Lời Giới Thiệu Lịch sử Triết học


E. TRIẾT HỌC KHAI SÁNG VÀ CHỦ NGHĨA DUY VẬT PHÁP



tải về 1.37 Mb.
trang12/16
Chuyển đổi dữ liệu31.07.2016
Kích1.37 Mb.
#11086
1   ...   8   9   10   11   12   13   14   15   16

E. TRIẾT HỌC KHAI SÁNG VÀ CHỦ NGHĨA DUY VẬT PHÁP


Nếu chủ nghĩa thực chứng là khuynh hướng bài trừ siêu hình học theo một hướng tiêu cực, nghĩa là phủ định sạch trơn những giá trị của triết học truyền thống; thì triết học khai sáng Pháp thế kỷ XVIII, mà hạt nhân là chủ nghĩa duy vật, là sự kế tục và phát triển khuynh hướng bài trừ siêu hình học thế kỷ XVII theo một hướng tích cực. Triết học khai sáng Pháp thế kỷ XVIII không phủ định sạch trơn mà đánh giá lại các giá trị triết học truyền thống, đồng thời cũng biết kế thừa và phát triển các khuynh hướng tư tưởng bài trừ siêu hình học của thế kỷ qua. Nó bắt đầu bằng sự phê phán một cách không thương tiếc các quan niệm cũ về thế giới và con người. Đến giữa thế kỷ XVIII, việc phê phán đó đã biến thành cuộc đấu tranh chống toàn bộ hệ tư tưởng phong kiến cùng hệ thống quan điểm của Nhà thờ Thiên chúa giáo.

Nếu ở Anh vào thế kỷ XVII, việc chuẩn bị về tư tưởng cho cách mạng tư sản Anh diễn ra trong màu sắc tôn giáo, thì ở Pháp vào thế kỷ XVIII, việc chuẩn bị về tư tưởng cho cách mạng tư sản Pháp hoàn toàn ngược lại. Bởi vì nước Pháp lúc bấy giờ đã trở thành trung tâm phát triển và truyền bá chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa vô thần. Chính triết học khai sáng Pháp thế kỷ XVIII là ngọn cờ lý luận của giai cấp tư sản trong thời kỳ bình minh đầy tính cách mạng của mình. Nó đã thu hút và tập hợp đông đảo mọi tầng lớp tiến bộ trong xã hội, hướng họ tới cuộc đấu tranh nhằm lật đổ chế độ phong kiến – nhà thờ, khẳng định tự do cá nhân của con người và tiến bộ của xã hội. Các nhà triết học khai sáng Pháp thế kỷ XVIII là những người uyên bác trong nhiều lĩnh vực khoa học, văn học, nghệ thuật… Sau đây chúng ta chỉ xem xét quan điểm triết học của một số triết gia tiêu biểu.



1. Sáclơ đờ Môngtécxkiơ

Môngtécxkiơ (Charles de Montesquieu, 1689-1755) sinh ra trong một gia đình quan chức nghị viện tiến bộ. Bản thân ông từng giữ chức Chủ tịch Nghị viện Thành phố Bordeaux. Môngtécxkiơ say mê nghiên cứu văn học cổ, luật học, vật lý học và triết học. Ông là một trong những người sáng lập ra nền triết học khai sáng Pháp thế kỷ XVIII. Tinh thần luật pháp là tác phẩm triết học chủ yếu của ông bàn về các vấn đề xã hội, nó chứa đựng tinh thần quyết định luận địa lý.

Môngtécxkiơ cho rằng, không chỉ các hiện tượng tự nhiên mà cả các hiện tượng xã hội đều tuân theo các quy luật xác định. Quy luật nằm trong bản chất của hiện tượng. Nhưng nếu các hiện tượng tự nhiên chỉ do các quy luật tự nhiên chi phối, thì các hiện tượng xã hội (lịch sử nhân loại) bị chi phối cùng lúc bởi hai loại quy luật - các quy luật tự nhiên và các quy luật xã hội.



Các quy luật tự nhiên tác động đến những cái sinh học trong con người như ăn, uống, sinh, đẻ…, chúng thể hiện rất rõ trong thời kỳ tiền xã hội của loài người. Các quy luật xã hội tác động đến những cái xã hội như lao động, nhân cách..., chúng thể hiện càng rõ khi xã hội loài người càng phát triển.

Khi xã hội loài người càng phát triển, thì các cuộc chiến tranh, xung đột giữa con người càng quyết liệt hơn, quan hệ xã hội càng phức tạp hơn. Tình thế này đòi hỏi luật pháp nhà nước phải xuất hiện để khắc phục các cuộc chiến tranh, điều chỉnh các quan hệ xã hội giữa các con người và các quốc gia nhằm mục đích sử dụng hiệu quả các thành tựu khoa học vào sự phát triển xã hội.

