PHẦn I các bộ, ngàNH, CƠ quan thuộc chính phủ trả LỜi cáC Ý kiếN, kiến nghị CỦa cử tri



tải về 3.72 Mb.
trang36/48
Chuyển đổi dữ liệu09.07.2016
Kích3.72 Mb.
#1608
1   ...   32   33   34   35   36   37   38   39   ...   48

Trả lời (Tại Công văn số 2035/BCT-KH ngày 14/03/2008):

Vừa qua, Thủ tướng Chính phủ đã có Quyết định số 185/2007/QĐ-TTg ngày 03 tháng 12 năm 2007 về việc tổ chức và hoạt động của Khu thương mại tự do Chu Lai thuộc Khu kinh tế mở Chu Lai, tỉnh Quảng Nam.



27/ Cử tri tỉnh Điện Biên kiến nghị: “Chính phủ cần có chính sách hợp lý khuyến khích các doanh nghiệp hoạt động ở vùng sâu, vùng xa vùng có điều kiện hết sức khó khăn để giúp các địa phương và doanh nghiệp phát triển”.

Trả lời (Tại Công văn số 2085/BCT-KH ngày 17/03/2008):

Khuyến khích phát triển kinh tế xã hội trên phạm vi cả nước, trong đó có các vùng khó khăn và đặc biệt khó khăn là chủ trương lớn, nhất quán của Đảng và Nhà nước đã được thể hiện trong các Văn kiện của Đảng qua các kỳ Đại hội từ năm 1986 và các Nghị quyết của Bộ Chính trị về phương hướng phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo quốc phòng an ninh cho các vùng, đặc biệt là các vùng khó khăn, trong đó có:

- Nghị quyết số 37-NQ/TW ngày 01 tháng 7 năm 2004 của Bộ Chính trị về phương hướng phát triển kinh tế - xã hội và đảm bảo quốc phòng, an ninh vùng trung du và miền núi Bắc bộ đến năm 2010;

- Nghị quyết số 39-NQ/TW ngày 16 tháng 08 năm 2004 của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế - xã hội và đảm bảo quốc phòng, an ninh vùng Bắc Trung bộ và duyên hải miền Trung đến năm 2010;

- Quyết định số 712/TTg ngày 30 tháng 08 năm 1997 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội vùng Tây Bắc thời kỳ 1996 - 2010.

- Quyết định số 02/2008/QĐ-TTg ngày 6 tháng 01 năm 1998 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội vùng Đông Bắc giai đoạn từ nay đến năm 2010.

- Quyết định số 135/1998/QĐ-TTg ngày 31 tháng 07 năm 1998 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội các xã đặc biệt khó khăn miền núi và vùng sâu, vùng xa.

Ngoài các văn bản trên, còn có rất nhiều các văn bản khác thể hiện chủ trương của Đảng và Nhà nước trong việc hỗ trợ cho vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn.

Thực hiện chủ trương của Đảng, Chính phủ đã tích cực đề nghị và tham gia với Quốc hội trong việc xây dựng các Luật và các văn bản quy phạm pháp luật khác để quản lý và điều hành nền kinh tế nhằm phát triển cân đối giữa các vùng miền theo những mục tiêu Đảng đề ra. Trong phạm vi trách nhiệm, quyền hạn của mình, Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân các cấp đã ban hành nhiều cơ chế, chính sách hỗ trợ, ưu đãi để khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư hoạt động sản xuất kinh doanh vào vùng sâu, vùng xa, vùng có điều kiện hết sức khó khăn nhằm giúp các địa phương và doanh nghiệp cùng phát triển. Trong đó có thể nêu ra một số văn bản quan trọng như:

- Nghị định số 108/2006/NĐ-CP ngày 22 tháng 9 năm 2006 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Đầu tư, trong đó Điều 22, Chương IV quy định lĩnh vực, địa bàn ưu đãi đầu tư, gồm địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn và địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn.

- Các quyết định của Thủ tướng Chính phủ như Quyết định số 24/2008/QĐ-TTg ngày 05 tháng 02 năm 2008 về việc ban hành một số cơ chế, chính sách hỗ trợ phát triển kinh tế xã hội đối với các tỉnh vùng Bắc Trung bộ và Duyên hải miền Trung bộ đến năm 2010; Quyết định số 25/2008/QĐ-TTg ngày 05 tháng 02 năm 2008 về việc ban hành một số cơ chế, chính sách hỗ trợ phát triển kinh tế - xã hội đối với các tỉnh vùng Tây Nguyên đến năm 2010; Quyết định số 26/2008/QĐ-TTg ngày 05 tháng 02 năm 2008 về việc ban hành một số cơ chế, chính sách hỗ trợ phát triển kinh tế - xã hội đối với các tỉnh vùng Đồng bằng sông Cửu Long đến năm 2010, Quyết định số 27/2008/QĐ-TTg ngày 05 tháng 02 năm 2008 về việc ban hành một số cơ chế, chính sách hỗ trợ phát triển kinh tế - xã hội đối với các tỉnh vùng Trung du miền núi Bắc Bộ đến năm 2010, trong đó đặc biệt chú ý đến cơ chế hỗ trợ, ưu đãi nhằm khuyến khích các doanh nghiệp, các địa phương đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh tại vùng sâu, vùng xa, vùng có điều kiện hết sức khó khăn để phát triển kinh tế.

Thực hiện chức năng quản lý Nhà nước đối với ngành công thương và các Chỉ thị, Nghị quyết, Quyết định của Đảng và Chính phủ, Bộ Công thương đã chủ động lựa chọn một số địa phương có điều kiện đặc biệt khó khăn về sản xuất công nghiệp để nghiên cứu, xây dựng Đề án “Đẩy mạnh phát triển công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp giai đoạn 2008 - 2010 tại các địa phương đặc biệt khó khăn về sản xuất công nghiệp”, bao gồm 12 tỉnh có giá trị sản xuất công nghiệp đến năm 2007 vẫn thấp dưới 1.000 tỷ đồng (hoặc mới vượt 1.000 tỷ đồng nhưng chưa vững chắc), trong đó có 8 tỉnh miền núi phía Bắc (Hà Giang, Lào Cai, Cao Bằng, Bắc Kạn, Lạng Sơn, Điện Biên, Lai Châu, Sơn La) và 4 tỉnh Duyên hải miền Trung và Tây Nguyên (Quảng Trị, Ninh Thuận, Kon Tum, Đắk Nông). Đề án đã được Bộ trưởng Bộ Công thương phê duyệt tại Quyết định số 0543/QĐ-BCT ngày 23 tháng 01 năm 2008.

Ngoài ra, việc khuyến khích các doanh nghiệp hoạt động ở vùng sâu, vùng xa, vùng có điều kiện hết sức khó khăn để giúp các địa phương và doanh nghiệp phát triển còn được thể hiện thông qua hoạt động tăng cường công tác khuyến công một cách đồng bộ giữa trung ương và địa phương trên phạm vi cả nước, trong đó chú trọng đặc biệt đối với các khu vực, các doanh nghiệp trên địa bàn khó khăn. Trong thời gian qua, Bộ Công thương đã chỉ đạo tích cực các hoạt động này trên cơ sở các Chương trình khuyến công được xây dựng hàng năm. Hoạt động khuyến công tại các địa phương đã góp phần làm tăng giá trị sản xuất công nghiệp đặc biệt là của khu vực công nghiệp nông nghiệp nông thôn; thực hiện chuyển cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá nông nghiệp, nông thôn, tỷ trọng CN - XD trong GDP tăng; chuyển dịch cơ cấu lao động ở nông thôn theo hướng tăng tỷ lệ lao động trong ngành công nghiệp, giảm tỷ lệ lao động trong ngành nông nghiệp và huy động được mọi nguồn lực vào đầu tư phát triển công nghiệp. Hiện nay, Bộ đang tiếp tục rà soát để xây dựng một số văn bản nhằm tạo điều kiện tốt hơn cho việc thực hiện công tác khuyến công trong thời gian tới.

Việc khuyến khích và trợ giúp các địa phương, các doanh nghiệp vùng sâu, vùng xa, vùng khó khăn để phát triển cũng được đặt trong kế hoạch tổng thể trợ giúp phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ ngành công nghiệp như đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, trong đó Bộ Công nghiệp (nay là Bộ Công thương) đã tham gia xây dựng và sau đó triển khai thực hiện với những nội dung chính như sau:



Xây dựng văn bản quản lý Nhà nước đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ (DNVVN).

- Căn cứ Nghị định số 55/2003/NĐ-CP ngày 28 tháng 6 năm 2003 (nay thay thế bằng Nghị định số 189/2007/NĐ-CP ngày 27 tháng 12 năm 2008), Bộ Công nghiệp (trước đây) đã thành lập Cục Công nghiệp địa phương. Tại Quyết định số 115/2003/QĐ-BCN ngày 4 tháng 7 năm 2004 của Bộ trưởng Bộ Công nghiệp về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức bộ máy của Cục Công nghiệp địa phương (nay thay thế bằng Quyết định số 0799/QĐ-BCT ngày 30 tháng 01 năm 2008), Bộ giao cho Cục Công nghiệp địa phương nhiệm vụ giúp Bộ trưởng thực hiện chức năng quản lý Nhà nước về phát triển công nghiệp ở địa phương trong phạm vi cả nước, trong đó có lĩnh vực doanh nghiệp vừa và nhỏ ngành công nghiệp.

- Bộ đã xây dựng và trình Chính phủ ban hành Nghị định số 134/2004/NĐ-CP ngày 9 tháng 6 năm 2004 khuyến khích về phát triển công nghiệp nông thôn (gọi tắt là Nghị định khuyến công), trong đó đối tượng áp dụng chủ yếu cho doanh nghiệp vừa và nhỏ và các Thông tư, Thông tư liên tịch, Chỉ thị, Quyết định liên quan.

- Căn cứ Thông tư liên tịch số 02/2003/TTLT-BCN-BNV ngày 30 tháng 10 năm 2003 của Liên Bộ Công nghiệp - Nội vụ, Sở Công nghiệp là cơ quan chuyên môn giúp Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương thực hiện chức năng quản lý Nhà nước về CN-TTCN trên địa bàn; như vậy Sở Công nghiệp là đầu mối thực hiện quản lý Nhà nước đối với DNNVV ngành CN-TTCN trong phạm vi toàn tỉnh. Tính đến cuối năm 2007 đã có 64/64 tỉnh, thành phố lập Trung tâm Khuyến công (hoặc Trung tâm Khuyến công và tư vấn phát triển công nghiệp) và bố trí kinh phí hoạt động khuyến công từ ngân sách địa phương.

Hỗ trợ về môi trường pháp lý

- Bộ chỉ đạo xây dựng quy hoạch tổng thể phát triển ngành nghề tiểu thủ công nghiệp – làng nghề truyền thống Việt Nam đến năm 2015, dự báo đến năm 2020.

- Nhiều địa phương đã và đang xây dựng, hoàn thiện các văn bản pháp lý ưu đãi, khuyến khích đầu tư phát triển sản xuất CN-TTCN đối với mọi thành phần kinh tế, cải cách hành chính, tạo điều kiện thuận lợi về đất đai, các dịch vụ hạ tầng với thủ tục nhanh chóng và chi phí hợp lý thông qua xây dựng khu cụm điểm công nghiệp nhỏ và vừa…

Hỗ trợ tiếp cận thông tin cho hoạt động sản xuất, kinh doanh của DNNVV:

- Bộ chỉ đạo các Sở Công nghiệp hỗ trợ, tạo điều kiện cho DNNVV tham gia các cuộc trưng bày, giới thiệu, quảng cáo, tiếp thị sản phẩm, hợp tác và tham gia hội chợ, triển lãm, giới thiệu sản phẩm, tìm hiểu thị trường trong nước và ở nước ngoài…

- Giúp các doanh nghiệp tiếp cận những thông tin về sản phẩm, thị trường công nghệ và các xu hướng phát triển, tăng cường khả năng cạnh tranh thông qua trang Web của Bộ, đồng thời cho phép các đối tượng DNNVV giới thiệu năng lực, quảng bá sản phẩm của mình trên trang Web của Bộ miễn phí.

Hỗ trợ đào tạo nguồn nhân lực

- Bộ đã tổ chức nhiều lớp tập huấn về kiến thức quản lý Nhà nước ngành, về các văn bản pháp quy… chủ yếu cho cán bộ quản lý chủ chốt của các Sở Công nghiệp, từ đó có thể làm nòng cốt đào tạo lại cho các đối tượng chủ doanh nghiệp nhỏ đang hoạt động và các đối tượng có ý định khởi sự thành lập doanh nghiệp.

- Hàng năm, Bộ có lập kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng chung về quản lý Nhà nước ngành, trong đó có nội dung cụ thể về đào tạo, bồi dưỡng về quản lý khối công nghiệp địa phương; giao trách nhiệm cho Cục Công nghiệp địa phương phối hợp với các Trường đào tạo thuộc Bộ triển khai thực hiện nhiệm vụ này.

Hỗ trợ thu hút nguồn lực quốc tế và xúc tiến thương mại

- Tổ chức nhiều khoá đào tạo với sự trợ giúp kỹ thuật của Tổ chức Hợp tác Kỹ thuật của Cộng hoà liên bang Đức (GTZ), Tổ chức Phát triển Công nghiệp Liên hợp quốc (UNICO)…

- Tổ chức được một số đợt khảo sát, tìm hiểu kinh nghiệm, tiếp thị và tiếp cận thị trường, tăng cường hợp tác với doanh nghiệp của một số nước và vùng lãnh thổ (Thái Lan, Đài Loan, Trung Quốc, Hàn Quốc, Thổ Nhĩ Kỳ…) cho cán bộ quản lý của các Sở Công nghiệp, các DNNVV địa phương. Trong hai năm 2001 – 2002, Bộ đã thực hiện chương trình phối hợp với Bộ Công nghiệp Italia trao đổi cán bộ, kết nối một số DNNVV của hai nước để giúp các DNNVV Việt Nam phát triển sản xuất, tăng cường xuất khẩu. Chương trình này chưa tiếp tục được vì gặp nhiều khó khăn về nguồn kinh phí hỗ trợ của phía bạn. Hiện nay, Bộ Công thương đang chỉ đạo tăng cường mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế nhằm phát triển công nghiệp địa phương nói chung và hỗ trợ cho các doanh nghiệp hoạt động tại các địa bàn khó khăn nói riêng.

Hỗ trợ về công nghệ và kỹ thuật:

- Bộ đã giao cho các đơn vị chức năng xây dựng chính sách, cơ chế khuyến khích các cơ quan nghiên cứu khoa học công nghệ liên kết, chuyển giao và giúp đỡ các DNNVV trong ngành ứng dụng khoa học công nghệ trong hoạt động sản xuất kinh doanh.

- Bộ chỉ đạo các Chương trình quốc gia về Tự động hoá và Công nghệ vật liệu hỗ trợ các tổ chức kinh tế tập thể, các cơ sở sản xuất ngành TTCN từng bước đổi mới trang thiết bị và công nghệ, tiết kiệm năng lượng, bảo vệ môi trường, ứng dụng vật liệu mới…

- Bộ chỉ đạo các Báo và Tạp chí của ngành triển khai xây dựng các chuyên trang và phụ bản về công nghiệp địa phương, trong đó có tư vấn về công nghệ và kỹ thuật, cải tiến trang thiết bị, hướng dẫn quản lý kỹ thuật và bảo dưỡng trang thiết bị, tạo điều kiện tiếp cận công nghệ trang thiết bị mới và nâng cao trình độ quản lý cho các DNNVV.

Trên đây là một số hoạt động của Bộ Công thương nhằm hỗ trợ cho các doanh nghiệp hoạt động ở các địa phương vùng sâu, vùng xa, vùng có điều kiện hết sức khó khăn nói riêng và các địa phương trong cả nước nói chung. Trong thời gian tới, Bộ Công thương sẽ tiếp tục triển khai thực hiện các hoạt động hỗ trợ cho các doanh nghiệp theo đúng chủ trương của Đảng và Nhà nước để góp phần phát triển kinh tế của địa phương vùng sâu, vùng xa, vùng có điều kiện đặc biệt khó khăn như kiến nghị của cử tri tỉnh Điện Biên.

BỘ Y TẾ
Tại Công văn số 1998/BYT-VPB1 ngày 26 tháng 03 năm 2008 của Bộ Y tế về việc trả lời kiến nghị của cử tri tại kỳ họp thứ 2, Quốc hội khoá XII:

I. CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN Y TẾ CƠ SỞ:

1/ Cử tri tỉnh Đồng Tháp: “Cử tri đề nghị Bộ Y tế tăng cường đầu tư cho y tế dự phòng, vì tăng cường đầu tư cho y tế dự phòng sẽ hạn chế dịch bệnh và giảm chi phí đầu tư cơ sở vật chất, nhân lực trong khám chữa bệnh”.

Trả lời:

Trong thời gian qua, Bộ Y tế cũng đã quan tâm và chú trọng bố trí tăng vốn đầu tư cho công tác dự phòng, cụ thể:

+ Tăng chi cho Chương trình mục tiêu quốc gia phòng chống một số bệnh xã hội, bệnh dịch nguy hiểm và HIV/AIDS giai đoạn 2006 - 2010; đã trình Thủ tướng Chính phủ bổ sung dự án phòng chống ung thư và sức khỏe sinh sản vào Chương trình mục tiêu quốc gia; trình Thủ tướng phê duyệt Chương trình mục tiêu quốc gia An toàn vệ sinh thực phẩm; triển khai dự án Hỗ trợ hệ thống y tế dự phòng với nguồn vốn vay của Ngân hàng Phát triển châu á (ADB) để nâng cấp 46 trung tâm y tế dự phòng cấp tỉnh.

+ Theo quy định của Luật Ngân sách Nhà nước thì việc đầu tư cho các hoạt động y tế dự phòng ở địa phương do Hội đồng nhân dân địa phương quyết định. Vì vậy, trong thời gian tới, Bộ Y tế sẽ báo cáo Chính phủ để chỉ đạo các địa phương tăng chi cho các hoạt động phòng chống dịch từ nguồn ngân sách địa phương; đẩy mạnh việc nâng cấp các cơ sở y tế dự phòng tuyến huyện theo Quyết định 1402/QĐ-TTg ngày 15/10/2007 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt đề án Hỗ trợ phát triển Trung tâm y tế dự phòng tuyến huyện giai đoạn 2007 - 2010. Tiếp tục vận động các nhà tài trợ để huy động nguồn ODA cho các dự án về y tế dự phòng.



2/ Cử tri tỉnh Điện Biên, Gia Lai, Quảng Nam: “Thực hiện Nghị định số 172 của Chính phủ đã thành lập phòng y tế, bệnh viện, trung tâm y tế dự phòng cấp huyện đã dẫn đến tăng biên chế và tính tập trung cho công tác phòng chống dịch bệnh không cao. Đề nghị xem xét lại quy định này”.

Trả lời:

Phòng Y tế là một trong 12 tổ chức các cơ quan chuyên môn thuộc Uỷ ban nhân dân cấp huyện, trong đó Phòng Y tế được giao chức năng tham mưu, giúp Uỷ ban nhân dân cấp huyện thực hiện chức năng quản lý nhà nước về chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ nhân dân trên địa bàn. Việc thành lập Phòng Y tế là thực hiện Nghị định số 172/2004/NĐ-CP ngày 29/9/2004 của Chính phủ quy định tổ chức các cơ quan chuyên môn thuộc Uỷ ban nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh, nhằm tăng cường công tác quản lý nhà nước về y tế trên địa bàn cấp huyện.

Theo Thông tư liên tịch số 11/2005/TTLT-BYT-BNV ngày 12/4/2005 của Bộ Y tế và Bộ Nội vụ hướng dẫn chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của cơ quan chuyên môn giúp Uỷ ban nhân dân quản lý nhà nước về y tế ở địa phương, Trung tâm Y tế dự phòng huyện là đơn vị sự nghiệp trực thuộc Sở Y tế có chức năng triển khai cung cấp các dịch vụ chuyên môn, kỹ thuật về y tế dự phòng trên địa bàn (các chương trình y tế quốc gia). Bệnh viện đa khoa huyện là đơn vị sự nghiệp trực thuộc Sở Y tế có chức năng triển khai cung cấp các dịch vụ chuyên môn, kỹ thuật về khám chữa bệnh và phục hồi chức năng.

Việc thành lập Bệnh viện huyện và Trung tâm Y tế dự phòng huyện nhằm bảo đảm cho cả hai lĩnh vực: phòng bệnh và khám chữa bệnh được quan tâm đầu tư phát triển; đảm bảo tính chuyên môn hoá và nâng cao chất lượng cung cấp dịch vụ theo lĩnh vực.

Hiện tại, Bộ Y tế đang phối hợp với các Bộ, ngành liên quan để xem xét, thiết kế hệ thống y tế phù hợp với xu thế phát triển và phù hợp với điều kiện thực tế nhằm không ngừng nâng cao chất lượng cung cấp dịch vụ y tế, tăng cường khả năng tiếp cận của người dân đối với các dịch vụ chăm sóc sức khoẻ.

3/ Cử tri thành phố Hồ Chí Minh và tỉnh Khánh Hoà: “Đề nghị Bộ Y tế xem xét việc đầu tư xây dựng thêm các bệnh viện có chức năng và chất lượng điều trị như Bệnh viện Chợ Rẫy, Bệnh viện Ung bướu thành phố tại các tỉnh khu vực Đồng bằng sông Cửu Long nhằm giảm bớt số lượng bệnh nhân tại các bệnh viện ở thành phố Hồ Chí Minh”.

Trả lời:

Bộ Y tế đã và đang đẩy mạnh việc huy động các nguồn vốn để cải thiện điều kiện cơ sở vật chất và nâng cao chất lượng khám, chữa bệnh của hệ thống bệnh viện trong cả nước. Bộ cũng đã cho phép các bệnh viện lớn như Bệnh viện Chợ Rẫy, Bệnh viện Bạch Mai, Bệnh viện Hữu Nghị Việt Đức, Bệnh viện Phụ sản trung ương..., đầu tư nâng cấp mở rộng cơ sở khám chữa bệnh, xây dựng các cơ sở vệ tinh để đáp ứng nhu cầu chăm sóc sức khỏe của nhân dân.

Chủ trương xây dựng các bệnh viện ung bướu tại các tỉnh miền Trung và đồng bằng sông Cửu Long đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, thể hiện trong Quyết định số 153/2006/QĐ-TTg ngày 30/6/2006 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt quy hoạch tổng thể phát triển hệ thống y tế Việt Nam giai đoạn đến năm 2010 và tầm nhìn đến năm 2020; trong đó có việc đầu tư xây dựng thêm một số bệnh viện ung bướu... Dự án phòng chống ung thư cũng đã được đưa vào Chương trình mục tiêu quốc gia phòng chống một số bệnh xã hội, bệnh dịch nguy hiểm và HIV/AIDS giai đoạn 2006 - 2010, và đã được bố trí nguồn đầu tư cơ sở vật chất cho các cơ sở điều trị ung bướu ở các địa phương nhằm giảm tải cho các bệnh viện tuyến trung ương.

4/ Cử tri tỉnh Đắk Lắc: “Đề nghị Bộ Y tế sớm xem xét để năm 2008 triển khai xây dựng Bệnh viện đa khoa khu vực Tây Nguyên tại Đắk Lắc với quy mô 800 giường bệnh”.

Trả lời:

Trong Quyết định 153/2006/QĐ-TTg ngày 30/6/2006 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt quy hoạch tổng thể phát triển hệ thống y tế Việt Nam giai đoạn đến năm 2010 và tầm nhìn đến năm 2020, Thủ tướng đã quyết định phát triển Bệnh viện Đa khoa tỉnh Đắk Lắc thành bệnh viện vùng. Việc phê duyệt dự án đầu tư nâng cấp bệnh viện đa khoa tỉnh Đắk Lắc thuộc thẩm quyền của Uỷ ban nhân dân tỉnh. Nguồn vốn để đầu tư xây dựng bệnh viện được thực hiện theo phân cấp của Luật Ngân sách Nhà nước. Tuy nhiên, do đây là bệnh viện vùng nên Bộ Y tế đã và đang báo cáo Thủ tướng Chính phủ để hỗ trợ một phần từ ngân sách trung ương và nguồn trái phiếu Chính phủ.



5/ Cử tri tỉnh Phú Yên: “Đề nghị Bộ có chính sách đầu tư cho khoa Nhi của các bệnh viện vì khi có chủ trương khám chữa bệnh cho trẻ em miễn phí, khoa nhi không được trích % phí dịch vụ”.

Trả lời:

Việc đầu tư cho khoa nhi của các bệnh viện đa khoa tỉnh nằm trong dự án đầu tư nâng cấp các bệnh viện đa khoa tỉnh và thuộc thẩm quyền, trách nhiệm của Uỷ ban nhân dân các tỉnh theo phân cấp ngân sách hiện nay. Tuy nhiên, hiện nay, Bộ Y tế đang trình Chính phủ đề án Nâng cáp bệnh viện đa khoa tỉnh, trong đó có ưu tiên đầu tư cho khoa Nhi để đảm bảo cung cấp tốt các dịch vụ khám chữa bệnh cho trẻ em.

Từ khi Nghị định số 43/2006/NĐ-CP ngày 25/4/2006 của Chính phủ quy định quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về thực hiện nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, biên chế và tài chính đối với đơn vị sự nghiệp công có hiệu lực thì việc trích kinh phí từ nguồn viện phí để chi cho khen thưởng đã bị huỷ bỏ. Chính phủ cũng đã cho phép các bệnh viện được sử dụng ngân sách nhà nước thanh toán chi phí khám chữa bệnh cho trẻ em dưới sáu tuổi theo mức viện phí hiện hành. Đây là nguồn thu của bệnh viện được giao tự chủ. Các đơn vị được sử dụng nguồn ngân sách và nguồn thu này để chi cho các hoạt động của bệnh viện theo quy định, nếu có chênh lệch thu chi được sử dụng để chi thu nhập tăng thêm cho cán bộ của đơn vị.

6/ Cử tri tỉnh Gia Lai: “Đề nghị Bộ Y tế đầu tư xây dựng bệnh viện tâm thần tại tỉnh Gia Lai”.

Trả lời:

Theo phân cấp của Luật Ngân sách Nhà nước, việc Uỷ ban nhân dân địa phương sử dụng ngân sách địa phương để đầu tư cho các cơ sở y tế thuộc địa phương. Từ năm 2002 đến nay, Chính phủ đã dành một khoản vốn từ Ngân sách trung ương thuộc các Chương trình mục tiêu quốc gia để hỗ trợ cho một số tỉnh có khó khăn về ngân sách địa phương và không tự cân đối được, để đầu tư, xây dựng mới, nâng cấp một số bệnh viện chuyên khoa Lao, phong, tâm thần...

Đối với trường hợp của Gia Lai, đề nghị Uỷ ban nhân dân tỉnh căn cứ vào quy hoạch mạng lưới y tế của tỉnh, vào tình hình thực tế của địa phương, vào nhu cầu của nhân dân địa phương để phê duyệt dự án đầu tư xây dựng bệnh viện tâm thần. Trường hợp ngân sách địa phương không tự cân đối được, Uỷ ban nhân dân tỉnh cần báo cáo Thủ tướng Chính phủ xin ngân sách đầu tư, đồng thời gửi dự án đầu tư cho Bộ Kế hoạch và đầu tư, Bộ Tài chính và Bộ Y tế để xem xét và đề nghị Thủ tướng Chính phủ hỗ trợ từ ngân sách Trung ương.

7/ Cử tri tỉnh Sơn La: “Đề nghị Bộ Y tế hỗ trợ tỉnh mở rộng trung tâm điều trị và nuôi dưỡng bệnh nhân tâm thần của tỉnh từ 60 giường lên 100 giường để đáp ứng nhu cầu quản lý và chữa bệnh”.

Trả lời:

Như đã trả lời cử tri tỉnh Gia Lai về đề nghị hỗ trợ nguồn vốn xây dựng bệnh viện tâm thần của tỉnh, việc đầu tư nâng cấp bệnh viện tâm thần của tỉnh. Theo phân cấp của Luật Ngân sách nhà nước, việc Uỷ ban nhân dân địa phương sử dụng Ngân sách địa phương để đầu tư cho các cơ sở y tế thuộc địa phương. Từ năm 2002 đến nay, Chính phủ đã dành một khoản vốn từ Ngân sách trung ương thuộc các Chương trình mục tiêu quốc gia để hỗ trợ cho một số tỉnh có khó khăn về ngân sách địa phương và không tự cân đối được, để đầu tư, xây dựng mới nâng cấp một số bệnh viện chuyên khoa Lao, phong, tâm thần...

Đối với trường hợp của Sơn La, đề nghị Uỷ ban nhân dân tỉnh căn cứ vào quy hoạch mạng lưới y tế của tỉnh, vào tình hình thực tế của địa phương, vào nhu cầu của nhân dân địa phương để phê duyệt dự án đầu tư xây dựng bệnh viện tâm thần. Trường hợp ngân sách địa phương không tự cân đối được, Uỷ ban nhân dân tỉnh cần báo cáo Thủ tướng Chính phủ xin ngân sách đầu tư, đồng thời gửi dự án đầu tư cho Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài chính và Bộ Y tế để xem xét và đề nghị Thủ tướng Chính phủ hỗ trợ từ ngân sách trung ương.

8/ Cử tri tỉnh Hà Nam: “Đề nghị Trung ương đầu tư xây dựng tại Hà Nam bệnh viện để giảm bớt quá tải ở các bệnh viện Trung ương tại Hà Nội và phục vụ cho cả vùng đồng bằng sông Hồng”.

Trả lời:

Theo Quy hoạch tổng thể phát triển hệ thống y tế Việt Nam giai đoạn đến năm 2010 và tầm nhìn đến năm 2020 (được ban hành kèm theo Quyết định số 153/2006/QĐ-TTg ngày 30/6/2006 của Thủ tướng Chính phủ, cả nước có 10 trung tâm y tế vùng, trong đó có vùng đồng bằng sông Hồng với việc phát triển bệnh viện đa khoa Việt - Tiệp Hải Phòng làm nhiệm vụ bệnh viện đa khoa vùng Bắc đồng bằng sông Hồng và bệnh viện đa khoa Nam Định làm nhiệm vụ bệnh viện đa khoa vùng Nam đồng bằng sông Hồng. Mặc dù không nằm trong quy hoạch này, nhưng bệnh viện đa khoa Hà Nam là một trong các bệnh viện vệ tinh của Bệnh viện Hữu Nghị Việt Đức. Trong thời gian qua cũng đã được đầu tư nâng cấp một số trang thiết bị phục vụ cho cấp cứu và điều trị ngoại khoa, nhằm giải tải cho bệnh viện Hữu Nghị Việt Đức.

Việc nâng cao chất lượng khám chữa bệnh của các bệnh viện đa khoa tuyến tỉnh khu vực lân cận Hà Nội nhằm giảm bớt tình trạng quá tải cho các bệnh viện tuyến Trung ương là cần thiết. Bộ Y tế đang có kế hoạch xây dựng đề án “Nâng cao chất lượng khám chữa bệnh ở các bệnh viện đa khoa tuyến tỉnh khu vực lân cận Hà Nội giai đoạn 2008 - 2012”. Ngày 27/02/2008, Bộ Y tế có Công văn số 1140/BYT-VPB1 đề nghị các tỉnh Hà Tây, Hà Nam, Vĩnh Phúc, Bắc Ninh, Bắc Giang, Hưng Yên, Hải Dương đề xuất phương án và quy mô để xây dựng đề án này. Theo quy định của Luật Ngân sách, các tỉnh phải tự đầu tư bằng nguồn ngân sách địa phương, Trung ương chỉ hỗ trợ một phần ngân sách đầu tư trang thiết bị y tế.

II. CHÍNH SÁCH ĐỐI VỚI CÁN BỘ Y TẾ:

9/ Cử tri tỉnh Lai Châu và Hậu Giang: “Đề nghị Bộ Y tế nghiên cứu nâng mức tiền trực đêm cho cán bộ y tế xã, phường. Hiện nay các cán bộ này được hưởng mức 10.000đồng/người/đêm là quá thấp”.


Каталог: content -> vankien -> Lists -> DanhSachVanKien -> Attachments
Attachments -> KỲ HỌp thứ TÁm quốc hội khoá XII (20/10/2010 26/11/2010)
Attachments -> Đa dạng sinh họC Ở việt nam
Attachments -> CHÍnh phủ Số: 62/bc-cp cộng hòa xã HỘi chủ nghĩa việt nam độc lập Tự do Hạnh phúc Hà Nội, ngày 5 tháng 5 năm 2008 BÁo cáO
Attachments -> BỘ giao thông vận tảI 1/ Cử tri tỉnh Đắk Lắc kiến nghị
Attachments -> QUỐc hội khóa XI uỷ ban về các vấn đề xã hội
Attachments -> QUỐc hội số: CỘng hoà XÃ HỘi chủ nghĩa việt nam
Attachments -> 210/bc-btnmt cộng hoà XÃ HỘi chủ nghĩa việt nam
Attachments -> KỲ HỌp thứ TÁm quốc hội khoá XII (20/10/2010 26/11/2010) TẬp hợP Ý kiếN, kiến nghị CỦa cử tri
Attachments -> Ủy ban thưỜng vụ quốc hội số: 365/bc-ubtvqh12
Attachments -> BỘ NÔng nghiệp và phát triển nông thôn số: 1588

tải về 3.72 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   ...   32   33   34   35   36   37   38   39   ...   48




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương