2 PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1 Khung lý thuyết và mô hình nghiên cứu
2.1.1 Khung lý thuyết về NLCT
Có nhiều khung lý thuyết dùng để nghiên cứu
và phân tích NLCT ở cấp độ DN. Trong đó, lý
thuyết nguồn lực cạnh tranh được đề xuất và phát
triển bởi Wernerfelt B, 1984 và Grant RM, 1991 đã
được nhiều nhà nghiên cứu trên thế giới, cũng như
tại Việt Nam vận dụng để phân tích các yếu tố nội
tại góp phần tạo nên NLCT của DN trong môi
trường kinh doanh có nhiều thay đổi.
Lý thuyết về nguồn lực của DN tập trung vào
phân tích cạnh tranh dựa vào các yếu tố bên trong.
Nguồn lực của DN thể hiện ở nhiều dạng khác
nhau. Chẳng hạn như Grant RM (1991) chia chúng
ra thành hai nhóm: (1) Nguồn lực hữu hình bao
gồm nguồn lực về tài chính và vật chất hữu hình.
Trong đó, nguồn lực về tài chính như vốn tự có và
khả năng vay vốn của DN; Nguồn vật chất hữu
hình bao gồm những tài sản sản xuất hữu hình của
DN có thể đem lại lợi thế về chi phí sản xuất như
qui mô, vị trí, tinh vi về kỹ thuật, tính linh hoạt của
nhà máy sản xuất, của trang thiết bị, nguyên vật
liệu đầu vào,… (2) Nguồn lực vô hình bao gồm
công nghệ, danh tiếng, và nhân lực của DN. Trong
đó, Nguồn lực về công nghệ bao gồm sở hữu trí
tuệ, bằng phát minh, sáng chế,…; Nguồn lực về
danh tiếng bao gồm việc sở hữu nhãn hiệu nổi
tiếng về dịch vụ, chất lượng, độ tin cậy, thiết lập
được mối quan hệ tốt với khách hàng, nhà cung
cấp, ngân hàng và chính quyền,…; Nguồn lực về
nhân sự bao gồm kiến thức, kỹ năng của nhân viên,
khả năng thích hợp của nhân viên với tính linh hoạt
trong chiến lược, lòng trung thành của nhân
viên,… Theo Teece DJ, Pisano G và Shuen A
(1997), nguồn lực của DN chính là yếu tố quyết
định đến lợi thế cạnh tranh và kết quả kinh doanh
của DN, dựa trên tiền đề là các DN trong cùng một
ngành thường sử dụng những chiến lược kinh
doanh khác nhau và không thể dễ dàng sao chép
được vì chiến lược kinh doanh phụ thuộc vào chính
nguồn lực của DN đó. Tương tự, Nguyễn Đình Thọ
(2009) phân loại các nguồn lực bên trong DN như
trong Bảng 1.
Chia sẻ với bạn bè của bạn: |