Khi xuất phát từ lập trường duy vật tự nhiên để lý giải các hiện tượng xã hội, Môngtécxkiơ cho rằng, điều kiện địa lý là yếu tố quyết định không chỉ đối với nền sản xuất vật chất, đời sống kinh tế mà nó còn chi phối mọi mặt đời sống nhân loại như dân tộc, chủng tộc, lối sống, văn hóa, pháp luật, thể chế chính trị… Đối với ông, uy quyền của khí hậu uy quyền của mọi uy quyền. Như vậy, từ chỗ cho rằng các quy luật tự nhiên chi phối các hiện tượng xã hội, Môngtécxkiơ đã đi đến quyết định luận địa lý – kinh tế; và từ quyết định luận địa lý – kinh tế, ông tiến đến quyết định luận địa lý – chính trị. Quyết định luận địa lý – chính trị là chỗ dựa cho chủ nghĩa thực dân châu Âu sau này.

Mặc dù bị chi phối bởi quyết định luận địa lý nhưng Môngtécxkiơ luôn chủ trương một thế giới hòa bình, công lý; một xã hội không quá bất công, bất bình đẳng. Bởi vì theo ông, một xã hội hoàn toàn bình đẳng sẽ thủ tiêu động lực cạnh tranh trong quá trình phát triển của mình.

Như vậy, bằng phương pháp duy cảm và cách xem xét cụ thể (hoàn cảnh địa lý) của mình, Môngtécxkiơ đã khắc phục trong một chừng mực nhất dịnh các quan niệm duy lý, tư duy tư biện giáo điều khi phân tích các hiện tượng xã hội.

2. Giuliên Ốpprôi đờ La Méttơri

La Méttơri (Julien Offroy de La Mettrie, 1709-1751) sinh ra trong một gia đình thương nhân giàu có được đào tạo trở thành bác sĩ. Do chịu nhiều ảnh hưởng bởi vật lý học Đềcáctơ nên ông rất đam mê khoa học và triết học, đồng thời nghi ngờ các quan niệm do tôn giáo và thần học kinh viện đưa ra. Lịch sử tự nhiên của linh hồn, Con người là cổ máy, Con người – thực vật… là các tác phẩm triết học nổi tiếng của ông. Trong các tác phẩm của mình ông trình bày một quan niệm mới về con người.

La Méttơri xuất phát từ luận điểm cho rằng, trong thế giới chỉ tồn tại một thực thể vật chất vĩnh viễn, tối cao, tất yếu và là nguyên nhân của chính mình, đồng thời là nguồn gốc của mọi cái hiện tồn trong thế giới, bao gồm cả con người.

Là một bác sĩ, La Méttơri hiểu rõ mối liên hệ mật thiết giữa cơ thể và linh hồn (tư duy, ý thức) của con người. Ông đã đi đến kết luận, không thể tìm hiểu được tính chất của linh hồn nếu không khám phá ra các đặc điểm chi phối nó trong cơ thể. Khi dựa trên các thành tựu sinh lý học lúc bấy giờ như: lý thuyết phản xạ của Đềcáctơ, vòng tuần hoàn máu của Gavêra (Garvéra)…, ông coi con người như cổ máy phức tạp; trong đó, mọi tư tưởng, suy nghĩ của con người đều dựa trên những thay đổi của não bộ, chịu sự quy định bởi cấu trúc cơ thể, và sự tác động của điều kiện môi trường sống xung quanh. Muốn hoàn thiện linh hồn con người không nên dựa vào đức tin tôn giáo mà phải dựa trên việc nâng cao thể trạng con người, hoàn thiện sự nghiệp giáo dục, làm trong lành môi trường và hoàn cảnh sống. Theo ông, không có sự tách biệt nào giữa lý tính và cảm tính; tư tưởng, tư duy, lý tính, trí tuệ con người cũng chỉ là một khả năng cảm nhận của linh hồn; cảm giác là người hướng đạo đáng tin cậy nhất trong cuộc sống cũng như trong nhận thức.

Do chịu ảnh hưởng bởi quan niệm siêu hình – máy móc, mà La Méttơri không thấy được sự ảnh hưởng của các yếu tố xã hội đến nhân cách con người; tuy nhiên, lúc bấy giờ, quan niệm về con người của ông là một quan niệm đầy tính cách mạng.



3. Phrănxoa Mari Vônte

Vônte (Francois Marie Voltaire, 1694-1778) là nhà triết học, nhà văn, nhà soạn kịch nổi tiếng. Ông là người sáng lập và lãnh đạo phái Khai sáng Pháp nửa đầu thế kỷ XVIII. Những bức thư triết học, Luận văn về thuyết siêu hình, Những nguyên lý triết học của Niutơn, Từ điển triết học... là các tác phẩm chính của ông. Thế giới quan triết học của Vônte có sự thay đổi.

