Bảng 5: Kết quả phân tích mô hình hồi quy tuyến tính
Biến
Hệ số B
Hệ số Beta
Sig.
VIF
Hằng số
-0,221
-
0,000
-
MOIQH
0,098
0,576
0,000
1,617
DANHTIENG
0,072
0,422
0,281
1,216
NLMAR
0,087
0,315
0,067
1,528
NLNC&PT
0,056
0,187
0,026
1,420
NGUONNL
0,024
0,346
0,012
1,224
NLTAICHINH
0,072
0,411
0,000
1,289
NLQUANLY
0,047
0,559
0,038
1,306
Hệ số Sig.F
0,000
Hệ số R
2
hiệu chỉnh
55,6
Hệ số Durbin - Watson
1,980
Nguồn: Kết quả phân tích từ số liệu điều tra, 2013
Phương trình hồi quy tương ứng như sau:
Y = -0,221 + 0,098*MOIQH + 0,087*NLMAR
+ 0,056*NLNC&PT + 0,024*NGUONNL +
0,072*NLTAICHINH + 0,047*NLQUANLY
Trong 7 biến độc lập đưa vào mô hình thì có 6
biến có hệ số Sig. <10%, giải thích được sự thay
đổi của NLCT của các DN KTTN tại Cần Thơ. Cụ
thể: mối quan hệ, năng lực Marketing, năng lực
nghiên cứu và phát triển, nguồn nhân lực, nguồn
lực tài chính, và năng lực quản lý tỷ lệ thuận với
NLCT của DN. Hay nói một cách khác, nếu DN
tạo được mối quan hệ tốt với khách hàng, các đối
tác, cơ quan ở địa phương, quan tâm nhiều đến các
hoạt động Marketing, đầu tư cho nghiên cứu và
phát triển sản phẩm dịch vụ, nguồn nhân lực có
chất lượng, có tiềm lực về tài chính, và chủ DN có
năng lực quản lý, điều phối tốt hoạt động kinh
doanh thì NLCT của DN sẽ càng tăng. Trong đó,
biến mối quan hệ có ảnh hưởng mạnh nhất đến
NLCT của các DN KTTN, kế đến là biến năng lực
Marketing. Điều này cho thấy, việc tạo nhiều mối
quan hệ tốt và nâng cao năng lực Marketing là rất
quan trọng để nâng NLCT của DN KTTN tại Cần
Thơ. Ngoài ra, nhân tố được kỳ vọng có tác động
lên NLCT của DN là Danh tiếng lại không có ý
nghĩa thống kê ở mức ý nghĩa 10%. Điều này trái
ngược với nghiên cứu của Hoa (2009). Đồng thời,
kết quả này cũng trái ngược với xu hướng thị
trường hiện nay là người tiêu dùng ngày càng quan
tâm nhiều đến vấn đề nhãn hiệu, thương hiệu, chỉ
dẫn địa lý,… để lựa chọn những sản phẩm, dịch vụ
đảm bảo chất lượng, uy tín. Kết quả mâu thuẫn với
thực tế này có thể là do các DN KTTN Cần Thơ có
đặc điểm khác với các DN khác trong vấn đề xây
dựng thương hiệu và danh tiếng trong sản xuất
kinh doanh. Thực tế cho thấy, hệ thống siêu thị tại
Cần Thơ phát triển rất nhanh trong thời gian qua.
Hệ thống siêu thị được xem là điểm nổi bật trong
tiến trình phát triển của ngành thương mại thành
phố, mang đến phong cách mua sắm hiện đại, góp
phần nâng cao chất lượng cuộc sống của người
dân. TP Cần Thơ hiện có các siêu thị bán buôn, bán
lẻ đang hoạt động như: Metro Hưng Lợi, Vinatex
Cần Thơ, CoopMart Cần Thơ, Maximark Cần Thơ,
siêu thị Điện máy Sài Gòn - Chợ lớn; siêu thị sách
Hòa Bình, Trung tâm mua sắm Sài Gòn Nguyễn
Kim, Trung tâm thương mại BigC Cần Thơ,…
Cùng với hệ thống mua sắm hiện đại, các kênh
phân phối, loại hình kinh doanh như: cửa hàng tiện
lợi, siêu thị mini, chợ đêm, trung tâm mua sắm,…
cũng đã và đang hình thành trên địa bàn thành phố.
Tuy nhiên, sự tăng trưởng tiềm năng này không
được DN KTTN Cần Thơ tận dụng. Tràn ngập
trong những siêu thị tại thành phố là hàng hóa có
xuất xứ từ nước ngoài (Trung Quốc, Thái Lan,
Indonesia, Malaysia, Hàn Quốc,…) và các sản
phẩm đến từ TP Hồ Chí Minh và các tỉnh thành
Tạp chí Khoa học Trường Đại học Cần Thơ
Phần D: Khoa học Chính trị, Kinh tế và Pháp luật: 36 (2015): 72-80
78
khác. Hầu như rất khó để tìm thấy các sản phẩm có
nguồn gốc, xuất xứ tại Cần Thơ.
Tuy nhiên, kết quả phân tích hồi quy về các
nhân tố ảnh hưởng đến NLCT của các DN KTTN
tại Cần Thơ vẫn cho thấy nhiều điểm hợp lý. Năng
lực Marketing, năng lực nghiên cứu và phát triển
sản phẩm, nguồn nhân lực, nguồn lực tài chính,
năng lực quản lý là những nhân tố quan trọng
thường được các DN đề cập trong vấn đề nâng cao
NLCT. Điều này là hoàn toàn hợp lý trong một thị
trường cạnh tranh gay gắt như hiện nay, và tương
đồng với các kết quả nghiên cứu của Hồ Trung
Thành (2009), Huỳnh Thị Thúy Hoa (2009),
Nguyễn Đình Thọ (2009) và Nguyen Thi Mai
Trang và ctv. (2004). Đặc biệt, nhân tố mối quan hệ
có tác động lớn nhất lên NLCT của DN là một vấn
đề đáng quan tâm. Mối quan hệ tốt với khách hàng,
đối tác, các tổ chức tín dụng và cơ quan ban ngành
ở địa phương là rất quan trọng và cần thiết trong
hoạt động sản xuất kinh doanh. Nhưng nếu doanh
nghiệp quá lạm dụng các mối quan hệ này trong
việc nâng cao lợi thế cạnh tranh, đặc biệt là mối
quan hệ với các tổ chức tín dụng và cơ quan ban
ngành thì có thể tạo thành những mối quan hệ
không lành mạnh, gây ảnh hưởng tiêu cực trong
quá trình nâng cao NLCT bền vững cho cả khu vực
KTTN.
Chia sẻ với bạn bè của bạn: |