và mùi hôi của mẫu rác thải thực vật
STT Dòng VK
Màu
Mùi
1
ĐC
Đen
++
2
cCR1
Nâu
+
3
cTA1
Đen
+
4
cAH1
Xanh đậm
++
5
cXK2
Nâu
+
6
cAN1
Nâu
+
7
cAT1
Nâu
+
8
cAC1
Đen
++
9
cAL2
Nâu
+
10
cTVC3
Nâu
++
11
cCK1
Nâu
++
Chú thích: +: mùi nhẹ (chấp nhận được); ++: mùi nặng
(không chấp nhận được)
Nhìn chung, các dòng VK đều có khả năng phân
hủy cellulose tốt, bốn dòng cTA1, cAT1, cCR1 và
cTVC3 có khả năng phân hủy tốt nhất và không để
lại mùi hôi tại thời điểm kết thúc thí nghiệm (Bảng
4). Sự chênh lệch về tỉ lệ phân hủy của 4 dòng VK
so với nghiệm thức đối chứng khoảng 22- 27%. Tuy
nhiên, các VLHC tại thời điểm kết thúc thí nghiệm
do 4 dòng VK này phân hủy không để lại mùi so với
nghiệm thức đối chứng với mùi cảm quan không
chấp nhận được. So sánh kết quả với nghiên cứu của
Hà Thanh Toàn và ctv. (2010), Võ Thị Ngọc Cẩm
và ctv. (2015) sử dụng vi sinh vật có khả năng phân
hủy cellulose cho thấy tỉ lệ phân hủy và thời gian
phân hủy của các dòng VK này tương đối ổn định
hơn.
3.2. Kết quả khảo sát ảnh hưởng của các
dòng VK phân hủy protein, cellulose
triển vọng lên sự hiện diện của trùn quế
(Perionyx excavatus)
Kết quả khảo sát ảnh hưởng của các dòng VK
triển vọng lên sự hiện diện của trùn quế cho thấy 4
dòng VK phân huỷ protein và 3 dòng VK phân huỷ
cellulose là pHL2, pPT1, pTVC3, pAT, cAT1,
cTA1 và cCR1 không ảnh hưởng đến sự sống sót và
phát triển của trùn quế, tuy nhiên dòng cTVC3 gây
chết trùn (Bảng 5).
Chia sẻ với bạn bè của bạn: |