Vào thập niên 30-40 của thế kỷ XVIII, một mặt, ông đứng trên quan điểm duy vật – duy cảm cho rằng, mọi quá trình nhận thức đều bắt đầu từ cảm tính; không tồn tại các tư tưởng bẩm sinh; linh hồn con người là khả năng cảm nhận và suy nghĩ của thể xác con người. Từ đó, ông tích cực đấu tranh để triết học Lốcơ được thừa nhận trong giới triết gia Pháp, và coi phong trào bài trừ siêu hình học là một thành tựu lớn của triết học. Mặt khác, do chịu ảnh hưởng bởi quan điểm tự nhiên thần luận mà ông cho rằng, Thượng đế không chỉ là nguồn gốc, bản chất của mọi vận động, mà còn là Đấng tối cao qui định các qui luật phát triển của sự vật, hiện tượng xảy ra trong thế giới.

Sang thập niên 40 của thế kỷ XVIII, mặc dù vẫn đứng trên lập trường tự nhiên thần luận, nhưng ông khẳng định vận động là thuộc tính của vật chất chứ không phải nó được đưa từ bên ngoài vào. Vận động cũng vĩnh viễn như bản thân vật chất, nhưng giới tự nhiên có được là do Thượng đế sáng tạo ra. Thượng đế vừa là dây cương vừa là niềm an ủi đối với con người. Nếu không có Thượng đế thì cuộc sống của con người sẽ vô vọng và con người sẽ rơi vào cảnh hoạn nạn; vì vậy, nếu trên đời này không có Thượng đế thì con người phải nghĩ ra Thượng đế để tạo cho mình một niềm tin, hy vọng, một chỗ dựa vững chắc trong tâm hồn… Đối với Vônte, Thượng đế vừa là đấng tối cao, nhưng cũng vừa là sự tưởng tượng của con người (!).

Vônte không chỉ thừa nhận sự tồn tại sự vật bên ngoài con người mà còn cho rằng, sự tác động của sự vật bên ngoài vào giác quan của con người đã gây ra cảm giác về sự vật đó. Sở dĩ, chúng ta có cảm giác cứng là nhờ quãng tính và tính không thể xuyên qua của các sự vật tác động vào giác quan của chúng ta… Tuy nhiên, quan niệm duy giác của ông không triệt để, bởi vì ông cho rằng, kinh nghiệm không chỉ chứng tỏ có thế giới vật chất mà còn chứng tỏ có Thượng đế. Là một nhà tự nhiên thần luận, Vônte cho rằng, Thượng đế không phải là một thực thể đặc biệt, mà chỉ là một năng lực, là một nguyên tắc tác động của giới tự nhiên. Tương tự như vậy, linh hồn cũng là một thuộc tính, là nguyên tắc tác động của thể xác. Thượng đế không thể tách ra khỏi toàn bộ giới tự nhiên. Sự tác động qua lại giữa Thượng đế và Giới tự nhiên là sự tác động tự do.

Dựa trên quan điểm cho rằng, trong thế giới mọi vật tác động qua lại lẫn nhau đều không ngừng vận động, mà ông chống lại thuyết định mệnh và sự lạm dụng thuyết này để lý giải các hiện tượng xảy ra trong thế giới, chống lại trật tự phong kiến đương thời được coi là bất di bất dịch. Ông kêu gọi tuyên truyền tư tưởng tự do tư sản và chuẩn bị về tư tưởng cho cách mạng tư sản Pháp 1789-1794.

4. Giăng Giắc Rútxô

Rútxô (Jean Jacques Rousseau, 1712-1778) sinh ra trong một gia đình thợ thủ công làm đồng hồ ở Giơnevơ, Thụy sĩ. Do mẹ mất sớm, cha ít quan tâm nên ông phải phiêu bạt qua các nước Ý, Pháp, và làm nhiều nghề khác nhau để tự kiếm sống. Ông rất quan tâm đến triết học và nghệ thuật, từng cộng tác với Điđơrô biên soạn bộ Bách khoa toàn thư… Các tác phẩm nổi tiếng của ông là: Luận về nguồn gốc, cơ sở của sự bất bình đẳng; Bàn về khế ước xã hội. Là nhà tư tưởng kiệt xuất của triết học Khai sáng Pháp và cuộc cách mạng tư sản Pháp 1789, Rútxô có nhiều quan điểm biện chứng về quá trình phát triển của xã hội.

Mặc dù xuất phát từ thế giới quan tự nhiên thần luận như bao nhà triết học khai sáng khác, nhưng Rútxô không coi lịch sử nhân loại là sản phẩm do Thượng đế xếp đặt trước, mà là kết quả hoạt động của chính bản thân con người. Lịch sử nhân loại là quá trình không ngừng hình thành và giải quyết các mâu thuẫn, và là một chuỗi các hành động phủ định biện chứng của các trạng thái xã hội kế tiếp nhau. Nhưng đó cũng là một quá trình đầy nghịch lý, bởi vì bản chất của con người là tự do, mà quá trình phát triển của lịch sử nhân loại từ trước tới giờ lại luôn kìm hảm khát vọng tự do đó của con người.

Là nhà khai sáng nên Rútxô cho rằng, quá trình phát triển của lịch sử nhân loại phụ thuộc rất nhiều vào sự phát triển của khoa học và nghệ thuật. Nhiều dân tộc trên thế giới sở dĩ còn sống trong cảnh nghèo hèn, lạc hậu là do chính trị và trí tuệ chưa liên minh được với nhau. Xã hội sẽ phát triển nhanh khi thể chế chính trị - xã hội không kìm hảm mà là tạo điều kiện tốt cho sự phát triển của khoa học và nghệ thuật. Tuy nhiên, để có được điều này cần phải thay đổi nền chính trị và cơ chế quản lý xã hội hiện hành.

Rútxô nhận thấy tình trạng các thể chế chính trị và bộ máy quản lý xã hội kìm hảm khát vọng tự do của con người có nguyên nhân nằm trong sự bất công, bất bình đẳng, mất dân chủ trong đời sống xã hội, trong sự xung đột chính trị, pháp luật của con người. Và sau cùng cội nguồn dẫn đến mọi tình trạng như thế trong đời sống xã hội, và cũng là cơ sở để xóa bỏ chúng là sự ra đời và phát triển của trí tuệ, kinh tế và các hình thức sở hữu tư nhân. Sau khi phát hiện ra “nguyên nhân của mọi nguyên nhân” trong quá trình phát triển của đời sống xã hội, Rútxô xây dựng quan điểm của mình về tiến trình phát triển xã hội trải qua ba trạng thái.



Trạng thái tự nhiên là trạng thái đầu tiên và lâu dài nhất trong lịch sử nhân loại. Đó là giai đoạn bình yên, hạnh phúc nhất của con người; vì khi ấy, con người được sinh ra và tồn tại, ai cũng như ai; các quan hệ xã hội thuần khiết; sự khác nhau về kinh tế, xã hội chưa xuất hiện. Tuy nhiên, trạng thái tự nhiên không thể tồn tại mãi được. Đến lúc trí tuệ, kinh tế và các hình thức sở hữu tư nhân ra đời và phát triển, thì trạng thái tự nhiên của xã hội bị phá vỡ, trạng thái công dân được hình thành để thay thế 37.

Trạng thái công dân trực tiếp ra đời từ nền tảng sở hữu tư nhân. Việc hình thành và củng cố hình thức sở hữu tư nhân sinh ra sự khác nhau trong thu nhập, đưa đến sự hình thành người giàu kẻ nghèo và nảy sinh ra các đạo luật xã hội. Điều này đã tạo ra xiềng xích trói buộc kẻ nghèo yếu, tăng cường sinh lực cho kẻ giàu mạnh; hủy hoại một cách không thương tiếc bản tính tự do tự nhiên của con người; thiết lập các đạo luật xã hội và tạo nên sự áp bức, bất công, bất bình đẳng, mất tự do, không dân chủ trong đời sống xã hội. Quan hệ giữa con người không còn thuần khiết nữa, xã hội bị tha hóa. Chiến tranh, tệ nạn xã hội xuất hiện và nhanh chóng lan tỏa khắp mọi nơi. Chúng làm hủy hoại bản tính tự do tự nhiên của con người. Tuy nhiên, bản tính cộng đồng tự nhiên vẫn còn tồn tại, và là cơ sở hình thành các khế ước xã hội. Lúc đầu, khế ước xã hội giúp ngăn chận trong một chừng mực nào đó tính ích kỷ cá nhân, đảm bảo một mức độ nào đó quyền lợi tự nhiên của con người; và sau đó nó trở thành cơ sở để hình thành pháp luật nhà nước. Trong nhà nước, có thể con người không bình đẳng về trí tuệ và thể lực, nhưng họ bình đẳng về pháp luật và đạo đức.

Tuy nhiên, theo Rútxô, do xã hội công dân đầy rẫy bất công, bất bình đẳng về kinh tế và đầy tệ nạn xã hội mà nhà nước không thực hiện được nhiệm vụ cao cả của mình là đảm bảo quyền lợi tự nhiên cho nhân dân. Vì vậy, nhà nước bị tha hóa, rồi trở thành công cụ đàn áp nhân dân; còn cơ sở của nó – khế ước xã hội trở thành công cụ hợp pháp hóa sở hữu tư nhân và bất công xã hội.

Như vậy, theo Rútxô, sở hữu tư nhân vừa mang lại văn minh cho con người, vừa đem lại cho họ nỗi bất hạnh làm hủy hoại chính mình. Lịch sử vừa mang lại tiến bộ cho cá nhân nhưng cũng mang lại thoái bộ cho xã hội. Để xã hội tiến bộ cần phải xóa bỏ xã hội công dân bằng công cuộc cách mạng, đưa xã hội quay về trạng thái tự nhiên ở trình độ cao.

Trạng thái tự nhiên ở trình độ cao là xã hội lý tưởng của Rútxô; trong đó, mọi sự áp bức, bất công, bất bình đẳng, mất tự do, không dân chủ trong đời sống xã hội đều được khắc phục; kỷ cương xã hội được lập lại; tư do, công bằng, bác ái được khôi phục. Nhà nước nhân dân và khế ước xã hội được thực hành đầy đủ trong chế độ dân chủ cộng hòa với chính quyền lập pháp thuộc về nhân dân và phục vụ toàn dân. Mặc dù trong xã hội lý tưởng này vẫn còn sở hữu tư nhân, nhưng do cơ chế kết hợp hợp lý giữa công lý và lý tính mà bất công, bất bình đẳng nảy sinh từ nó chỉ dừng lại ở mức thấp. Do bất công, bất bình đẳng rất thấp mà sự đối kháng giai cấp không xuất hiện. Tình hình như thế chỉ tạo điều kiện lành mạnh để cạnh tranh phát triển xã hội. Bên cạnh sở hữu tư nhân, thì các điều kiện tự nhiên như địa lý có vai trò to lớn trong sự phát triển xã hội. Theo ông, các nước ở vùng khí hậu nóng cần phải thực hành nền chính trị chuyên chế để cưỡng bức nhân dân thực hiện mệnh lệnh của nhà nước; còn ở vùng khí hậu ôn hòa thì nền chính trị phải hoàn toàn dựa trên khế ước xã hội.

Lý luận về xã hội của Rútxô là ngọn cờ lý luận của cuộc cách mạng tư sản Pháp xảy ra năm 1789.



5. Đênít Điđơrô

Điđơrô (Denis Diderot, 1713-1784) sinh ra trong một gia đình thợ thủ công ở vùng Đông Bắc nước Pháp. Thay vì phải trở thành một nhà tu hành sống với thần học và đức tin như mong ước của gia đình, thì ông lại trở thành một nhà khoa học suốt đời chiến đấu vì chủ nghĩa vô thần và quan niệm duy vật. Ông là nhà tư tưởng điển hình của nền triết học Khai sáng Pháp. Bộ Bách khoa toàn thư của khoa học, nghệ thuật và thủ công nghiệp do ông là người chủ xướng và chủ biên đã tôn vinh nền khoa học Pháp trong hệ thống khoa học của nhân loại. Điđơrô còn viết một số tác phẩm triết học như Các tư tưởng triết học, Cuộc dạo chơi của nhà hoài nghi hay là Alleax… Sau đây là một số quan niệm triết học cơ bản của ông.

a) Quan niệm về thế giới, con người và nhận thức

Điđơrô cho rằng, trong thế giới, vạn vật đều được hình thành từ một thực thể duy nhất - thực thể vật chất, mà bản tính cố hữu của nó là vận động. Vận động là sinh lực sống động của thế giới vật chất; nó không chỉ hiện hữu trong các vật đang vận động mà nó còn có mặt trong các vật thể đứng yên. Chuyển động chỉ là một dạng của vận động. Thế giới vật chất luôn vận động, và quá trình vận động của thế giới vật chất đưa đến sự phát triển. Trong quá trình phát triển của mình, thế giới vật chất, mà trước hết là giới tự nhiên, sẽ loại bỏ những gì không cần thiết, và chọn lọc, lưu giữ những gì cần thiết để giúp nó ngày càng hoàn thiện chính mình.



Con người là sự thống nhất hữu cơ giữa thể xác và linh hồn. Linh hồn là tổng các hiện tượng tâm lý, là một đặc tính của thể xác. Không có thể xác của con người thì không có linh hồn. Sự chuyển hóa từ vật thể vô giác vô tri đến thể xác biết cảm giác và có tư duy, tức có linh hồn là kết quả của quá trình phát triển bản thân cấu trúc của vật chất từ vô cơ sang hữu cơ - sự sống, và từ sự sống đến con người. Đây là một quá trình tự nhiên hợp quy luật xảy ra trong thế giới.

Điđơrô luôn dựa trên lập trường duy vật để phê phán các hệ thống siêu hình học - chủ nghĩa duy lý cực đoan, nghĩa là phê phán các hệ thống triết học tư biện coi thường cảm tính trong hoạt động nhận thức. Khi coi vật chất là nguyên nhân duy nhất của cảm giác, ông cho rằng phương pháp triết lý đúng đắn phải là phương pháp cho phép bằng trí tuệ kiểm tra trí tuệ, bằng trí tuệ và thực nghiệm kiểm soát cảm tính, và bằng trí tuệ, thực nghiệm, cảm tính nhận thức thế giới vật chất – giới tự nhiên.

Điđơrô chống lại quan niệm duy tâm coi cái Tôi của con người như một thực thể. Ông cho rằng cơ thể con người là khí quan vật chất của tư duy, ý thức, tức của các quá trình tâm lý. Nhân cách con người là sản phẩm của hoàn cảnh và môi trường xung quanh. Tuy nhiên, ông vẫn chưa hiểu hoàn cảnh và môi trường xung quanh lại chính là sản phẩm của hoạt động con người.

Do bản thân thế giới vật chất – giới tự nhiên luôn nằm trong quá trình vận động và phát triển vô tận nên quá trình nhận thức của con người về thế giới vật chất cũng diễn ra vô tận, nhưng về nguyên tắc, con người có thể nhận thức hoàn toàn đầy đủ thế giới.



b) Quan niệm về tôn giáo

Từ lập trường duy vật và quan điểm khoa học, Điđơrô phủ nhận sự tồn tại của Thượng đế. Ông cho rằng Thượng đế chỉ là sự thần thánh hóa các điều kiện hiện thực của con người. Không phải Thượng đế sáng tạo ra con người, mà ngược lại, chính con người đã sáng tạo ra Thượng đế. Đối với Điđơrô, lý tính khoa học và tín ngưỡng tôn giáo không thể kết hợp được với nhau. Bằng lý tính, khoa học mang lại cho con người hiểu biết đúng đắn về thế giới để làm tăng sức mạnh của họ trong thế giới tự nhiên. Trong khi đó, tín ngưỡng, tôn giáo chỉ mang lại cho con người những ảo tưởng và làm suy yếu sức mạnh của chính mình. Khoa học phục vụ cuộc sống thực trên trần gian, trong khi đó, tôn giáo chỉ lo cho cuộc sống ảo trên trời.

Điđơrô cũng phê phán cả nền giáo dục và đạo đức tôn giáo. Theo ông, nền giáo dục tôn giáo làm cho con người cả tin vào số mệnh. Tôn giáo dùng Thiên đàng và Địa ngục ảo tưởng để ban thưởng và trừng phạt con người; điều đó chẳng khác nào dùng dây cương yếu ớt để ngăn chận hành vi tội lỗi của họ. Ông luôn khẳng định chính nền giáo dục lạc hậu, hệ thống đạo đức giả dối của tôn giáo, những đạo luật dốt nát của Nhà thờ và Nhà nước đã làm cho môi trường và hoàn cảnh xung quanh con người ngày càng trở nên đồi bại, mà kết quả là làm cho con người ngày càng khốn khổ. Do vậy mà Điđơrô đòi hỏi phải tách tôn giáo ra khỏi nhà trường, loại bỏ thần học ra khỏi giáo dục đại học, nhà thờ ra khỏi nhà nước. Nền giáo dục và đào tạo phải hướng tới việc xây dựng mỗi người công dân thành một nhà khoa học, một nhà duy vật và vô thần. Để thực hiện được điều này, theo ông, không thể không xoá bỏ tôn giáo, tiêu diệt giới tu hành, mở rộng khoa học và thực hành giáo dục toàn dân.

Sự phê phán tôn giáo một cách mạnh mẽ của Điđơrô có ảnh hưởng tích cực đến phong trào đấu tranh cách mạng của nhân dân Pháp thời đó, nhưng nó vẫn chỉ là một sự phê phán mà thôi.



6. Pôn Hăngri Đitơríc Hônbách

Hônbách (Paul Henri Ditrich Holbach, 1723-1789) là người Đức nhưng sống và làm việc ở Pháp. Ông là một trong những nhà lãnh đạo phái Khai sáng Pháp, là một trong những đại biểu xuất sắc của chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa vô thần Pháp thế kỷ XVIII, đồng thời là một cộng tác viên đắc lực của nhóm Bách khoa toàn thư. Ông viết nhiều tác phẩm như Hệ thống của tự nhiên hay là bàn về các quy luật của thế giới vật chất và thế giới tinh thần (đồng tác giả), Sự đối lập của tư tưởng tự nhiên với tư tưởng siêu nhiên, Thần học bỏ túi... Sau đây là một số quan niệm triết học cơ bản của ông.



a) Quan niệm về thế giới vật chất

Hônbách khẳng định: Giới tự nhiên là nguyên nhân đầu tiên của vạn vật; vật chất là thực tại khách quan tác động đến giác quan của con người; những đặc tính chủ yếu của vật chất là quảng tính, vận động, tính có thể phân chia, tính rắn chắc, trọng lực. Giới tự nhiên tồn tại vĩnh viễn, không ai sáng tạo ra nó và nó cũng không thể bị tiêu diệt. Vật chất vận động là do sức mạnh của bản thân nó mà không do một sự thúc đẩy nào từ bên ngoài. Vận động là thuộc tính cố hữu của vật chất, là sự di chuyển vị trí của các vật thể trong không gian.

Ông cho rằng, vũ trụ là sự kết hợp vĩ đại tất cả những vật đang tồn tại. Bất cứ ở đâu trong vũ trụ, chúng ta cũng chỉ thấy vật chất vận động. Trước mắt chúng ta, toàn thể vũ trụ chỉ là một dây chuyền nhân quả bất tận với các sự vật, hiện tượng xảy ra không ngừng. Ông phê phán chủ nghĩa duy tâm chủ quan Béccơly khi nhà triết học này ra sức chứng minh rằng, mọi cái trên thế giới này chỉ là ảo tưởng của chúng ta, toàn bộ thế giới chỉ tồn tại trong trí tưởng tượng của chúng ta.

Theo Hônbách, quảng tính, tính vận động, tính có thể chia được, tính rắn chắc, trọng lực, quán tính, và cả những trạng thái do những cái đó sinh ra như: mật độ, hình dạng, màu sắc, trọng lượng... đều là những đặc tính phổ biến, có trước của các vật thể vật chất. Với quan niệm coi vật chất là tất cả những gì có thể tác động vào giác quan của chúng ta, Hônbách đã tiến gần đến quan niệm khái quát về vật chất.

Khi bàn về nguồn gốc của vật chất, về vận động, không gian, ông viết: "Nếu người ta hỏi chúng ta, vật chất ở đâu mà ra, thì chúng ta trả lời là bao giờ cũng có vật chất. Nếu người ta hỏi chúng ta, tại sao vật chất lại vận động thì chúng ta trả lời là vật chất phải vận động mãi mãi vì vận động là kết quả tất yếu của sự tồn tại, là bản chất của vật chất, đồng thời cũng là kết quả của những thuộc tính đầu tiên của vật chất như quãng tính, trọng lượng, tính không thể xuyên qua, hình dáng...". "Vận động là phương thức tồn tại; nó xuất hiện một cách tất nhiên từ bản chất của vật chất...". Dù quan niệm này rất gần với quan niệm duy vật hiện đại, tuy nhiên, do chủ nghĩa cơ giới chi phối mà ông hiểu vận động chỉ là sự dịch chuyển vị trí.

b) Về nhận thức luận

Xuất phát từ quan niệm cho rằng, ý thức là đặc tính của một dạng vật chất có tổ chức cao, ông vạch ra sự vô lý của những học thuyết về linh hồn phi thể chất, về con người được tạo ra theo hình ảnh của Thượng đế. Ông luôn khẳng định con người là sản phẩm của tự nhiên, tồn tại trong tự nhiên, phục tùng quy luật của tự nhiên, thậm chí, tư tuởng của con người cũng không thể vượt khỏi tự nhiên. Từ đó, ông chứng minh rằng, trí lực con người phụ thuộc vào cơ cấu của toàn con người. Năng lực cảm giác của con người giúp con người nhận thức được thế giới và quy luật của nó. Không có linh hồn bất tử và tư tưởng bẩm sinh, mà mọi tư tưởng, quan niệm của con người, theo ông, không thể rút ra từ bản thân linh hồn, mà phải khái quát từ thế giới bên ngoài thông qua linh hồn của chúng ta.

Ông cho rằng tư duy xuất phát từ cảm giác. Chính những biến hóa liên tiếp của khối óc là do kết quả tác động của các sự vật lên giác quan của chúng ta gây ra. Chúng là nguyên nhân gây ra trong tâm hồn chúng ta những biến hóa mới mà người ta gọi là những ý nghĩ, những tư tưởng, ký ức, trí tưởng tượng, phán đoán, nguyện vọng, hành động. Cơ sở của tất cả những biến hóa ấy là cảm giác… Mặc dù vẫn coi chân lý là sự phù hợp giữa ý niệm và sự vật, nhưng do quan niệm siêu hình chi phối mà ông chỉ dừng lại ở chỗ coi nhận thức chỉ là sự kết hợp các cảm giác và các khái niệm mà không thấy được nhận thức là một quá trình phức tạp.

Hônbách đem quyết định luận máy móc của mình đối lập với mục đích luận. Dù mọi hiện tượng mà con người chưa nhận thức được đều được ông gọi là hiện tượng ngẫu nhiên, nhưng ông chưa hiểu được tính khách quan của hiện tượng ngẫu nhiên.



c) Quan niệm về xã hội

Quan niệm về xã hội của Hônbách mang tính chất duy tâm. Ông coi quá trình phát triển xã hội như một quá trình do định mệnh chi phối. Là nhà triết học khai sáng, ông khẳng định loài người có thể thoát ra khỏi ách phong kiến bằng việc phổ cập giáo dục, làm cho lý tính thắng chủ nghĩa ngu dân thời trung đại. Ông muốn có sự quá độ hòa bình từ chế độ phong kiến sang chế độ tư bản bằng con đường lập pháp hóa.

Khi bàn về nguồn gốc và bản chất của tôn giáo, Hônbách cho rằng, do nhân dân các nước quan niệm xã hội bị lực lượng siêu nhiên thần thánh chi phối, nên họ không nhìn thấy những lực lượng tự nhiên trần tục đang gây ra những hành động mạnh mẽ trên Trái Đất. Vì vậy, họ thường hướng cặp mắt đầy lo sợ và dàn dụa nước mắt lên trên bầu trời, họ cố tìm trên bầu trời những lực lượng thù địch đã làm tiêu tan hạnh phúc của họ trên Trái Đất này. Ngu dốt, lo sợ, đau khổ bao giờ cũng là nguồn gốc của những quan niệm đầu tiên của con người về thần linh. Tôn giáo được bịa đặt ra để đặt các vua chúa lên trên các dân tộc, và đặt các dân tộc, vua chúa dưới quyền uy của Thượng đế. Từ khi các dân tộc nhận thấy cuộc sống vô cùng khổ cực của mình trên Trái Đất này và tìm cách thay đổi nó thì người ta đã lấy Thượng đế để đe dọa họ, hòng buộc họ khuất phục, chấp nhận và im tiếng.

Trong tác phẩm Về giá trị của chủ nghĩa duy vật chiến đấu, Lênin đánh giá cao cuộc đấu tranh chống tôn giáo của chủ nghĩa vô thần Pháp thế kỷ XVIII. Người viết: “Những tác phẩm nồng nhiệt, sinh động, linh lợi, tài tình của những nhà vô thần cũ của thế kỷ XVIII công khai công kích bọn tăng lữ đang thống trị, rất thường khi là những tác phẩm muôn ngàn lần có khả năng đưa người ta ra khỏi tình trạng mê muội tôn giáo”. Vào thế kỷ XVIII, chủ nghĩa duy vật Pháp là trào lưu triết học tiên tiến nhất ở Tây Au; tuy nhiên, nó vẫn chưa thoát ra khỏi hình thức duy vật siêu hình máy móc.

Sự phát triển của triết học Pháp thế kỷ XVIII đem lại những thành quả to lớn cho tư tưởng lý luận, làm giàu thêm kho tàng văn hóa thế giới và có một ảnh hưởng lớn về mặt tư tưởng và hành động đối với nhân loại.

Các nhà duy vật và phái Khai sáng Pháp đã vạch trần thế lực đen tối thời trung đại, giương cao ngọn cờ tự do dân chủ tư sản nhằm tập hợp tất cả các tầng lớp bị áp bức dưới ngọn cờ đó để đấu tranh chống lại chế độ chuyên chế phong kiến – nhà thờ, tập hợp các lực lượng dân chủ, tiên tiến để chuẩn bị về mặt tư tưởng cho cách mạng tư sản Pháp sẽ xảy ra vào năm 1789–1794.

Tuy nhiên, triết học thời kỳ này bộc lộ những hạn chế lớn nhất, đó là quan niệm siêu hình về thế giới cũng như về quá trình nhận thức. Hạn chế này được khắc phục dần bởi nền triết học cổ điển Đức.


Каталог: file -> downloadfile1 -> 293
293 -> VĂn phòng chính phủ
293 -> Đề tài: Sự tập trung hóa báo chí ở các nước tư bản chủ nghĩa Giảng viên hướng dẫn
293 -> Chiến dịch đánh Tống 1075
293 -> BỘ thông tin và truyềN thôNG
293 -> BỘ thông tin và truyềN thông số: 956/QĐ-btttt cộng hòa xã HỘi chủ nghĩa việt nam
293 -> Các lệnh nhảy, vòng lặp và lệnh gọi
293 -> 143 NĂm vưƠng triều nguyễN (1802-1945)
293 -> Chương I các bộ VI điều khiển 8051 1 các bộ VI điều khiển và các bộ xử lý nhúng
293 -> HÀ NỘI – 2006 BỘ XÂy dựng cộng hoà XÃ HỘi chủ nghĩa việt nam
293 -> Số 13 Tháng 3/2008 Chiều hướng phát triển dân số và học sinh, hiện tại và tương lai Vũ Quang Việt

tải về 1.37 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   ...   8   9   10   11   12   13   14   15   16




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương