Tạp chí Khoa học Trường Đại học Cần Thơ
Phần D: Khoa học Chính trị, Kinh tế và Pháp luật: 36 (2015): 72-80
74
Lý thuyết nguồn lực liên tục được phát triển và
được mở rộng trong thị trường luôn biến động và
hình thành nên lý thuyết năng lực động. Eisenhardt
KM và Martin JA (2000) đã chỉ ra rằng nguồn lực
có thể trở thành năng lực động là những nguồn lực
thỏa mãn bốn đặc điểm, đó là (1) có giá trị, (2)
hiếm, (3) khó thay thế, và (4) khó bị bắt chước.
Theo Teece DJ, Pisano G và Shuen A (1997), năng
lực động được xem là khả năng tích hợp, xây dựng,
và định dạng lại những tiềm năng của DN để đáp
ứng với thay đổi của môi trường kinh doanh.
Nguồn năng lực động là cơ sở tạo ra lợi thế cạnh
tranh và đem lại kết quả kinh doanh của DN
(Eisenhardt KM và Martin JA, 2000). Vì vậy, các
DN phải luôn nỗ lực xác định, nuôi dưỡng, phát
triển, và sử dụng năng lực động một cách có hiệu
quả, thích ứng với sự thay đổi của thị trường
để đem lại lợi thế cạnh tranh cho mình một cách
bền vững.
Có rất nhiều nghiên cứu về các yếu tố có khả
năng tạo nên nguồn năng lực động của DN và ảnh
hưởng đến NLCT như: định hướng thị trường và
định hướng học hỏi của DN (Celuch KG, 2002);
năng lực sáng tạo (Hult GTM, 2004); chất lượng
mối quan hệ, nguồn nhân lực, nguồn lực vật chất
(Nguyễn
Thi Mai Trang, 2004); định hướng toàn
cầu, hợp tác quốc tế, tri thức về thị trường quốc tế,
khả năng phản ứng với thị trường quốc tế
(Yeniyurt S, 2005).
Tại Việt Nam, đã có một số nghiên cứu về tác
động của nguồn năng lực động đến NLCT của các
DN. Cụ thể, Hồ Trung Thành (2012) đã đề xuất các
tiêu chí đánh giá NLCT động của các DN ngành
Công thương, bao gồm năng lực sáng tạo, định
hướng học hỏi, sự hội nhập toàn diện, năng lực
Marketing, định hướng kinh doanh, và kết quả kinh
doanh. Trong nghiên cứu của Nguyễn Đình Thọ
(2009) về năng lực động đã cho thấy các nhân tố:
định hướng
kinh doanh, năng lực Marketing, kết
quả kinh doanh, năng lực sáng tạo, định hướng học
hỏi, kỳ vọng cơ hội WTO, nguồn lực tài chính,
năng lực quản lý, và năng lực nghiên cứu và phát
triển có ảnh hưởng đến NLCT của các DN trên địa
bàn TP Hồ Chí Minh. Huỳnh Thị Thúy Hoa (2009)
thực hiện nghiên cứu về mô hình NLCT động của
DN Siemens Việt Nam và đã chứng minh
năm nhân tố là: năng lực Marketing, định hướng
kinh doanh, năng lực sáng tạo, năng lực tổ chức
dịch vụ, và danh tiếng DN có ảnh hưởng đến
NLCT của DN này.
2.1.2 Mô hình nghiên cứu đề xuất
Thông qua lược khảo tài liệu nghiên cứu, có
nhiều nhân tố nội tại ảnh hưởng đến NLCT của
DN. Trong đó, các nhân tố (1) mối quan hệ (2)
danh tiếng DN (3) năng lực marketing (4) năng lực
nghiên cứu và phát triển (5) nguồn nhân lực (6) các
nguồn lực vật chất (7) năng lực tài chính (8) năng
lực quản lý điều hành đã được chứng minh là có
ảnh hưởng quan trọng đến NLCT của các DN ở
Việt Nam. Do đó, 8 nhân tố trên sẽ được nghiên
cứu sử dụng để xác định các nhân tố ảnh hưởng
đến NLCT của các DN KTTN tại Cần Thơ, với
thang đo cho các nhân tố được trình bày
trong
Bảng 2.
Chia sẻ với bạn bè của bạn: