Phòng Thống kê – Trung tâm Tin học và Thống kê



tải về 0.81 Mb.
trang7/8
Chuyển đổi dữ liệu05.12.2017
Kích0.81 Mb.
#34980
1   2   3   4   5   6   7   8
Ton / ha




Xuất khẩu nông, lâm, thủy sản

Giá trị xuất khẩu nông lâm thủy sản cả nước tháng 10 ước đạt trên 1,39 tỉ USD, tăng 25,6% so với tháng 10/2007, nhưng giảm 7% so với tháng trước. Giá trị xuất khẩu các mặt hàng nông sản chủ yếu đạt khoảng 646,3 triệu USD, tăng 40% so cùng kì năm trước và giảm 12% so với tháng trước; thuỷ sản ước đạt 470 triệu USD, tăng 27,7% so với tháng 10/2007 và tăng không đáng kể so với tháng trước; các mặt hàng lâm sản ước đạt 238 triệu USD, tăng 1,3% so với tháng 10/2007 và giảm 2% so với tháng trước.

Tổng kim ngạch xuất khẩu toàn ngành 10 tháng đầu năm 2008 ước đạt 13,6 tỉ USD, tăng 25,7% so với cùng kỳ năm ngoái; trong đó các mặt hàng nông sản đạt 7,4 tỉ USD, tăng 42,5%; thuỷ sản đạt 3,8 tỉ USD, tăng 24,2%; lâm sản đạt 2,46 tỉ USD tăng 16,7%. Tính đến nay đã có 5 mặt hàng/nhóm mặt hàng thuộc ngành đạt kim ngạch xuất khẩu trên 1 tỉ USD gồm: thủy sản, gạo, gỗ và sản phẩm gỗ, cà phê và cao su, chiếm gần một nửa trong tổng số 11 mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam đạt kim ngạch trên 1 tỉ USD. Đây cũng là các mặt hàng chiếm tỉ trọng lớn trong tổng kim ngạch xuất khẩu 10 tháng qua của ngành, trong đó thủy sản chiếm 27%, gạo 20%; gỗ và sản phẩm gỗ 17% và cà phê 13%.



Kết quả

xuất khẩu một số mặt hàng chính như sau:

+ Gạo: Ước tháng 10/2008 xuất khẩu 350 ngàn tấn, kim ngạch đạt 230 triệu USD, tăng 10,6% về lượng và 84,5% về giá trị so với tháng 10/2007. Tuy nhiên, so với tháng trước giảm 95 ngàn tấn. Tổng lượng gạo xuất khẩu 10 tháng đầu năm ước đạt trên 4 triệu tấn, kim ngạch đạt 2,65 tỉ USD, so cùng kì năm trước giảm 5,4% về lượng nhưng tăng 90% về giá trị.

Gạo là mặt hàng có mức tăng kim ngạch cao nhất trong các các mặt hàng nông lâm sản trong 10 tháng đầu năm nay, do giá gạo xuất khẩu bình quân 10 tháng đầu năm đạt 649 USD/T, so cùng kỳ năm trước tăng hơn 2 lần (tương đương 326 USD/T). Giá gạo XK bình quân tháng 9/2008 ở mức 587 USD/tấn, giảm 215 USD/tấn so với tháng trước. Hiện giá gạo thế giới vẫn ở trong xu hướng giảm và nhu cầu nhập khẩu của các nước cũng ở mức thấp đã gây khó khăn cho việc ký hợp đồng mới (ngoài số hợp đồng đã ký 4,5 triệu tấn).

+ Cà phê: Ước xuất khẩu tháng 10/2008 đạt khoảng 40 ngàn tấn, giảm 8 ngàn tấn so với tháng trước và đạt trị giá 84 triệu USD. Như vậy xuất khẩu cà phê đã giảm giảm 4% về lượng nhưng tăng 16% về trị giá xuất khẩu so với cùng kỳ năm ngoái. Tổng lượng cà phê xuất khẩu 10 tháng năm 2008 ước đạt 805 ngàn tấn, với giá trị kim ngạch xấp xỉ 1,7 tỷ USD, giảm 20,7% về lượng nhưng tăng 10% về kim ngạch.

Giá cà phê xuất khẩu tiếp tục giảm mạnh. Giá xuất khẩu bình quân tháng 9 chỉ đạt mức 2.112 USD/tấn, giảm 131 USD/tấn so với tháng 8. Giá cà phê xuất khẩu của Việt Nam (FOB thành phố HCM) ngày 22/10/2008 chỉ còn 1.635 USD/tấn, giảm 195 USD/tấn so với những ngày đầu tháng 10.

+ Cao su : Khối lượng cao su xuất khẩu tháng 10/2008 ước đạt 70 ngàn tấn (giảm 2,4% so với cùng kỳ năm trước) và đạt 223 triệu USD (tăng 35,6% về giá trị) đưa tổng khối lượng cao su xuất khẩu 10 tháng đầu năm đạt 519 ngàn tấn, giảm 8,6% so với cùng kỳ năm 2007 nhưng đem lại trị giá cao hơn tới 31% đạt 1,4 tỉ USD. Giá cao su XK bình quân tháng 9/08 ở mức 2.762 USD/tấn, so với tháng 8/08 giảm 216 USD/tấn. Giá cao su tiếp tục giảm trong tháng 10. Trong thời gian nếu giá dầu thô tiếp tục giảm mạnh sẽ khuyến khích sử dụng cao su tổng hợp có giá rẻ hơn, đồng thời sự suy giảm của kinh tế thế giới cũng sẽ làm cho nhu cầu về cao su tự nhiên cũng giảm theo.

+ Chè : Ước xuất khẩu tháng 10/2008 đạt 11 ngàn tấn với kim ngạch đạt 16,3 triệu USD, tăng 1,7% về lượng và 14% về giá trị. Tổng lượng chè xuất khẩu 10 tháng đầu năm ước đạt trên 90 ngàn tấn, kim ngạch đạt 127 triệu USD. Giá chè xuất khẩu trung bình tháng 9/2008 đạt 1.481 USD/tấn, tăng so với tháng 8/2008 khoảng 43 USD/tấn. Giá bình quân 10 tháng đầu năm nay đạt trên 1.400 USD/tấn, tăng 27% (tương đương 300 USD/T) so cùng kỳ năm trước.

+ Điều : Tháng 10/2008, xuất khẩu ước đạt 14 ngàn tấn với kim ngạch gần 82 triệu USD, thấp hơn tháng trước 1,5 ngàn tấn. Mặc dù khối lượng xuất khẩu so với cùng kỳ giảm 6,8% nhưng tăng 23,6% về giá trị đã đưa tổng giá trị xuất khẩu của mặt hàng điều trong 10 tháng đầu năm lên 769 triệu USD, tăng 46,8% so với cùng kỳ năm trước. Giá xuất khẩu bình quân tháng 9/2008 đạt 5.849 USD/tấn, giảm 132 USD/tấn so với tháng trước.

+ Tiêu : Xuất khẩu tháng 10/2008 ước khoảng 6 ngàn tấn, kim ngạch đạt trên 21 triệu USD, giảm 500 tấn so với tháng trước nhưng so với cùng kì năm ngoái tăng 8,5% về lượng và 8,6% về giá trị. Ước xuất khẩu 10 tháng năm 2008 đạt gần 78 ngàn tấn (tăng 12% so cùng kỳ) với giá trị kim ngạch là 274 triệu USD (tăng 22,6% so cùng kỳ năm trước). Giá tiêu xuất khẩu bình quân 10 tháng đầu năm đạt 3.521 USD/T, tăng 9% so với cùng kì năm 2007.



+ Lâm sản và đồ gỗ : Tháng 10/2008, xuất khẩu các mặt hàng lâm sản chính và đồ gỗ ước đạt 238 triệu USD, tăng không đáng kể so với tháng 9/2007. Tổng kim ngạch xuất khẩu 10 tháng đầu năm ước đạt trên 2,46 tỉ USD, tăng 16,7% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, gỗ và sản phẩm gỗ ước đạt trên 2,26 tỉ USD, tăng 18,6%; sản phẩm mây tre, cói thảm ước đạt trên 181,6 triệu USD, tăng 1,3% cùng kỳ năm trước.

+ Thuỷ sản:

Theo thống kê, xuất khẩu thủy sản tháng 9 giảm nhẹ so với tháng trước, nhưng vẫn đạt tăng trưởng cao so với cùng kỳ năm ngoái. Khối lượng xuất khẩu đạt 127,83 nghìn tấn với trị giá 469,06 triệu USD, tăng 48,6% về khối lượng và 34,5% về giá trị so với cùng kỳ năm ngoái.

9 tháng đầu năm 2008, kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản đạt 3.350,3 triệu USD. Trong đó tôm đông lạnh đạt 134,65 nghìn tấn với giá trị 1,159 tỷ USD, tăng tương ứng 20,3% và 8,3%; cá tra, basa đạt 475,57 nghìn tấn với trị giá 1,069 tỷ USD, tăng tương ứng 72,6% và 49,5%; mực, bạch tuộc đạt 65,05 nghìn tấn với giá trị 237,28 triệu USD, tăng tương ứng 7,62% và 15,3% so với cùng kỳ năm ngoái. Cá ngừ có mức tăng trưởng cao về giá trị đạt 140,65 triệu USD, tăng 26,9% và sản lượng đạt 39,6 nghìn tấn, tăng 1,49% so với cùng kỳ. Các mặt hàng khô và các sản phẩm thủy sản khác đều tăng so với cùng kỳ.

Xuất khẩu thuỷ sản tháng 10 tiếp tục tăng và ước đạt 470 triệu USD (10 ngày đầu tháng 10 kim ngạch xuất khẩu thủy sản đạt 154,8 triệu USD). Tổng giá trị xuất khẩu thủy sản 10 tháng đầu năm 2008 ước đạt đạt 3.820 triệu USD, bằng 89,89% so với kế hoạch, tăng 24,2% so với cùng kỳ năm 2007.

Thị trường EU vẫn tiếp tục là thị trường nhập khẩu thuỷ sản số một của Việt Nam với 839,42 triệu USD, tăng 26,1% so với cùng kỳ năm ngoái. Nhật Bản đứng thứ hai với 602,45 triệu USD, tăng 14,4%, tiếp đến là Mỹ ở mức 527,22 triệu USD, tăng 0,3%. Đối với cá tra, basa, thị trường EU dẫn đầu với giá trị 423,94, tăng 20,3% so với cùng kỳ, tiếp đến là Nga với giá trị xuất khẩu 154,64 triệu USD, tăng 185,9% và Ucraina với 104,16 triệu USD, tăng 239,5%. Ngoài ra, Ai cập và một số nước hồi giáo khác cũng đang là thị trường tiềm năng đối với mặt hàng cá tra và basa của Việt Nam.


Nhập khẩu vật tư, phân bón

Tổng giá trị nhập khẩu của các mặt hàng nông sản lâm thuỷ sản và vật tư, nguyên liệu phục vụ nông sản lâm thuỷ sản tháng 10/2008 ước đạt 750 triệu USD, cao hơn tháng 10/2007 khoảng 7 %. Như vậy, trị giá nhập khẩu các mặt hàng liên quan đến ngành nông lâm thuỷ sản 10 tháng đầu năm ước đạt 8,9 tỉ USD, tăng 61,3 % so với cùng kỳ năm ngoái. Một số mặt hàng chiếm tỉ trọng lớn như thức ăn gia súc và nguyên liệu chế biến thức ăn gia súc (chiếm 24%), phân bón (chiếm 22%);, gỗ và sản phẩm gỗ (chiếm 15%).

Kết quả Ccụ thể về nhập khẩu của một số mặt hàng chính như sau :



+ Phân bón : Lượng phân bón các loại nhập khẩu trong tháng 10 ước đạt 175 ngàn tấn, giảm 52,8 % so cùng kỳ. Trong đó, urê giảm 49,5 % (tương đương 50 ngàn tấn), DAP giảm tới 70 % (khoảng 20 ngàn tấn) và SA 45 giảm 53 % (45 ngàn tấn).

Tính đến tháng 10/2008, lượng phân bón nhập khẩu ước khoảng 2,8 triệu tấn với trị giá nhập khẩu gần 1,4 tỷ USD, giảm 6 %% về lượng, nhưng kim ngạch tăng 87,6 % so với cùng kỳ năm trước. Nguyên nhân, do giá phân bón tăng 2 - 2,4 lần so với năm trước. Phân urê nhập khẩu ước đạt 681 ngàn tấn, tương đương 270 triệu USD, tăng 23 % lượng, và 86,7 % về giá trị; DAP - 361 ngàn tấn, kim ngạch 326 triệu USD, giảm 25,6 % về lượng, nhưng tăng 79,8 % về giá trị; Phân SA - 607 ngàn tấn, kim ngạch 165 triệu USD, giảm 23% về lượng, tăng 58,6% về giá trị; NPK: 163 ngàn tấn và 95 triệu USD, giảm 26,5% về lượng, tăng 47,7% về giá trị; Các loại phân bón khác khoảng 1 triệu tấn, kim ngạch 535 triệu USD, tăng 5,6% về lượng và gần gấp 2,2 lần về giá trị.

+ Thuốc trừ sâu và nguyên liệu : Ước nhập khẩu tháng 10/2008 đạt 30 triệu USD, giảm 10 %% so với cùng kỳ năm trước. Tổng nhập khẩu 10 tháng đầu năm ước đạt gần 418 triệu USD, tăng 42,8 %% so với cùng kỳ năm 2007.

+ Gỗ và sản phẩm gỗ : Giá trị gỗ và sản phẩm từ gỗ nhập khẩu tháng 10/2008 ước đạt 85 triệu USD, giảm 9,5 %% so cùng kì năm trước, đưa tổng kim ngạch nhập khẩu 10 tháng đầu năm lên 952 triệu USD, tăng 13,6 %% so cùng kỳ năm trước.

+ Thức ăn gia súc và nguyên liệu : Ước kim ngạch nhập khẩu tháng 10/2008 đạt 130 triệu USD, tăng 86 %% so cùng kỳ năm trước và trị giá nhập khẩu 10 tháng đầu năm tăng 66 %% so với cùng kì năm trước và ước đạt 1,57 tỷ USD.

+ Cao su : Ước nhập khẩu tháng 10/2008 đạt 14 ngàn tấn, kim ngạch NK trên 45 triệu USD. 10 tháng đầu năm 2008 ước NK khoảng 167 ngàn tấn với kim ngạch 461 triệu USD, so cùng kỳ năm trước tăng 5,6 %% về lượng và 53,5 %% về giá trị.



+ Muối : Kim ngạch nhập khẩu muối tháng 9/2008 đạt 2 triệu USD (trong đó, có hạn ngạch 1,83 triệu USD) tăng gấp 9 lần so với tháng 9/2007. Tổng kim ngạch nhập khẩu muối 9 tháng đầu năm đạt 15,3 triệu USD (trong đó, có hạn ngạch 12,7 triệu USD), so cùng kì năm trước tăng 3,1 lần. Ước tính 9 tháng lượng muối nhập khẩu khoảng 230 ngàn tấn gồm cả muối nhập khẩu trong và ngoài hạn ngạch.

+ Lúa mì : Tổng lượng nhập khẩu 9 tháng năm 2008 đạt 558 ngàn tấn với trị giá 240 triệu USD, giảm 36,4 %% về lượng, tăng 9,4 %% về giá trị so cùng kỳ năm trước. Ước lượng lúa mì nhập khẩu tháng 10/2008 khoảng 50 ngàn tấn, đưa lượng lúa mì nhập khẩu 10 tháng năm 2008 ước đạt 608 ngàn tấn, kim ngạch 263 triệu USD, so với năm trước giảm 38 %% về lượng nhưng tăng 3 %% về giá trị.



+ Thịt và phụ phẩm ăn được sau khi giết mổ : Nhập khẩu trong tháng 9/2008 đạt 15,9 triệu USD, thấp hơn tháng 8/2008 khoảng 6,4 triệu USD, nhưng so với tháng 9/2007 tăng 2,1 lần. Tổng giá trị nhập khẩu 9 tháng đầu năm đạt 157,8 triệu USD, tăng hơn 4 lần về kim ngạch so cùng kỳ năm trước.




1   2   3   4   5   6   7   8




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương