Người nghệ sĩ
Hắn tin vào đầu óc mình,
Hắn tin ở mình.
Người ta thét vào tai hắn:
“Đồ ngu.”
Nhưng những bức tường đổ xuống.
Hắn có cái sọ
cứng.
Hắn nghĩ có thể tìm thấy
sự trong sáng bên kia những bức tường,
bên kia những bức tường mọi thứ
đều đơn giản...
Những điếu thuốc hôi thối
đã cứu hắn khỏi tự sát.
Hắn lang thang qua các làng,
qua những con đường
màu vàng và vô tận,
trong các nhà thờ hắn vẽ
tranh Judas và Madeleine
và từ bàn tay hắn nghệ thuật ra đời.
Trong bụi đường
những kẻ bị dịch hạch tai xám
đã chôn hắn theo qui định
không đọc lời cầu nguyện
và ném trên xác hắn
mấy cục đất sét.
Thế nhưng trên mặt đất
những Judas và những Madeleine mỉm cười.
***
Ngôn từ
Những ngôn từ vây quanh tôi trong im lặng
như gương mặt những người lạ,
những ngôn từ,
ngôn từ đói khát và ngôn từ trần truồng,
ngôn từ chủ yếu và ngôn từ âm ỉ,
ngôn từ không tên, ngôn từ có thế thôi,
những ngôn từ sống trong hầm,
nói trong hầm, sinh ra trong hầm,
dưới những tầng không định rõ
của chủ nghĩa lạc quan thế giới.
Họ ra đi làm việc mỗi sáng,
đổ xi măng, kéo đá,
xây dựng thành phố... Không! Họ dựng
một tượng đài cho sự cô đơn của chính họ.
Họ ra đi như nguời ta đi lạc trong ký ức
của người khác, bước chậm rãi dọc theo những chữ
và bằng ba nhịp hàng dọc của chúng
những ngôn từ đi lên đồi Golgotha.
Bầu trời lượn lờ phía trên họ
như một con kên kên lượn trên nghĩa địa,
và, như được dựng trước
một cánh cửa đóng kín,
một người đập, đóng sâu những cái đinh
vào quá khứ
vào hiện tại
vào tương lai.
Sẽ không bao giờ có ai đến làm chứng.
Những nhát búa đập vang vọng
theo nhịp chậm của vĩnh cửu.
Dưới ngôn từ nằm yên phép ngoa dụ của đất
và phép ẩn dụ của trời bồng bềnh trôi phía trên chúng.
***
Lửa run rẩy trong bóng đêm...
Lửa run rẩy trong bóng đêm,
những thanh củi đốt thành than chỉ còn sáng lờ mờ.
Quanh đống củi chen chúc nhau đông đảo lạ lùng
những ý nghĩ tôi trỗi dậy từ mùa đông vô tận
Nỗi buồn nào xâm chiếm chúng ta
khiến giữa công viên ở vành đai thành phố
chúng ta nhìn lại một cảnh vật mơ hồ
và hiểu ra rằng công viên ấy không còn nữa,
rằng mỗi sự vật đều có hồi kết thúc
ngót từ hai thế kỷ nay,
đi lạc trong mộng giữa những khu rừng đêm
vẫn không bao giờ còn nghe tiếng búa người tiều phu.
Những thân cây và bụi rậm thẳng mình trong bóng tối,
những đồi cỏ ở xa nằm yên trong bóng đêm ủ dột,
trăng rực lửa giống như lửa củi đốt
thắp sáng cả rừng cây một trận cháy âm thầm.
***
Anh sẽ rong ruổi trong hoàng hôn
Anh sẽ rong ruổi trong hoàng hôn qua những đồi giá lạnh,
bất tận,
dọc theo những cánh rừng bu lô mất hút trong đêm
về hướng những ngôi nhà ba cạnh,
dọc theo những rãnh suối vắng, trên cỏ đóng băng,
qua những ruộng đất cát,
sáng rỡ dưới vầng trăng chói chang.
Tiếng giày gõ lộp cộp trên những ngọn đồi im lắng, không gì
so sánh được,
ở xa kia, dọc theo những rãnh suối sâu anh cuộn tròn dây,
trong bóng đêm con suối tách khỏi đường đi của anh,
và bóng anh thì thầm khi biến mất ở mặt sau những gạch ngói.
Nó cũng rong ruổi trên cỏ đóng băng và biến mất trong đêm,
hiện ra từ xa, sáng rỡ dưới vầng trăng, trên những ngọn đồi
bất tận, cạnh những bụi cây đen, dọc theo những rãnh suối vắng
ở đấy gió tạt lên mặt nó,
nó đối thoại một mình và tan đi trong khu rừng tối,
dọc theo những rãnh suối vắng, cạnh những bụi cây đen,
và dấu vết nó mất hút.
Cho dù anh gan dạ và cho dù ánh sáng cuộn mình dưới chân anh
anh sẽ không bao giờ có thể bắt kịp kẻ đang rong ruổi ở những
ngọn đồi đàng kia và là kẻ ta muốn biết,
kẻ đang rong ruổi đàng kia trong sương lạnh,
hướng mặt ta về phía chúa tể của những khu rừng,
ta lên tiếng,
ta khẩn cầu thiên nhiên nhân danh những ngôi nhà ba cạnh,
thế nhưng rong ruổi đàng kia là ai, mà lẻ loi, soi sáng bởi nữ hoàng
của những ngọn đồi?
những đồng thông nhấp nhô sóng gôtic nhận chìm
tiếng vọng, qua những khung cửa sổ mở vang tiếng dương cầm,
toả ánh sáng,
có người rong ruổi trên những ngọn đồi, dưới trăng, sát mặt
những khoảng trời, trên cỏ đóng băng, cạnh những bụi cây đen.
Khu rừng đến gần.
Giữa những cành lá thấp ánh lên màu lục bảo của một con ngựa,
co chân phi cạnh một bờ đê,
ngựa ngắm mình trong mặt nước màu đen,
và ngoái cổ về phía anh và phi nước đại về hướng đồi và đêm.
Đời không như một vòng tròn khép kín những truyền thuyết,
đó là những ngọn đồi chạy mất hút, cái mông những cô ngựa cái
lộng lẫy
mà chúng ta cưỡi trong đêm, xa ánh trăng, dọc theo những rừng thưa
thiu ngủ để trong mơ ta ruổi rong về hướng nam dữ dội.
Ta khẩn cầu thiên nhiên: những kỵ sĩ xuyên qua bóng đêm
và xây dựng cái vũ trụ tàn bạo của họ giống hình ảnh của anh,
từ đê điều và lửa tắt ngấm trên những khoảng đất trống,
cho đến những đập ngăn và đám đèn đuốc câm lặng.
Mọi thứ trở lại, và một thứ nhiệt tình mơ hồ, một hồi cố buồn bã
còn cất tiếng hát trong nhịp điệu của những khúc ballades.
Cho dù đấng sáng tạo không sống, không ngủ trên những tranh thánh
của mình,
hình dáng một chiếc giày vẫn sẽ hiện ra trong rừng thông.
Còn mi, khu rừng của ta, sông suối bao quanh ta và len thấm vào mi,
như một làn hơi, nói dông dài với mi những lời ẩn ý,
mi kẻ lánh đi với những bàn tay đè nặng trên vai ta,
mi kẻ yên nghỉ trong bóng đêm, ngửa nhìn trời, giữa lòng suối.
Hãy nằm yên, không cần hiểu. Đấy không phải là đời sống,
đấy là một nỗi đau khác thấm vào mi
và không ai còn nghe được mùa xuân đến gần,
chỉ những đỉnh của đêm đen thì thầm mãi không thôi
như tiếng đồng hồ trong giấc ngủ.
--------------
Dịch từ bản Pháp ngữ của Jean-Jacques Marie trong Joseph Brodsky, Collines et autres poèmes (Paris: Éditions du Seuil, 1966).
Một đêm mùa thu...
Một đêm mùa thu giữa quảng trường khiêm tốn
của một thị trấn hãnh diện được có tên trên bản đồ
(do cái điên của tên vẽ địa hình thiếu dí dỏm đáng thương,
không vì thế hắn đã có thể được cô con gái thị trưởng rồi).
Không gian như mệt mỏi bởi những kỳ công của chính mình
và vui sướng trút xuống ở đây cái gánh nặng của sự vĩ đại —
tự thu nhỏ theo kích thước của một Chính Lộ;
còn Thời gian, lạnh run thấu xương, thì nhìn vào mặt đồng hồ
ở cửa hàng tạp phẩm, với những ngăn kệ chật chội
chen chúc đủ các loại hàng thế gian này sản xuất,
từ kính thiên văn ngắm sao lạ lùng của kẻ chơi tài tử cho tới
những cây ghim thông thường dùng cho việc thông thường.
Một rạp chiếu bóng, mấy tiệm rượu,
ở khúc quanh là một tiệm cà phê cửa mành kéo thấp,
một nhà băng gạch đỏ trên cao có con đại bàng tung cánh,
một ngôi nhà thờ, với cái lưới — câu người[1] — khuấy động
vẫn trống vắng, và có vẻ không mấy gì được chăm chú,
trừ mỗi chuyện là nhà thờ nằm ngay cạnh bưu điện.
Và nếu các con chiên ngưng nuôi dưỡng
mục sư tất phải khởi sự rửa tội cho những chiếc xe hơi.
Những con châu chấu, giữa thinh lặng, chạy rối rít.
Khoảng 6 giờ chiều đường phố trống không
phố không người như sau một trận tấn công nguyên tử.
Trăng mới ló dạng, đã trôi vào trung tâm
một vuông cửa sổ màu đen, trông như trong kinh
Giảng viên,[2] cháy rực; trong khi trên xa lộ
quạnh quẽ, đôi khi ánh đèn pha trước một chiếc xe
Buick chiếu loà vào tượng người Chiến sĩ Vô danh.
Bạn mơ thường không mơ tới những thiếu nữ hở ngực
mà tới cái tên của bạn ghi trên thư gửi đến.
Người giao sữa buổi sáng, khi thấy sữa để lại đã chua,
sẽ là người đầu tiên đoán ra bạn đã chết ở đây.
Ở đây bạn có thể sống, mà chẳng cần biết đến tờ lịch,
nốc bromua vào bụng, không bao giờ ra khỏi nhà; chỉ đứng
nhìn cái bóng của mình trong gương, trong khi lũ đèn đường
nhìn vào bóng chúng trên những vũng mưa đang cạn nước.
1972
***
Ở Ý đại lợi
Tặng Roberto và Fleur Classo
Tôi cũng thế, từng sống trong một thành phố những mái đua ve vãn
mây trời với những tượng chạm khắc, nơi có một nhà tư tưởng
tại chỗ[3] gào “Hư hỏng đi! Hư hỏng đi!” và chòm râu mép run rẩy, ông
đi khắp đường phố, và một bến cảng vô tận đẩy cuộc đời mất hút.
Ngày ấy mặt trời chiều vẫn chói loà trên những chung cư đôminô.
Nhưng những kẻ yêu thương ta hơn cả chính mình giờ đây không
còn trên đời này. Những con chó săn to đùng lạc mất mồi,
ngấu nghiến trả thù trên những thức ăn bỏ đi – trông cực kỳ
giống như ký ức, giống như số phận mọi vật trên đời. Chiều đã
hoàng hôn. Những tiếng nói từ xa, tiếng thét kiểu “Đồ cặn bã!
Cút khỏi đây!” — ngôn ngữ xa lạ, nhưng lý lẽ nghe vững vàng.
Và hồ nước mặn đẹp nhất thế giới với cả một chuồng bồ câu
vàng óng[4] long lanh sắc nét đủ làm đẫm nước trong mắt ta.
Tới tuổi này khi không ai còn thương yêu ta được nữa;
con người bực bội phải lội ngược dòng và nhận rõ sức mạnh
của sông nước, bèn trốn mất khỏi cuộc đời.
1985
----------
* Dịch từ các bản tiếng Anh: "An autumn evening in the modest square" của George L. Kline, lần đầu tiên xuất hiện trên Confrontation 8, mùa Xuân 1974, về sau được đưa vào A Part Of Speech của Joseph Brodsky (Oxford: Oxford University Press, 1987) và Collected Poems in English, Joseph Brodsky (New York: Farrar, Straus and Giroux, 2000); "In Italy", do chính Joseph Brodsky chuyển ngữ, trong To Urania (New York: Farrar, Straus and Giroux, 1988).
--------------------
Chú thích của người dịch:
[1]Matthew 4:19 [“Follow me, and I will make you fishers of men.”] Các anh hãy theo tôi, tôi sẽ làm cho các anh thành những kẻ lưới người như lưới cá — Hãy theo ta và ta sẽ cho các ngươi nên ngư phủ bắt người.
[2]Ecclesiastes 12:3 [“... those that look out of the windows be darkened.] [...they who look through the windows grow blind] ... các bà nhìn qua cửa sổ chỉ nhìn thấy lờ mờ.
Phụ chú: Ecclesiastes là một sách trong Thánh Kinh cựu ước. Chữ "ecclesiastes" là dạng Latin-hoá của chữ "qōhelet" (tiếng Hebrew), nghĩa là "người giảng đạo", "người thuyết pháp". Người ta thường cho rằng đại đế Solomon (sinh vào khoảng thế kỷ thứ 10 trước Thiên Chúa giáng sinh, và qua đời vào khoàng năm 922 trước Thiên Chúa giáng sinh) là tác giả của văn bản này, nhưng hiển nhiên nó được viết và khoảng năm 300 trước Thiên Chúa giáng sinh, tức là sau Solomon rất lâu.
[3]“Nhà tư tưởng địa phương” ở đây là Vasily Rozanov (1856-1919) ở St. Petersburg.
[4]Anna Akhmatova, Venice (1912).
***
Những người giác đấu
Vĩnh biệt.
Lát nữa chúng ta sẽ lại gặp nhau
trong hố chôn chung.
Giờ của chúng ta rốt cuộc
đã điểm. Thế thì sao?
Chúng ta đã thua cuộc.
Chúng ta sẽ chết trên đấu trường.
Càng tốt.
Chúng ta sẽ không phải rụng tóc
vì đã quá yêu phụ nữ
và rượu nho.
Bầu trời trên hí trường Colisée
xanh như
bầu trời trên đất quê hương chúng ta
chỗ đất chúng ta đã bỏ đi
để biết sự thật
và cũng
vì của cải của dân La mã.
Vả lại
chúng ta không luyến tiếc gì.
Phải chăng đấy là vận số?
Đấy hẳn là do ngôi sao
của ta đã
muốn
vậy.
Giờ của chúng ta rốt cuộc đã
điểm.
Mọi người đều ngồi vào chỗ của mình.
Chúng ta sẽ chết trên đấu trường.
Con người vẫn thích những màn diễn ngoạn mục.
***
Những câu thơ về một đề từ
Điều được phép với Jupiter không
phải là được phép với một con bò.
Mỗi người trước Thượng đế
là trần truồng.
Đáng thương,
trần truồng
và nghèo khó.
Trong mọi âm nhạc
ta tìm thấy Bach,
Trong mỗi chúng ta,
ta tìm thấy Thượng đế.
Với các thần thánh
là vĩnh cửu.
Với những con bò
là phù du.
Hoàng hôn của thần thánh
thần thánh hóa chúng ta.
Ta hãy thử nhảy vọt
qua phía trên bầu trời,
và có lẽ
chúng ta sẽ lại rơi xuống.
Chúng ta sẽ một ngàn lần nữa còn
bị đóng đinh trên thập giá
và họ sẽ thét vào tai chúng ta
rằng chúng ta đang thối rữa.
Và những vết thương của chúng ta
sẽ bắt chúng ta gào thét.
Và chúng ta sẽ khát thèm quà biếu.
Mỗi người có
đền thờ của mình.
Mỗi người chờ đợi
phần mộ của mình.
Hãy pha trò đi,
hãy bay,
hãy cầu nguyện!
Hãy cô đơn,
như một ngón tay!
Cũng như những con bò
với roi quất,
thập giá
là vĩnh cửu của thần thánh.
***
NHỮNG LÁ THƯ TRIỀU MINH
I
«Thế là đã sắp mười ba năm con chim họa mi bỏ lồng
bay đi. Và để ngủ đêm hoàng đế phải nuốt
những dược hoàn với máu người thợ may bị hành hình,
rồi buông mình trên chăn gối, và, điệu nhạc giả tiếng chim vặn lên,
ngài chìm vào giấc ngủ với tiếng hót đều đều đu đưa.
Từ nay, ấy là tất cả những ngày kỷ niệm chu niên ở Thiên triều,
những ngày kỷ niệm lẻ buồn bã.
Chiếc gương đặc biệt xóa mờ những vết nhăn
mỗi năm một đắt hơn. Khu vườn nhỏ nơi đây chết dần.
Cả đến bầu trời cũng lấm chấm những kim châm như đôi vai
và gáy một bệnh nhân (chỉ thấy có tấm lưng).
Đôi khi em nhận việc giải thích cho hoàng tử
bản chất các vì sao, và ông thường diễu cợt.
Lá thư này, hỡi người yêu dấu, Hồng Nhạn của anh
viết bằng bút lông trên phiến giấy rơm rất mịn
hoàng hậu đã cho em.
Chung quanh, không biết vì đâu, ngày càng có nhiều giấy, ngày càng ít thóc gạo.»
II
«Đường thiên lý khởi từ bước đầu,
ngạn ngữ nói thế. Nhưng tiếc thay không tùy thuộc vào đấy
con đường trở về, con đường vượt xa hơn nhiều
ngàn lý. Nhất là khi mình khởi đi từ số không.
Một ngàn lý, hai ngàn lý,
con số ngàn có nghĩa là giờ đây mi đã ở thật xa
mái ấm quê hương, và sự phi lý của từ ngữ
nhuốm độc những con số; nhất là những số không.
Gió cuốn về hướng Tây, như những hạt chín vàng
của một vỏ đậu đã nứt, về nơi xa kia, phía Trường thành.
Trên tấm nền này con người thật quái gở, khủng khiếp, như một ẩn tự,
như mọi ký hiệu bí hiểm khác.
Chuyển động theo một chiều duy nhất biến tôi thành
một vật bị kéo dài ra, như đầu một con ngựa.
Sức mạnh, sống nơi thân xác, tiêu tan khi bóng tối cọ sát
trên những gié lúa mạch dại héo khô.»
(DC)
***
CHỈ CÓ TRO MỚI BIẾT...
Chỉ có tro mới biết thế nào là tàn lụi.
Song tôi vẫn nói ra điều ấy, sau khi phóng một cái nhìn cận thị về phía trước:
không phải tất cả đã bị gió cuốn đi, và ngọn chổi
cào quét rộng khắp sân không thu lượm được hết.
Chúng ta, mẩu thuốc nhăn nheo, đờm rãi, vẫn còn lại trong bóng tối
dưới băng ghế đá, nơi không một tia sáng nào lọt tới,
và, quyện chặt với bùn nhơ, đếm những tháng ngày,
chúng ta tạo thành đất mùn, cặn rác, lớp đất trồng cấy.
Trước cây xẻng lấm lem, nhà khảo cổ sẽ há hốc miệng
trong tiếng nấc cụt; thế nhưng điều phát hiện của ông sẽ vang rền
khắp vũ trụ, như một niềm đam mê bị chôn vùi dưới đất,
như những thứ Kim-tự-tháp lật ngược.
«Xác thối!» ông sẽ kêu lên, tay ôm bụng,
nhưng ông sẽ thật cách xa chúng ta hơn cả trái đất đối với lũ chim,
bởi lẽ là xác thối, chính là không còn bị ràng buộc với các tế bào của mình, là tự do đối với
hết thảy: vinh dự tột cùng của các phân tử.
(DC)
***
Những trận đánh không dứt
Những trận đánh không dứt,
hòa bình chỉ đến với chúng tôi trong giấc mộng.
Đừng để bất cứ cái gì
quấy rối những giấc mơ của chúng tôi.
Đêm trắng
những con chim say ngủ
đong đưa trong im lặng xanh.
Những trận đánh không dứt,
những trận xung kích buổi rạng đông,
những viên đạn
không còn biết ca hát
và thét vào tai chúng tôi:
“sự bất tử
đang chờ các bạn”
Thế nhưng chúng tôi chỉ muốn
sống sót trở về.
Xin lỗi.
Chúng tôi đã tiêu hao sức điên cuồng của mình,
chúng tôi đã tưởng thế giới
là một cái lan can.
Tim chúng tôi nhảy vọt,
bổ nhào tới, sùi cả bọt
như những con ngựa
bị bắn sát ngay mình
... Này đàng kia
đừng có đánh thức chúng tôi nữa.
Đừng để bất cứ gì
quấy rối những giấc mơ của chúng tôi.
Có gì quan trọng
nếu chúng tôi đã không chiến thắng,
có gì quan trọng
nếu chúng tôi đã không bao giờ trở về?
***
Ở khu Hồ
Ngày ấy, ở một nơi mà nha sĩ phát đạt
(con gái họ đặt quần áo đắt tiền từ Luân Ðôn;
những cái kẹp vẽ trên bảng hiệu của họ giơ cao
một cái Răng Khôn thông thường và trừu tượng),
ở đó tôi—hàm răng chứa nhiều phế tích bất hạnh
hơn một đền Parthenon bất kỳ—điệp viên, mũi nhọn
cho đội quân thứ năm [*] nào của một nền văn hóa đang thối ruỗng
(vỏ ngoài tôi một chức giáo sư văn chương),
sống tại một đại học gần cái hồ nổi tiếng
nhất trong các hồ nước ngọt; công tác
tôi được đề bạt lên là bào mòn
kiên nhẫn của bọn trẻ thông minh trong vùng.
Cái gì tôi viết ra cũng dở dang:
những dòng tôi hết hạn bằng chuỗi dấu chấm. Kiệt sức,
tôi đổ xuống, vẫn mặc nguyên quần áo, trên giường.
Ban đêm tôi nhìn trừng lên trần nhà tối
cho tới khi thấy một ngôi sao xẹt, mà rồi,
tuân theo các luật lệ về tự thiêu,
sẽ lóe lên–trước khi tôi kịp ước ngay chỉ một điều—
ngang qua má tôi và xuống trên gối.
11/1972 - Ann Arbor
(Bản dịch của Lê Đình Nhất-Lang)
---------------
[*] "fifth column". Từ The Fifth Column bắt nguồn từ Cuộc nội chiến ở Tây ban nha (1936-1939), khi tướng Emilio Mola Vidal đưa bốn đội quân của ông tiến về Madrid, và gọi những người chiến đấu ủng hộ nằm sẵn bên trong thủ đô, hoạt động bí mật chống lại quân Chính phủ, là đội quân thứ năm của mình. Do đó từ này thường được dùng để chỉ lực lượng những người có thiện cảm ngầm, gián tiếp làm nội ứng. (Chú thích của HNB)
***
Giai điệu Belfast
Ðây đứa con gái của thành phố hiểm hung.
Nàng cắt mái tóc sậm ngắn
cho bớt phần thân thể phải não nùng
khi người nào bị bắn.
Nàng gập kỷ niệm lại như tấm vải dù.
Rơi, nàng lượm lại hòn than
về nấu rau ở nhà: họ bắn nhau
ngay đây, chỗ họ ăn.
A, trời ở đây nhiều hơn những chỗ, như,
đất. Nên giọng nói nàng khản,
cái nhìn như bóng đèn xám lưu dư
ảnh nơi võng mạc bạn
khi quay về, và cắt ngang gối váy kết
bông để đỡ khi vấp té,
tôi mơ thấy nàng được yêu hay chết
vì thành phố quá bé.
1986
( Bản dịch của Lê Đình Nhất-Lang)
----------
Dịch từ hai bài “In the Lake District” và “Belfast Tune” trong cuốn Collected Poems in English của Joseph Brodsky (New York: Farrar, Straus and Giroux, 2000).
***
Odysseus nói với Telemachus
Telemachus con yêu của ta,
Cuộc chiến thành Troy
giờ đây đã kết thúc; ta không còn nhớ ai đã thắng trận.
Người Hy lạp, hẳn thế, bởi cho đến nay chỉ có họ mới có thể
đánh gục được nhiều người đến vậy khi xa quê hương mình.
Thế tuy nhiên, đường về quê ta ta quả thấy quá xa.
Trong khi chúng ta phí thì giờ ở đấy, thì gần như có vẻ
thần biển Poseidon đã căng dài và mở rộng không gian.
Ta không biết mình đang ở đâu cũng chẳng hay chỗ này
có thể là gì. Hình như ta nhìn thấy có hòn đảo nát bẩn,
những bụi cây, những tòa nhà, và cả những con lợn ủn ỉn.
Một khu vườn ngập tràn cỏ dại; một nữ hoàng gì đó.
Cỏ và đá tảng... Này Telemachus, con trai ta!
Đối với một kẻ tha phương thì mọi hòn đảo
dáng vẻ đều giống nhau. Và trí tuệ lạc bước,
vì mải đếm những ngọn sóng; nước mắt ứa ra vì mải nhìn
những chân trời; và những khối nước làm cho tai lùng bùng.
Ta không nhớ ra được cuộc chiến đã kết thúc như thế nào;
ngay cả con bao nhiêu tuổi – ta cũng không thể nhớ ra.
Vậy thì hãy lớn dậy, hỡi Telemachus con ta, hãy lớn mạnh.
Chỉ thần thánh mới biết được chúng ta sẽ còn gặp lại nhau
hay không. Từ lâu con đã thôi là thằng bé con ta vẫn
phải đứng trước mặt để chận những con bò kéo cày.
Nếu không có cái trò bịp của Palamedes
cha con ta đã vẫn còn sống bên nhau dưới một mái nhà.
Nhưng có lẽ ông vua kia có lý; sống xa ta
con lại an toàn khỏi lo mọi thứ đam mê kiểu Œdipus, và
những giấc mơ của con, Telemachus, sẽ không có gì tội lỗi.
---------------------
Dịch từ bản Anh ngữ "Odysseus to Telemachus" của George L. Kline, đăng lần đầu trên The New York Review of Books, số ra ngày 5 tháng Tư năm 1973. Số báo này nằm trong xấp báo cùng tên, lẫn lộn với những số The New Yorker anh DC để lại Saigon sau khi đã cắt đi những bài anh ấy muốn giữ có lẽ để đem theo qua Pháp. Bản dịch trên – một trong những bản dịch Brodsky “lâu đời” nhất vừa tìm thấy lại của tôi – vì thế, đã được gửi gắm cho t/c, để tặng và cám ơn nhà thơ DC, khi đi Pháp đã không quên để Brodsky lại Saigon cho người dịch này. Bài thơ trên cũng được chọn in trong Selected Poems, Joseph Brodsky, Harper & Row, Publishers, 1973, và Collected Poems in English, Joseph Brodsky, Farrar, Straus and Giroux, 2000. Như chúng ta biết, những bản dịch của G.L. Kline hầu hết đều được Joseph Brodsky xem lại.
Chia sẻ với bạn bè của bạn: |