Mã số: 60. 62. 10 Người hướng dẫn khoa học: HÀ NỘI 2009 LỜi cam đoan


* Bệnh gỉ sắt do nấm Puccinia arachidis Speg



tải về 0.71 Mb.
trang2/8
Chuyển đổi dữ liệu14.08.2016
Kích0.71 Mb.
#19210
1   2   3   4   5   6   7   8

* Bệnh gỉ sắt do nấm Puccinia arachidis Speg

Bệnh gỉ sắt là một bệnh hại lá nguy hiểm và phổ biến ở nhiều nước trồng lạc trên thế giới. Bệnh do nấm Puccinia arachidis gây ra. Bệnh có thể gây thiệt hại đến 50% năng suất, khi có sự kết hợp gây hại của bệnh đốm đen thì thiệt hại về năng suất có thể lên đến 70%, có khi mất trắng (Kokalis N. et al, 1997) [3]. Ở Trung Quốc thiệt hại do bệnh gỉ sắt gây ra làm giảm tới 49% năng suất, khối lượng 100 hạt giảm 19%. Ở Ấn Độ thiệt hại về năng suất lên tới 79%. Ở Texas, Mỹ thiệt hại về năng suất do bệnh hại lá là 77-86%, trong đó thiệt hại do gỉ sắt gây ra chiếm 50-70%

Nghiên cứu vòng đời của nấm gỉ sắt thấy có 5 giai đoạn xuất hiện bào gồm đản (đảm mọc ra từ các bào tử đảm), ổ bào tử xuân (bào tử giống), bào tử hạ, bào tử đông và bào tử đảm. Trên cây lạc, nấm gỉ sắt chỉ gây bệnh chủ yếu ở giai đoạn bào tử hạ [21]. Những nghiên cứu tại Santo Domingo (Trung Mỹ), Florida (Mỹ), Sanpaulo (Brazil) cho thấy có một khoảng thời gian ngắn giai đoạn bào tử đông được ghi nhận xuất hiện trên các mô bệnh ở lá của loài lạc trồng, rất phổ biến trên các loài lạc hoang dại (Hennen và cs, 1987) [21]. Bào tử hạ đơn bào, có dạng hình elip hoặc hình trứng, màu vàng nhạt, có nhiều gai nhỏ trên màng tế bào. Giai đoạn bào tử đông rất ít khi xuất hiện trong giai đoạn sinh trưởng của cây lạc.

Nấm bệnh gây hại làm giảm chất lượng, kích thước hạt (Anthur, 1929) và làm giảm hàm lượng dầu trong hạt (Castcellani, 1959). Nấm gây hại trên tất cả các bộ phận trên mặt đất của cây, trừ hoa. Vết bệnh trên lá là những ổ nổi màu vàng nâu, màu rỉ sắt, xung quanh có quầng nhạt [10].

Triệu chứng bệnh: đặc trưng là các chấm vàng hoặc vàng cam, đầu tiên ổ bào tử hạ xuất hiện ở mặt dưới của lá bệnh. Trong ổ bào tử hạ có chứa rất nhiều bào tử hạ có màu nâu đỏ (Subrahmanyam và McDonald, 1983). Các ổ bào tử hạ tạo thành các u nổi ở mặt dưới của lá bệnh. Vết gỉ sắt phát triển trên lá tạo thành các đốm chết hoại, làm khô lá. Một số cây bị bệnh nặng có thể chết trước khi thu hoạch [21]

Bệnh phát triển mạnh trong điều kiện có những cớn mưa đứt quảng, độ ẩm không khí trên 87% và nhiệt độ 23-240C trong nhiều ngày. Nếu thời tiết khô hanh, độ ẩm không khí dưới 75% làm giảm mức độ gây bệnh.



2.1.4 Một số nghiên cứu về biện pháp phòng trừ bệnh nấm hại lạc

* Phòng trừ bằng biện pháp hóa học

Biện pháp hóa học được sử dụng rộng rãi để phòng trừ một số loại nấm bệnh hại lạc khắp các vùng trồng lạc trên thế giới. Thuốc hóa học được sử dụng để xử lý đất, xử lý hạt giống hoặc phun trực tiếp lên cây lạc.

Theo các tác giả Tamura, 1995; Kozaka, 1961; Sekizana Harimoto và Ito, 1962[26] cho thấy nhóm hợp chất vô cơ có tác dụng phòng trừ bệnh hại vùng gốc rễ lạc khá cao và thời gian hữu hiệu tương đối dài nhưng không ức chế hoàn toàn sự phát triển của nấm khi cây đã nhiễm bệnh.

Trong hệ thống các biện pháp phòng trừ bệnh hại vùng gốc rễ như héo rũ gốc mốc đen, héo rũ gốc mốc trắng, lở cổ rễ thì biện pháp dùng thuốc hóa học để xử lý hạt giống là biện pháp hữu hiệu nhất. Theo kết quả nghiên cứu của [27][19]: nhóm thuốc hóa học dùng để xử lý hạt giống khuyến cáo và thực tế đang sử dụng hiện nay là thuốc Thiram, Carbendazim, Captan, hợp chất chứa hoạt chất benomyl và hỗn hợp một vài loại chứa các hoạt chất.

Nhóm thuốc trừ bệnh nấm hại lá lạc đạt hiệu quả cao thường được sử dụng ở các nước có nền nôn nghiệp tiên tiến, có diện tích trồng lạc rất lớn. Những nước có nền nông nghiệp kém phát triển ở khu vực á nhiệt đới người nông dân ít sử dụng các biện pháp phòng trừ nhóm bệnh hại lá. Những thuốc trừ nấm có hiệu quả cao gồm: Booc đô, Dithiocarbamates (Maneb, Mancozeb), Benomyl, Chlorothalonil, Fentin hydroxide, Carbendazim [40 H]

*Phòng trừ bằng biện pháp sử dụng nấm đối kháng Trichoderma viridep

Biện pháp sinh học là công cụ bảo vệ cây trồng đầy tiềm năng cho hiện tại và tương lai. Sử dụng các sinh vật đối kháng là một trong những hướng chính của biện pháp sinh học trừ bệnh hại cây trồng.

Biện pháp sinh học là trung tâm của hệ thống các biện pháp trong phòng trừ tổng hợp dịch hại cây trồng nông nghiệp. Đây là biện pháp được biết đến lâu đời nhất và ngày nay nó được coi là một trong những biện pháp tiên tiến trong phòng trừ dịch hại cây trồng.

Theo Martin và cs, 1985 [23] khi nghiên cứu về vi sinh vật đất cho thấy loài nấm Trichoderma viridep. là một trong những loài nấm đứng đầu của hệ sinh vật đất có tính đối kháng. Loại nấm này có khả năng ức chế, canh tranh, tiêu diệt được nhiều loài nấm gây bệnh đặc biệt là nhóm nấm đất. Việc sử dụng chúng cũng rất thuận tiện, có thể dùng xử lý hạt giống, bón vào đất, phun lên cây hoặc nhúng rễ cây con vào dung dịch chứa bào tử nấm.

Người đầu tiên đề xuất sử dụng nấm đối kháng Trichoderma viridep để phòng trừ nguồn bệnh hại cây trồng là Weidling. Tác giả đã đề nghị dùng nấm Trichoderma viridep để trừ nấm hại Rhizoctonia sp gây bệnh lở cổ rễ cây con cam quýt. Từ đó các nghiên cứu về loài nấm Trichoderma viridep để phòng trừ bệnh hại cây trồng đã được tiến hành ở nhiều nước trên thế giới. Cho đến nay đã có khoảng trên 30 nước nghiên cứu và sử dụng nấm Trichoderma viridep để phòng trừ bệnh hại cây trồng như Nga, Mỹ, Anh, Đức, Hungari, Ấn Độ, Thái Lan, Philippin.....

Việc nghiên cứu tính đối kháng, đặc biệt là tác động chọn lọc của những chất đặc trưng do nấm Trichoderma viride. tiết ra được nhiều nhà khoa học quan tâm và tiến hành nghiên cứu nhằm giải thích cơ chế tác động của nhóm nấm này đối với các sinh vật gây bệnh cho cây và sử dụng chúng trong phòng chống bệnh hại cây trồng .

Các nghiên cứu đã chỉ ra rằng T.viride là loài nấm hoại sinh trong đất, trong quá trình sống nó sản sinh ra các chất kháng sinh làm ức chế, kìm hãm và tiêu diệt một số loài nấm gây bệnh tồn tại trong đất. Bên cạnh đó, T.viride còn đóng vai trò là phân vi sinh có tác dụng kích thích sự sinh trưởng và phát triển của cây trồng như: tăng tỷ lệ nẩy mầm, chiều dài thân, diện tích lá, và tăng trọng lượng chất khô [6].

Theo Seiketov (1982), những dẫn liệu nghiên cứu đầu tiên về tác động đối kháng của nấm Trichoderma được R.Falk công bố từ năm 1931. Tác giả nhận thấy khi cây gỗ được xử lý bằng nấm T.viride thì không bị các nấm Merulius lachrymarsConiophora puteana phá hoại.

Kết quả nghiên cứu của Muthamilan, M và Jayarajan (11996) cũng cho thấy Integrated managemechTrichoderma harzianum, Rhizobium and carbendazin, Indian J. Mycol. HarzianumRhizobium carbendazin có khả năng kiểm soát nấm Sclerotium rolfsii đồng thời còn làm tăng khả năng sinh trưởng của lạc, không ảnh hưởng tới sự nảy mầm của cây lạc

Kết quả nghiên cứu củaStephen A. Ferreira, Extension Plant Pathologist Stephen A. Ferreira và Rebecca A. Boley, Educational Specialist Rebecca A. Boley, các loại nấm rolfsii in controlled experiments, though field trial Some of the commonly used organisms are: Trichoderma harzianum, T. viride, Bacillus subtilis, Penicillium spp., and GlioTrichoderma harzianum, T. viride, Bacillus subtilis, Penicillium sp. Gliocladium virens cũng có khả năng kiểm soát các loại nấm gây bệnh héo rũ ở trên cây lạc. Ngoài ra còn có nhiều các nghiên cứu khác như Peeples J.L, E.A curl, và R. Rodriguez – Kabana (191976) cũng cho thấyEffect of the herbicide EPTC on the biocontrol activity of Trichoderma viride against Sclerotium rolfsii. Plant Disease 60:1050-1cuc Trichoderma viride có khả năng kiểm soát Sclerotium rolfsii [20].

Theo Dunin (1979), ở Liên Xô sử dụng chế phẩm Trichodesmin (từ nấm Trichodesma lignorum) trên bông làm giảm 15 - 20% bệnh héo do nấm Verticillium và làm tăng năng suất lên 3 - 9 tạ bông/ha. Sử dụng chế phẩm Trichodesmin làm giảm 2.5 - 3 lần bệnh thối rễ cây con thuốc lá và rau màu. Liên Xô có 4 chế phẩm Trichodesmin khác nhau do phương pháp nhân nuôi nấm Trichodesma, chế phẩm Trichodesmin ở Liên Xô được sử dụng trên diện tích 3000 ha (Filippov, 1987) [24]

Nấm Trichoderma có khả năng phòng trừ bệnh nhờ có 4 cơ chế tác động sau:



Cơ chế kí sinh (Mycoparasitism)

Hiện tượng ký sinh của nấm Trichoderma trên nhóm gây bệnh cây được R.Weindling mô tả từ năm 1932. Weindling gọi đó là hiện tượng “Giao thoa sợi nấm”.

Trước tiên, sợi nấm Trichoderma vây xung quanh sợi nấm gây bệnh cây, sau đó các sợi nấm Trichoderma thắt chặt lấy các sợi nấm gây bệnh, cuối cùng mới thấy nấm Trichoderma xuyên qua sợi nấm gây bệnh làm thủng màng ngoài của nấm gây bệnh, gây nên sự phân huỷ các chất nguyên sinh trong sợi nấm gây bệnh cây.

Những nghiên cứu chi tiết gần đây bằng kính hiển vi điện tử về vùng “Giao thoa sợi nấm” cho thấy cơ chế chính của hiện tượng kí sinh ở nấm



Trichoderma trên nấm gây bệnh cây là sự xoắn của sợi nấm Trichoderma quanh sợi nấm vật chủ, sau đó xảy ra hiện tượng thuỷ phân thành sợi nấm vật chủ, nhờ đó mà sợi nấm Trichoderma xâm nhập vào bên trong sợi nấm vật chủ. Chúng phát triển mạnh ở bên trong sợi nấm vật chủ. Điều này dẫn đến hiện tượng chất nguyên sinh ở sợi nấm vật chủ bị phá rối từng phần hoặc hoàn toàn. Cuối cùng, nguyên sinh chất bị mất đi và sợi nấm vật chủ phá vỡ, giải phóng các sợi nấm đang sinh sản của nấm Trichoderma.

Những sợi nấm chính của nấm vật chủ bị đánh thủng thành lỗ ở nhiều chỗ. Đó là hiện tượng tan rã kitin vùng xung quanh nơi xâm nhập của nấm Trichoderma (Dubey,1995) [10]



Cơ chế kháng sinh (antibiotic)

Nấm Trichoderma có khả năng sinh ra một số chất kháng sinh. Khả năng sinh ra chất kháng sinh của các loài, chủng, các dạng sinh thái của nấm Trichoderma không giống nhau.

- Gliotoxin: là chất kháng sinh được Rweindling và O.Emerson mô tả năm 1936 do nấm Trichodermal lignorum tạo thành. Chất Gliotoxin có phổ tác động rộng lên nhiều vi sinh vật: vi khuẩn (Mycobacterium tuberculosum, Staphylococcus aureus,...), nấm (Ascochyta pisi, Rhizoctonia solani).

Chất Gliotoxin gây tác động độc không chỉ với các nấm khác mà còn độc ngay cả với nấm Trichoderma (nhưng liều lượng gây chết Trichoderma rất cao, gấp 40 lần so với nấm Rhizoctonia).

- Viridin: Là chất kháng sinh thứ 2 do nấm Trichoderma tạo thành trong hoạt động sống của chúng. Chất kháng sinh này được Brian Hemming phát hiện vào năm 1945. Viridin độc hơn nhiều so với Gliotoxin và có hoạt tính chống nấm cao, với lượng 0.003 - 0.006 mg/ml hoàn toàn kìm hãm sự phát triển của nấm Fusarium, Collectotrichum,v.v…

Ngoài ra đã xác định một số chất kháng sinh khác do nấm Trichoderma sinh ra như: chất kháng sinh U- 21693 được Meyer phát hiện năm 1996 do chủng UC - 4785 (loài T. viride) sinh ra [25]



Cơ chế tác động của men (enzyme)

Nhiều loài Trichoderma có khả năng sản sinh ra men phân giải (như men Laminarinaza, Chitinaza,…) (Score et al., 1994).

Khi phát triển ở trên thành tế bào nấm vật chủ thì nấm Trichoderma có thể tiết ra những loại men gây suy biến thành tế bào nấm gây bệnh cho cây như men (1-3) glucanase và chitinase (Chet et al., 1981; Jones and Watson, 1969).

Cơ chế cạnh tranh

Nấm Trichoderma có thể biểu hiện tính đối kháng thông qua việc cạnh tranh với nấm gây bệnh cây về dinh dưỡng, nơi cư trú. Nấm Trichoderma thường định cư trước so với nấm gây bệnh cây.

Sử dụng nấm đối kháng trong công tác bảo vệ thực vật là một trong những biện pháp sinh học mang tính khả thi cao.

trên.


2.2 Những nghiên cứu trong nước

Những năm 1980 trở về trước, nghiên cứu bệnh hại lạc ở nước ta rất hạn chế. Bắt đầu từ những năm 1990 đến nay cùng với sự phát triển sản xuất lạc ở nước ta, vấn đề bệnh hại lạc ngày càng được chú ý và thu hút sự quan tâm của các Viện, Trường, Trung tâm nghiên cứu trong cả nước, hợp tác quốc tế và đào tạo cán bộ về nghiên cứu bệnh hại lạc cũng được tăng cường trong khuôn khổ chương trình hợp tác Việt Nam – CLAN/ICRISAT.



2.2.1 Tình hình nghiên cứu bệnh hại lạc ở Việt Nam

Theo Lê Lương Tề (1977) ở nước ta bệnh héo rũ chết cây chủ yếu do: Pseudomonas solanacearum, Sclerotium rolfsii, Macrophomina phaseolina, Aspergillus niger. Ngoài ra còn có các hiện tượng thối rũ, thối gốc do Rhizoctonia solaniFusarium oxysporum [28].

Theo Nguyễn Thị Ly và cs., (1991-1995)[29] thành phần bệnh chết héo hại lạc ở miềm bắc Việt Nam có 10 bệnh, trong đó bệnh lở cổ rễ gây hại nặng, các bệnh héo gốc mốc đen ( A. niger), bệnh mốc vàng ( A. flavus), bệnh héo gốc mốc trắng ( S. rolfsii), bệnh héo xanh (Pseudomonas solanacearum) gây hại ở mức trung bình còn các bệnh khác gây hại ở mức độ nhẹ. Hầu hết các mẫu hạt thu được ở các vùng trồng lạc đều nhiễm nấm A. flavus.

Nghiên cứu của Nguyễn Xuân Hồng và CTV (1998) [30] đã xác nhận nhóm bệnh hại lá bao gồm đốm đen, đốm nâu, gỉ sắt là nhóm bệnh hại phổ biến ở nước ta. Thiệt hại do bệnh gây ra lớn hơn 40% năng suất, hầu hết các giống đang trồng ở miền Bắc đều có khả năng nhiễm bệnh.

Nguyễn Mai Chi và cs., 2005 [31] cho biết, khi nghiên cứu về thành phần bệnh hại lạc trên đồng ruộng vụ thu đông tại đồng bằng sông Hồng từ năm 2002-2004 đã phát hiện 20 loại bệnh hại lạc được ghi nhận tại 8 tỉnh. Trong đó 17 bệnh do nấm gây ra, 1 bệnh do vi khuẩn, 1 bệnh do virus và một bệnh do Mycoplasma. Hai bệnh héo rũ gốc mốc trắng (S. rolfsii) và héo gốc mốc đen (A. niger) là những bệnh xuất hiện phổ biến nhất.

Theo Đỗ Tấn Dũng (2005-2006) [32], bệnh héo rũ gốc mốc trắng là một trong những loại bệnh hại phổ biến trên nhiều loại cây trồng khác nhau ở các giai đoạn sinh trưởng khác nhau. Tác hại chủ yếu của bệnh là gây hiện tượng héo rũ, chết cây làm ảnh hưởng không nhỏ tới năng suất. Bệnh thường xuất hiện sau trồng từ 16-23 ngày trở đi, bệnh có xu hướng tăng dần khi cây bắt đầu ra hoa – hình thành quả.

Cũng theo tác giả Đỗ Tấn Dũng (2005-20060 [33] bệnh lở cổ rễ phát sinh gây hại trên nhiều loại cây trồng cạn khác nhau, bệnh thường xuất hiện trên đồng ruộng từ sau gieo một tuần trở đi, bệnh có xu hướng tăng dần vào giai đoạn tiếp theo và đạt tỷ lệ bệnh cao nhất vào thời điểm 28-35 ngày sau gieo. Bệnh gây hại phổ biến trên cây con.

Theo kết quả nghiên cứu của Lê Như Cương (2004) [34], tại một số vùng sinh thái ở tỉnh Thừa Thiên Huế có 6 loại bệnh héo rũ lạc là: Lở cổ rễ (R. solani), Thối gốc mốc đen (A. niger), héo rũ gốc mốc trắng (S. rolfsii), héo rũ vàng (Fusarium sp.), héo rũ tái xanh (Ralstonia solanacearum), héo do tuyến trùng (Meloidogyne sp.). Tại Việt Nam, hiện nay đã tìm thấy 4 loài Fusarium gây bệnh cho lạc là: F. oxysporum, F. solani, F. roseum và F.tricinetum (Nguyễn Kim Vân và cộng sự, 2001) [35].



2.2.2 Một số nghiên cứu về bệnh hại hạt giống ở Việt Nam

Ở Việt Nam, những nghiên cứu về bệnh hại lạc trong thời gian qua chủ yếu chỉ tập trung vào bệnh hại trên đồng ruộng và các biện pháp phòng trừ chúng. Những nghiên cứu về bệnh hại hạt giống và khả năng truyền lan của chúng hiện nay còn rất ít. Một số nghiên cứu đi sâu về bệnh nấm trên hạt giống lạc nhưng chỉ mới tập trung vào một số loài có khả năng gây nguy hiểm cả cho người, động vật.

Theo Ngô Bích Hảo, 2004 [36] khi tiến hành kiểm tra tình hình nhiễm nấm A.flavusA.niger trên các mẫu hạt giống lạc, ngô, đậu xanh, đậu đen owr vùng Hà Nội và phụ cận cho thấy tỷ lệ nhiễm nấm Aspergillus spp rất cao, dao động từ 66-100%, tỷ lệ trung bình là 86,2%. Trong đóm, tỷ lệ nhiễm nấm A.flavus là 87,6%.

Theo tác giả Nguyễn Thị Ly (1993) [37] đã xác định có khoảng 30 – 85% số mẫu lạc kiểm tra có khả năng sản sinh độc tố Aflatoxin do nấm Aspergillus flavus gây ra.

Nhiều kết quả nghiên cứu trong nước gần đây cho thấy: Aspegillus flavus thường tấn công vào lạc từ khi còn trên đồng ruộng. Ngay sau khi thu hoạch đã có tới hơn 66% mẫu thu thập bị nhiễm bệnh. Trong đó, lạc thu hoạch vụ đông xuân nhiễm bệnh nặng hơn lạc thu và lạc thu hoạch muộn có tỷ lệ bệnh cao hơn lạc thu hoạch sớm [38].

Nhóm các loài nấm Aspergillus spp. còn là một trong những loài nấm gây viêm xoang mũi ở người. Trên lạc sau thu hoạch, trong những điều kiện nhất định một số loài nấm như Aspergillus flavus, Aspergillus parasiticus có khả năng sản sinh độc tố rất độc cho người và gia súc, gia cầm. Đặc biệt, độ tố aflatoxin do A.flavus sản sinh là một trong những chất gây ung thư ở người. Những độc tố này không tan trong dầu, chúng nằm lại trong khô dầu. Nếu dùng khô dầu này làm thức ăn cho gia súc thì tuỳ lượng mà gia súc có thẻ ngộ độc, chậm phát triển, thậm chí có thể chết (Đặng Trần Phú và cộng sự, 1977) [21V].



2.2.3 Một số nghiên cứu về biện pháp phòng trừ bệnh hại lạc ở Việt Nam

Trong những năm gân đây, bệnh hại lạc đã gây hại rất phổ biến ở các vùng trồng lạc trong cả nước. Để hạn chế tác hại của bệnh gây ra thì đã có nhiều biện pháp phòng trừ được nghiên cứu và công bố.



* Phòng trừ bằng biện pháp hóa học

Trong hàng loạt các biện pháp đưa ra thì biện pháp hoá học vẫn được người dân sử dụng nhiều nhất do chi phí thấp, tiện lợi hơn trong việc sử dụng và cho hiệu quả nhanh chóng.

Theo Nguyễn Xuân Hồng và cs, 1998, đối với bệnh đốm lá, dùng thuốc Anvil 5 - 10EC, Carbenzim 50 WP, Til-super 300 ND,… để phun trừ. Bệnh héo rũ do vi khuẩn chưa có thuốc đặc trị nên biện pháp hạn chế thiệt hại và tránh lây lan bằng cách phun hoặc rắc 2 - 3 gói Penac P khi làm đất. Dùng Staner 20 WP hoặc Kasugamycin 5% BTN, Kasuran 5% BTN kịp thời khi bệnh chớm xuất hiện [10 V]

Với các bệnh đốm nâu do nấm Cercospora arachidicola gây ra, bệnh đốm đen do nấm Cercospora personata gây ra thì có thể sử dụng các loại thuốc trừ nấm như Opus 75 EC, Carbenda 50 SC, Basvitin 50 FL pha 10 - 15ml/bình 8 lít; Polyram 80 DF, Manozeb 80 WP, dithane xanh M 45 - 80 WP: pha 30 g/bình 8 lít; Sumi Eight 12,5 WP: pha 3 - 5 g/bình 8 lít phun kỹ trên tán và cả phần gốc khi có triệu chứng bệnh [9 V].

Bệnh thối gốc thân lạc lần đầu được ghi nhận và nghiên cứu trên lạc tại nước ta. Công tác phòng trừ bệnh chết cây thường gặp khó khăn do nấm gây bệnh xâm nhập vào bộ phận nằm dưới mặt đất như rễ, quả, tia quả,... Xử lý hạt giống bằng thuốc hoá học là biện pháp rất hiệu quả và kinh tế với nhóm bệnh chết cây lạc. Các thuốc sử dụng trong nghiên cứu là Rovral 750WG (Iprodione); Vicarben 50WP (Carbendazime); Topsin M 70WP (Thiophanate - metyl)  và Viben C 50 WP (Benomyl). Kết quả nghiên cứu đã cho thấy biện pháp xử lý hạt có tác dụng rõ rệt trong tăng tỷ lệ nẩy mầm, hạn chế sự xuất hiện của nấm ký sinh trên hạt, đồng thời bảo vệ hạt từ nguồn bệnh bên ngoài, từ đó làm tăng tỷ lệ mọc trên đồng ruộng và làm giảm tỷ lệ bệnh chết cây con (kết quả rõ nhất với bệnh thối đen cổ rễ) [9 V].

Một trong những tồn tại lớn của sản xuất nông nghiệp đang được quan tâm hiện nay là việc sử dụng quá nhiều thuốc bảo vệ thực vật (BVTV) có nguồn gốc hóa học. Tình trạng này nếu cứ tiếp diễn sẽ đi ngược lại mục tiêu xây dựng một nền nông nghiệp bền vững và an toàn mà chúng ta đang nỗ lực tiến tới.

Để khắc phục những mặt trái của thuốc hoá học gây ra và hướng tới một nền nông nghiệp sạch và bền vững thì biện pháp sinh học được quan tâm hàng đầu và bắt đầu được các nhà khoa học nghiên cứu. Biện pháp này đòi hỏi cần có sự hiểu biết về các đặc điểm sinh học, sinh thái của các loài côn trùng, các loài nấm, vi sinh vật có ích, các loại cây trồng có khả năng úc chế sự phát triển của sâu bệnh hại [13 V]

Hiện nay, ở Việt Nam tác nhân sinh học trừ bệnh hại được nghiên cứu nhiều hơn cả là nhóm nấm đối kháng Trichoderma



* Phòng trừ bằng biện pháp sử dụng nấm đối kháng Trichoderma

Việc nghiên cứu nấm Trichoderma được bắt đầu từ năm 1988 tại viện Bảo vệ thực vật. Kết quả của một số thí nghiệm trong phòng và thí nghiệm chậu vại cho thấy có thể nghiên cứu sản xuất nấm Trichoderma để sử dụng trong phòng trừ nấm Corticium sasakii gây bệnh khô vằn lúa và nấm S.rolfsii gây bệnh héo lạc (Lê Minh Thi và CTV, 1989) [23 V].

Năm 1990, với sự tài trợ của chương trình VNM 8910- 030 (của tổ chức “Bánh mì thế giới”) Viện BVTV đã triển khai đề tài nghiên cứu sử dụng nấm Trichoderma để phòng trừ một số nấm gây bệnh hại cây trồng nông nghiệp.

Trần Thị Thuần (1997) [24V] đã điều tra thu thập được 10 nguồn nấm Trichoderma và cũng chính tác giả đã đề xuất qui trình sản xuất và sử dụng chế phẩm nấm Trichoderma để phòng trừ một số nấm gây bệnh hại cây trồng ở qui mô thủ công, sử dụng các loại phế liệu như bã mía, cám gạo, bã đậu phụ,…Chế phẩm sản xuất ra vừa là chế phẩm trừ nấm sinh học, lại vừa là nguồn phân bón sinh học.

Theo Đỗ Tấn Dũng (2005-2006), nấm đối kháng Trichoderma có thể sử dụng phòng trừ bệnh héo rũ gốc mốc trắng (Sclerotium solfsii), bệnh lở cổ rễ (Rhizoctonia solani) hại cây trồng cạn trong điều kiện chậu vại [6 V].

Chế phẩm này thực sự góp phần vào thực tiễn sản xuất, có khả năng phòng trừ được bệnh nấm khô vằn hại ngô (giảm được từ 51,3%-59,8%), bệnh chảy gôm trên cam chanh và một số bệnh lan truyền qua đất, giảm bớt lượng thuốc BVTV hoá học, từng nơi đã giảm được đầu vào của sản xuất, góp phần bảo vệ sức khoẻ người sản xuất.

Ngô Bích Hảo (2004) [7V], đã tiến hành khảo sát hiệu quả ức chế của hai loài nấm đối kháng Trichoderma harzianum Trichoderma viride đối với S. rolfsii. Kết quả cho thấy cả T. viride T. harzianum đều có khả năng ức chế S. rolfsii trên môi truờng PGA. Hiệu lực ức chế S. rolfsii của T. viride đạt 75,2% cao hơn so với T. harzianum đạt 73,4%. Hiệu lực ức chế đạt cao nhất khi
T. viride
được xử lý trước khi nấm S.rolfsii phát triển xâm nhập vào cây trồng

Các nghiên cứu cho thấy nấm Trichoderma có khả năng tiêu diệt nấm Sclerotiom rolfsii, Fusarium solani (gây bệnh thối rễ cam quýt, bệnh vàng lá chết chậm trên tiêu) và một số nấm khác như Fusarium oxysporum, Rhizoctonia solani [27V].

Theo Lê Như Cương (2004) [3V], sử dụng T. viride với liều lượng 90kg/ha để phòng trừ bệnh héo rũ hại lạc do nấm A. niger, S. rolfsii, Fusarium spp., R. solani gây ra cho hiệu quả cao. Năm 1996, trong thí nghiệm chậu vại khảo sát hiệu lực đối kháng của T. viride với S. rolfsii hại lạc hiệu lực phòng trừ đạt 97,1% (Trần thị Thuần, 1997) [24V].

Nấm Trichoderma là loại nấm đối kháng cũng đã được sử dụng để trừ các loại nấm hại trong đất như Fusarium, Rhizoctonia, Sclerotium, Phytophthora,... là những nấm gây bệnh cho cây trồng. Những loại nấm này tích lũy nhiều và tồn tại lâu trong đất, khả năng chống chịu với các thuốc hóa học rất cao, được coi là những nấm gây bệnh khó phòng trừ [27V].


3.VẬT LIỆU, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

3.1 Đối tượng nghiên cứu

Bệnh nấm hại lạc.



3.2 Địa điểm nghiên cứu và thời gian thực hiện.

3.2.1 Địa điểm nghiên cứu

- Vùng trồng lạc tại huyện Thạch Hà, tỉnh Hà Tĩnh.

- Phòng thí nghiệm bộ môn bệnh cây – trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội.

3.2.2 Thời gian thực hiện đề tài:

Từ tháng 1/2010 đến tháng 6/2010.



3.3 Vật liệu nghiên cứu.

* Vật liệu nghiên cứu:

- Các giống lạc đang trồng tại địa phương: L14,V79, Cúc, chùm.

- Nguồn nấm đối kháng Trichoderma viride từ bộ môn Bệnh cây – Nông dược trường đại học Nông nghiệp – Hà Nội, chế phẩm nấm đối kháng T.viride được sản xuất tại phòng thí nghiệm JICA với nồng độ 7x107 bào tử/gam.

- Các mẫu bệnh thu thập trên lạc vùng Thạch Hà, Hà Tĩnh và phụ cận.

- Môi trường nuôi cấy nấm như WA, PGA,v.v…

* Hóa chất thí nghiệ:

- Một số loại thuốc hóa học: Rovral 50 WP, Carbenzim 50 WP, Nevo 330 EC, Oxyclorua đồng 30WP, TopsinM 70 WP, Tilt Super 300EC, Rampart 35SD.

- Cồn, nước cất, NaCl, HCl, v.v…

* Dụng cụ thí nghiệm:

Kính hiển vi, tủ sấy, buồng cấy, nồi hấp, đèn cồn, đĩa petri, que cấy, bếp điện, cân điện tử, lọ thủy tinh, bình tam giác v.v…



Каталог: nonghocbucket -> UploadDocument server07 id114188 190495
UploadDocument server07 id114188 190495 -> ChuyêN ĐỀ ĐIỀu khiển tán sắC
UploadDocument server07 id114188 190495 -> Trong khuôn khổ Hội nghị của fifa năm 1928 được tổ chức tại Amsterdam (Hà Lan), Henry Delaunay đã đưa ra một đề xuất mang tính đột phá đối với lịch sử bóng đá
UploadDocument server07 id114188 190495 -> MỤc lục phần I: MỞ ĐẦU
UploadDocument server07 id114188 190495 -> «Quản trị Tài sản cố định trong Công ty cổ phần Điện lực Khánh Hòa»
UploadDocument server07 id114188 190495 -> Khóa luận tốt nghiệp 2010 Mục tiêu phát triển kinh tế xã hội trong thời kì tới 85
UploadDocument server07 id114188 190495 -> ĐỒ Án tốt nghiệp tk nhà MÁY ĐƯỜng hiệN ĐẠi rs
UploadDocument server07 id114188 190495 -> Đề tài: Qúa trình hình thành và phát triển an sinh xã hội ở Việt Nam
UploadDocument server07 id114188 190495 -> Chuyên đề tốt nghiệp Trần Thị Ngọc – lt2 khct L ời cảM ƠN
UploadDocument server07 id114188 190495 -> Địa vị của nhà vua trong nhà nước phong kiến Việt Nam

tải về 0.71 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4   5   6   7   8




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương