitreya bị phiên âm thành Di Lặc là dựa trên cách phát âm của những nhà dịch kinh thời Hậu Hán, đa số những vị này đến từ Nhục Chi và Quý Sương (thuộc vùng Bactria, miền Bắc Afghanistan ngày nay), ngôn ngữ được sử dụng thời đó tại các nước này là tiếng Tocharian. Trong tiếng Tocharian, chữ Maitreya được đọc thành Metrak, nên mới bị phiên thành tiếng Hán là Di Lặc. Ngài Huyền Trang từng dịch danh hiệu này theo âm tiếng Phạn là Mai Đát Lỵ Da. Trong kinh Pháp Hoa, có đôi chỗ, ngài La Thập phiên chữ này thành Di Đa La Ni khi ghi tên ngài Phú Lâu Na là Phú Lâu Na Di Đa La Ni Tử (Purna Maitrayani-putra), nhưng do thói quen, cách phiên âm là Di Lặc vẫn phổ biến nhất.

70 [Chú thích của cư sĩ Lưu Thừa Phù] Theo cách tính nói trên, dùng thọ mạng của trời Đâu Suất để tính toán thì kết quả là năm ức bảy ngàn sáu trăm vạn (576.000.000) năm, không khớp với con số năm mươi sáu ức bảy ngàn vạn năm như kinh đã nói. Ấy là vì trong đơn vị tính toán của Ấn Độ, một Ức là bao nhiêu lại có nhiều cách giải thích:

1. Mười vạn là một Ức.

2. Trăm vạn là một Ức.

3. Ngàn vạn là một Ức.

4. Vạn vạn là một Ức.

Chúng ta chỉ có thể hình dung là trong tương lai rất lâu nữa, Di Lặc Bồ Tát mới giáng sanh trong nhân gian, có ấn tượng thời gian rất dài là được rồi!



71 Tam Hiền là từ ngữ chỉ những vị chưa thuộc vào Thập Địa Bồ Tát, tức Thập Trụ, Thập Hạnh và Thập Hồi Hướng. Đăng Địa là những vị Bồ Tát đã chứng từ Sơ Địa trở lên.

72 “Tam luân thể không” (tức Thí Không, Thọ Không, Thí Vật Không) vốn là từ ngữ nói về sự bố thí, có nghĩa là khi bố thí hoàn toàn phá trừ chấp tướng, chẳng thấy ta là người thí, chẳng thấy có kẻ nhận sự bố thí mà cũng chẳng thấy có vật để bố thí. Từ ngữ này về sau được áp dụng rộng rãi chỉ cho sự không chấp trước khi làm bất cứ việc gì.

73 Do không thể tính kể nên gọi là vô lượng. Nhưng A Di Đà Phật có nhập diệt (thân Phật hiện trong cõi Phàm Thánh Đồng Cư độ) là Ứng Thân. Chúng sanh trong cõi Cực Lạc có lúc nhập diệt để làm Phật nơi phương khác, nên xét theo lý luận thông thường thì do có thời điểm từ thế giới khác sanh về Cực Lạc và thời điểm nhập diệt nên vẫn là hữu lượng (có hạn lượng). Nói hữu lượng hay vô lượng ở đây chỉ là luận theo hoàn cảnh của Phàm Thánh Đồng Cư độ.

74 Tứ Thiền Thiên gồm bốn tầng trời: Sơ Thiền (gồm Phạm Phụ, Phạm Chúng, Đại Phạm Thiên), Nhị Thiền (gồm Thiểu Quang, Vô Lượng Quang, Cực Quang Tịnh), Tam Thiền (gồm Thiểu Tịnh, Vô Lượng Tịnh và Biến Tịnh), Tứ Thiền (Phước Sanh, Vô Vân, Quảng Quả, Vô Phiền, Vô Nhiệt, Thiện Kiến, Thiện Hiện, Sắc Cứu Cánh và Vô Tưởng Thiên).

75 Tứ Không Thiên là bốn cõi trời thuộc Vô Sắc Giới, tính từ dưới lên trên như sau:

1. Không Vô Biên Xứ Thiên (Ākāśānantyāyatana).

2. Thức Vô Biên Xứ Thiên (Vijñānānantyāyatana).

3. Vô Sở Hữu Xứ Thiên (Ākimcanyāyatana).

4. Phi Tưởng Phi Vô Tưởng Xứ Thiên (Naivasamjñānāsamjñāyatana).

Bốn cõi trời này không có sắc thân, chỉ có tâm tưởng, chư thiên chìm đắm trong Không Định.



76 Tứ Duy là lễ, nghĩa, liêm, sỉ. Bát Đức là trung, hiếu, nhân, ái, tín, nghĩa, hòa, bình. Đây là những nguyên tắc đạo đức được đề xướng vào năm Dân Quốc 23 (1934) trong công cuộc vận động nếp sống mới do ủy viên trưởng Tưởng Trung Chánh của Quốc Dân Chánh Phủ Quân Sự Ủy Viên Hội khởi xướng. Những điều này lấy ý tưởng từ bài giảng thứ sáu về Tam Dân Chủ Nghĩa của Tôn Văn và quan điểm Tứ Duy trong sách Quản Tử.

77 Tức là bốn đại bộ châu: Nam Thiệm Bộ Châu (Jambudīpa), Đông Thắng Thần Châu (Pubbavideha), Tây Ngưu Hóa Châu (Aparagoyāna) và Bắc Câu Lô Châu (Uttarakuru, còn gọi là Uất Đan Việt).

78 Lục Thư (六書) là sáu phương thức kết cấu và sử dụng chữ Hán. Khái niệm này được hình thành từ thời Hán (tài liệu trình bày khái niệm Lục Thư sớm nhất là thiên Nghệ Văn Chí trong Hán Thư). Lục Thư gồm:

1. Tượng hình: Mô phỏng hình dạng của sự vật, như chữ Nhật (日) , Nguyệt (月), Thủy (水), Nhân (人), Sơn (山), Khẩu (口) chẳng hạn.

2. Chỉ sự: Tức là nhìn từ mặt chữ, có thể nhận biết được sự vật mà chữ ấy muốn miêu tả, như Thượng (上), Hạ (下), Nhất (一), Nhị (二) chẳng hạn.

3. Hình thanh: Mô phỏng âm thanh của sự vật. Chữ Giang (江) thuộc loại này. Sách Thuyết Văn Giải Tự giảng: “Giang là nước, mô phỏng tiếng nước rơi khi chảy từ sông Tiên ở đất Thục, vượt qua rặng Hôn Sơn, đổ vào biển”.

4. Hội ý: Ghép hai hoặc nhiều chữ đơn thành một chữ để diễn tả một ý. Chẳng hạn chữ Tửu (酒) dùng cái bình ủ rượu (Dậu: 酉) phối hợp với dịch thể (nước 水). Chữ Minh (鳴: có nghĩa gốc là chim kêu), ghép chữ Khẩu (口) với Điểu (鳥: chim), Hiếu (孝) gồm Lão (老) và Tử (子) ghép lại, hội ý người con cõng cha mẹ già.

5. Chuyển chú: Có nhiều cách giải thích, một là hình chuyển (chữ cùng bộ thủ, ý nghĩa tương đồng có thể dùng lẫn cho nhau), hai là nghĩa chuyển (chữ có ý nghĩa giống nhau thì có thể dùng lẫn cho nhau), ba là âm chuyển (thanh âm giống nhau thì có thể dùng lẫn cho nhau), nhưng đến hiện thời, vẫn chưa có ý kiến thống nhất những chữ như thế nào sẽ được coi là Chuyển Chú.

6. Giả tá: Mượn để dùng tạm, tức là vốn không phải là chữ ấy, nhưng có thanh âm giống nhau nên mượn để dùng. Cách này thường áp dụng khi viết tắt. Chẳng hạn, Thuyết (說) và Duyệt (悅) thời cổ đọc cùng một âm nên được dùng lẫn cho nhau.


79 Chữ Thế (世) do ba chữ Thập (十) ghép lại.

80 Ngũ Độn Sử: Năm món phiền não sai khiến con người, do tác dụng của nó không mạnh mẽ lắm, nên gọi là Độn (chậm lụt), gồm: Tham, Sân, Si, Mạn, Nghi.

81 Tam Chỉ là ba Chỉ Hạnh (những hạnh tu tập để dứt trừ phiền não, vọng tưởng) được lập ra bởi tông Thiên Thai dựa trên Tam Quán “Không, Giả, Trung”:

1. Thể Chân Chỉ: Tương ứng với Không Quán. Thấu hiểu vô minh điên đảo là vọng, chính là thấu hiểu Thật Tướng là chân. Thấu hiểu các pháp do nhân duyên hòa hợp, không có tự tánh, sẽ có thể dứt được vọng niệm nắm níu nơi trần cảnh, kiến giải, ý kiến phân biệt v.v... chứng đắc Lý Không. Do vậy sẽ thành tựu Chân Đế tam-muội.

2. Phương Tiện Tùy Duyên Chỉ (Phương Tiện Chỉ): Tương ứng với Giả Quán. Tiếp xúc các trần cảnh, thấu hiểu, nhận biết rõ ràng, nhưng tâm yên ổn không lay động bởi Tục Đế, không chấp trước, biết các pháp đều giả có, biết Không chẳng phải là Không. Do pháp Chỉ này sẽ mở mang Pháp Nhãn, thành tựu Tục Đế tam-muội.

3. Tức Nhị Biên Phân Biệt Chỉ (Chế Tâm Chỉ): Tương ứng với Trung Quán, chẳng phân biệt sanh tử và Niết Bàn, có và không v.v... Bởi lẽ, hai phép Chỉ trên đây thiên trọng Chân Đế và Tục Đế, nên phải có phép Chỉ này để dứt bặt sự thấy có hai Đế. Biết Chân chẳng phải là Chân, Tục chẳng phải là Tục, dứt bặt kiến chấp thấy có hai bên. Đạt cảnh giới này sẽ đắc Trung Đạo Định, mở Phật Nhãn, thành tựu Trung Đạo tam-muội.

Tam Quán dựa theo giáo nghĩa được giảng trong phẩm Hiền Thánh Học Quán của Bồ Tát Anh Lạc Bổn Nghiệp Kinh mà lập ra, gồm:

1. Không Quán (Nhị Đế Quán): Không có nghĩa là lìa cả Tánh và Tướng. Do quán thấy một niệm tâm chẳng phải ở trong, ngoài, khoảng giữa, nên gọi là Không. Hễ một thứ không, thì hết thảy mọi thứ đều không. Nói đơn giản, nhận biết quan điểm của thế tục là Giả (vì không khế hợp chân tướng sự thật), tiến nhập sự thấy biết đúng với chân lý (Không), thấy thấu suốt bản thể của các pháp là Không, nên gọi là Không Quán.

2. Giả Quán (Bình Đẳng Quán): Quán một niệm tâm đầy đủ hết thảy pháp, chẳng dừng nơi Không, tiến nhập Phật trí chiếu khắp hết thảy cảnh giới thuộc Tục Đế.

3. Trung Quán (Trung Đạo Đệ Nhất Nghĩa Quán): dứt bặt mọi đối đãi, chẳng chấp vào Không Quán lẫn Giả Quán, Không Quán và Giả Quán cùng viên dung.



Như vậy, theo thứ tự thông thường: Dùng Không Quán để phá kiến chấp Tục Đế, chứng nhập Chân Đế. Rồi từ đó, dùng Giả Quán để từ Chân chiếu Tục, quay trở lại Tục Đế, tùy duyên mà hóa độ, không chấp trước, hiểu rõ Tục Đế là giả, nhưng chẳng chấp trước vào Không, chẳng bỏ bi nguyện độ sanh. Từ Không Quán và Giả Quán tiến lên Trung Quán để chứng nhập chân lý rốt ráo. Tu tập theo kiểu này gọi là Thứ Đệ Tam Quán.

82 Theo Tứ Giáo Nghi Tập Chú, để chứng Sơ Địa trong Biệt Giáo, phải trừ một phẩm vô minh đầu tiên (thường gọi là Tối Sơ Vô Minh). Từ Sơ Địa lên Đẳng Giác, mỗi địa vị phải phá một phẩm vô minh, tức là lần lượt phải phá thêm mười một phẩm vô minh nữa mới lên được Diệu Giác. Như vậy để đạt lên địa vị Diệu Giác phải phá tất cả mười hai phẩm vô minh.

83 Kháng Chiến ở đây là nói tắt của từ ngữ “Kháng Nhật Chiến Tranh” (còn gọi là Trung Nhật Chiến Tranh), tức thời gian dân Trung Hoa chống lại cuộc chiến xâm lược của quân phiệt Nhật (từ ngày 7 tháng 7 năm 1937 đến ngày 15 tháng 8 năm 1945). Trước đó, từ năm 1931, Nhật đã xâm chiếm ba tỉnh Đông Bắc (Đông Tam Tỉnh) của Trung Quốc. Ngày 7 tháng 7 năm 1937, một toán quân Nhật đồn trú tại huyện Uyển Bình (phụ cận Bắc Kinh) tập trận, đến tối, lấy cớ một số binh lính Nhật mất tích, quân Nhật đòi chánh quyền thành Uyển Bình phải mở cửa thành cho họ lục soát. Khi bị cự tuyệt, quân Nhật đã ra lệnh nổ súng tấn công thành Uyển Bình và chiếm đóng cầu Lư Câu (trên sông Vĩnh Định). Do sự cố này, chiến tranh Trung Nhật nổ ra trên quy mô lớn. Vì vậy, sự kiện này được gọi là Lư Câu Kiều Sự Biến

Каталог: downloads -> giang-kinh
giang-kinh -> Kinh Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai Bổn Nguyện Công Đức
giang-kinh -> Chú Giải Kinh Kim Cang Và Chánh Pháp Chưa Từng Có ht. Huyền VI
giang-kinh -> GIỚi thiệu kinh trung a hàM Điền Quang Liệt Định Huệ Dịch Nguồn
giang-kinh -> Kinh tứ thập nhị chưƠng tt. Thích Viên Giác Dịch
giang-kinh -> Kinh đẠi phậT ĐẢnh như lai mật nhơn tu chứng liễu nghĩA
giang-kinh -> Đại Thế Chí Bồ Tát Niệm Phật Viên Thông Chương Sớ Sao
giang-kinh -> ÐẠo phật ngày nay một diễn dịch mới về ba bộ kinh pháp hoa
giang-kinh -> VỊ trí thánh ðIỂn hoa văn trên phật giáo thế giớI
giang-kinh -> Bàn Về Bốn Bộ a-hàm Lương Khải Siêu
giang-kinh -> Sự Thành Lập Kinh Điển Phật Giáo Daisaku Ikeda (The First Mileage of Buddhism) Nguyên Hảo dịch Nguồn

tải về 3.07 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   ...   24   25   26   27   28   29   30   31   32




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương