Lời Giới Thiệu Lịch sử Triết học


B. TRƯỜNG PHÁI DUY VẬT KINH NGHIỆM – DUY GIÁC



tải về 1.37 Mb.
trang9/16
Chuyển đổi dữ liệu31.07.2016
Kích1.37 Mb.
#11086
1   ...   5   6   7   8   9   10   11   12   ...   16

B. TRƯỜNG PHÁI DUY VẬT KINH NGHIỆM – DUY GIÁC

Đây là trường phái triết học Anh được Ph.Bêcơn đặt nền móng, T.Hốpxơ phát triển theo khynh hướng kinh nghiệm và Gi.Lốcơ đẩy mạnh theo khuynh hướng duy giác.


1 Phơrăngxít Bêcơn

Ph.Bêcơn (Francis Bacon, 1561-1626) sinh ra trong một gia đình quý tộc cao cấp, tại thành phố Luân Đôn. Sau khi tốt nghiệp đại học, ông làm việc tại sứ quán Anh ở Pháp, sau đó được bầu vào Nghị viện, làm Thượng thư báo chí, rồi Thủ tướng của nước Anh. Ông là đại biểu tư tưởng của tầng lớp quý tộc cấp tiến. Ph.Bêcơn viết rất nhiều tác phẩm về văn học và triết học: Giải thích thiên nhiên, Phê bình triết học, Sợi chỉ của mê lộ, Công cụ mới, Mô tả quả cầu tri thức, Về các nguyên lý, Atlantis mới… Ông là người sáng lập ra chủ nghĩa duy vật kinh nghiệm Anh và khoa học thực nghiệm. Lịch sử triết học và khoa học phương Tây chịu ảnh hưởng sâu sắc bởi các tư tưởng của Ph.Bêcơn.

a) Quan điểm thực tiễn

Là một nhà tư tưởng cấp tiến có đầu óc thực tiễn của tầng lớp quý tộc, Ph.Bêcơn đòi hỏi phải chấn hưng đất nước. Nhưng muốn chấn hưng đất nước, cần phải thống trị giới tự nhiên, nghĩa là biết sử dụng sức mạnh của nó và bắt nó phục vụ lợi ích cho con người. Để làm được điều này cần phải phát triển khoa học và triết học. Nhưng muốn phát triển khoa học và triết học, thì trước hết phải khắc phục tính tư biện giáo điều, lề thói lý luận suông xa rời cuộc sống của triết học và khoa học cũ, nghĩa là phải có quan điểm thực tiễn. Chỉ khi dựa trên quan điểm thực tiễn, thì mới có thể xác định đúng vai trò, vị trí, nhiệm vụ của triết học và khoa học mới; và sử dụng chúng một cách hiệu quả trong đời sống của con người.

Theo Ph.Bêcơn, triết học mới cần phải được coi là khoa học của mọi khoa học, hoặc là cơ sở của mọi khoa học. Mục đích của triết học khoa học mới là xây dựng các tri thức lý luận chặt chẽ đầy tính thuyết phục về mọi lĩnh vực nghiên cứu như: Thượng đế, giới tự nhiên, con người, chứ không phải là củng cố các đức tin mù quáng. Nhiệm vụ của triết học mớiđại phục hồi cho khoa học hay xây dựng khoa học mới bằng cách cải tạo toàn bộ tri thức hiện có, xóa bỏ những sai lầm chủ quan, sử dụng hiệu quả tư duy khoa học để khám phá trật tự của thế giới khách quan, tiến đến xây dựng một hình ảnh về thế giới trong tư duy giống như nó tồn tại trong hiện thực. Còn nhiệm vụ của khoa học mới là khám phá ra các quy luật của thế giới, chứ không phải đi tìm nguyên nhân cuối cùng. Triết học khoa học mới phải xuất phát từ tinh thần “tri thức là sức mạnh” và “lý luận thống nhất với thực tiễn”. Nhiệm vụ tối thượng của chúng là giúp tăng cường quyền lực tinh thần cho con người để con người thống trị, tức làm chủ và cải tạo giới tự nhiên, phục vụ lợi ích cho con người.

Với quan niệm thực tiễn như thế, ông đã xây dựng một hệ thống triết học về khoa học của mình. Hệ thống triết học này thể hiện những tư tưởng chủ yếu sau đây:



b) Quan niệm về thế giới và con người

Do chịu ảnh hưởng bởi tư tưởng của các nhà triết học duy vật cổ Hi Lạp (lý luận về hạt giống của Anaxago, nguyên tử luận của Đêmôcrít, lý luận về hình dạng của Arixtốt…), Ph.Bêcơn cho rằng, thế giới (giới tự nhiên) tồn tại khách quan, đa dạng và thống nhất; con người là một sản phẩm của thế giới, nó bao gồm thể xác và linh hồn mang tính vật chất.



  • Thế giới tồn tại khách quan, đa dạng và thống nhất: Thế giới tồn tại một cách khách quan không phụ thuộc vào tình cảm, uy tín, nhận thức (cái chủ quan) của con người. Triết học và khoa học không thể biết cái gì ngoài thế giới vật chất khách quan đó. Tính đa dạng của thế giới chỉ có thể được lý giải một cách đúng đắn và đầy đủ nhờ vào quan niệm về vật chất, về hình dạng, về vận động...

Vật chất là toàn thể các phần tử rất nhỏ với những tính chất khác nhau.

Hình dạng là nguyên nhân dẫn tới mọi sự khác biệt của các sự vật, là lý do đầy đủ để sự vật xuất hiện, là bản chất chung của các sự vật cùng loại, là quy luật chi phối sự vận động của chúng.

Vận động là bản năng, là sinh khí của sự vật vật chất. Vận động là thuộc tính đầu tiên và quan trọng nhất của vật chất. Khi dựa vào quan sát thông thường, Ph.Bêcơn cho rằng có tới 19 dạng vận động, trong đó, hình dạng là một dạng vận động mà nhờ vào nó các phần tử vật chất cấu thành sự vật; và đứng im cũng là một dạng vận động.

Vật chất, hình dạng và vận động thống nhất với nhau. Nhận thức bản chất của sự vật vật chất là khám phá ra hình dạng, nghĩa là vạch ra các quy luật vận động chi phối chúng.



  • Con người là một sản phẩm của thế giới: Khi coi con người bao gồm thể xác và linh hồn, ông khẳng định rằng, không chỉ thể xác mà cả linh hồn của con người cũng đều là vật chất. Linh hồn của con người giống như không khí hay lửa, biết cảm giác, tồn tại trong bộ óc, vận động theo dây thần kinh và mạch máu trong cơ thể. Ngoài việc thừa nhận sự hiện hữu của linh hồn con người trong thể xác con người, Ph.Bêcơn còn thừa nhận sự hiện hữu của linh hồn thực vật và linh hồn động vật tồn tại trong cơ thể thực vật và động vật. Khoa học nghiên cứu con người và linh hồn của nó phải là khoa học tự nhiên.

c) Quan niệm về nhận thức

  • Cảm giác, kinh nghiệm là nguồn gốc duy nhất của mọi tri thức: Mặc dù vẫn còn chịu ảnh hưởng bởi quan niệm chân lý lưỡng tính - chân lý lòng tin của thần học tồn tại cùng với chân lý lý trí của khoa học - và chưa khắc phục được tính thần học trong quan niệm của mình, nhưng Ph.Bêcơn luôn cho rằng, cảm giác, kinh nghiệm là nguồn gốc duy nhất của mọi tri thức. Khoa học thật sự phải biết sử dụng tư duy tổng hợp và phương pháp quy nạp khoa học để khái quát các dữ kiện do kinh nghiệm mang lại nhằm khám phá ra các quy luật, bản chất của thế giới vật chất khách quan, đa dạng và thống nhất. Khoa học như thế chỉ có thể là khoa học thực nghiệm. Và tri thức khoa học thật sự phải luôn mang bản tính khách quan; chúng hoàn toàn không phụ thuộc vào tình cảm, ý chí, lợi ích chủ quan của con người. Để đạt được những tri thức như thế, khoa học mới cần phải loại bỏ những ảo tưởng ra khỏi quá trình nhận thức của chính mình.

  • Lý luận về ảo tưởng: Theo Ph.Bêcơn, quá trình nhận thức thế giới khách quan là quá trình xây dựng các tri thức khách quan về thế giới. Quá trình này phải xuất phát từ bản thân thế giới khách quan, thông qua kinh nghiệm cảm tính, tiến đến tư duy lý tính để xây dựng các tri thức khách quan về thế giới. Tuy nhiên, quá trình nhận thức của con người còn bị chi phối bởi những yếu tố chủ quan như mắc phải các ảo tưởng; do đó, năng lực tìm hiểu thế giới của con người bị hạn chế, mà hậu quả là dẫn đến những sai lầm không thể tránh khỏi. Để tránh các sai lầm, cần phải xem xét nguồn gốc, tính chất của các ảo tưởng và tìm cách khắc phục chúng. Ph.Bêcơn chỉ ra bốn loại ảo tưởng. Đó là ảo tưởng “loài”, ảo tưởng “hang động”, ảo tưởng “thị trường”, ảo tưởng “nhà hát”.

Ảo tưởng “loài” là sai lầm gây ra do nhân loại lầm lẫn bản tính chủ quan của trí tuệ của mình với bản tính khách quan của sự vật. Khi mắc phải ảo tưởng này con người xuyên tạc bản tính khách quan của sự vật bằng cách gán ép cho sự vật khách quan những đặc điểm chủ quan của mình.

Ảo tưởng “hang động” xuất hiện trong quá trình nhận thức của từng con người cụ thể. Do mỗi con người cụ thể có những đặc điểm tâm lý, tính cách chủ quan khác nhau mà trong quá trình nhận thức, chúng đã xuyên tạc bản tính khách quan của sự vật.

Ảo tưởng “thị trường” được hình thành khi con người không xuất phát từ tình hình thực tế của bản thân sự vật mà dựa vào thói quen, tập quán, quan niệm, thuật ngữ mơ hồ không phản ánh đúng bản chất của sự vật để nhận thức nó; vì vậy, sự xuyên tạc bản chất khách quan của sự vật là không thể tránh khỏi.

Ảo tưởng “nhà hát” có nguồn gốc từ những quan niệm sai trái nhưng được củng cố bởi các thế lực chính trị, tôn giáo… đang thống trị trong đời sống xã hội; vì vậy, chúng cản trở quá trình nhận thức đúng đắn của con người nếu chúng không tương hợp với đường lối chính trị, tôn giáo đó…

Theo Ph.Bêcơn, để khắc phục các ảo tưởng này, chúng ta cần phải khách quan hóa hoạt động nhận thức. Điều này được thực hiện bằng các cách tiếp cận trực tiếp thế giới tự nhiên mà không thông qua uy tín, sách vở, lòng tin, tín điều…; ra sức hoàn thiện phương tiện, công cụ nhận thức và nhân cách, cá tính cá nhân của từng con người, đặc biệt phải biết làm thí nghiệm, biết sử dụng phép quy nạp khoa học, biết tổng hợp và khái quát hóa một cách đúng đắn các tài liệu kinh nghiệm cảm tính riêng lẻ để xây dựng chuẩn xác các khái niệm, nguyên lý chung phản ánh đúng đắn, chính xác bản chất, quy luật của sự vật tồn tại trong hiện thực khách quan.



  • Phương pháp nhận thức khoa học: Ph.Bêcơn cho rằng, từ trước tới nay, tư duy giáo điều và đầu óc nông cạn chủ yếu chỉ sử dụng hai phương pháp nhận thức sai lầm. Ông gọi hai phương pháp đó là phương pháp “con nhện” và phương pháp “con kiến”.

Phương pháp “con kiến” được các nhà kinh nghiệm tầm thường sử dụng để thu lượm, góp nhặt những dữ kiện vung vãi, giống như con kiến, mà không biết tổng hợp, khái quát để rút ra những nhận định đúng đắn, tức thực tiễn mù quáng.

Phương pháp “con nhện” được các nhà giáo điều sử dụng để rút ra các công thức phi nội dung, giống như con nhện chỉ đơn thuần biết rút tơ từ chính mình mà bất chấp mọi tài liệu, thực tế sinh động bên ngoài đang tồn tại, thay đổi ra sao, tức lý luận suông. Để khắc phục hai phương pháp trên, nhà khoa học thật sự phải là nhà khoa học thực nghiệm biết sử dụng điêu luyện phương pháp “con ong”.

Phương pháp “con ong” giúp cho các nhà khoa học thực nghiệm tìm kiếm các cứ liệu thực nghiệm (hương nhụy), vạch ra cách thức tổng hợp, so sánh và khái quát các cứ liệu đó để xây dựng các tri thức (mật), nhằm khám phá ra các quy luật của thế giới.

Đương thời, Ph.Bêcơn đưa ra phương pháp ba bảng (bảng có mặt, bảng vắng mặt, bảng trình độ), sau này Milơ (S.Mill) đã hệ thống hóa thành Bốn phương pháp Milơ (tương đồng, khác biệt, đồng thay đổi, và thặng dư) để khám phá ra mối liên hệ nhân quả mang tính quy luật chi phối các sự vật, hiện tượng khách quan, đa dạng và thống nhất trong thế giới vật chất mà quan sát hay thí nghiệm mang lại dưới dạng các sự kiện kinh nghiệm cảm tính.

Phương pháp của Ph.Bêcơn còn được gọi là phương pháp quy nạp khoa học hay quy nạp dựa trên mối liên hệ nhân quả. Đây là phương pháp cơ bản mang lại nhiều phát minh nổi tiếng của khoa học thực nghiệm trước đây. Nó dắt dẫn tư duy khoa học xuất phát từ những sự kiện khoa học riêng lẻ (cái riêng) để đi đến những nguyên lý, quy luật tổng quát (cái chung) khi dựa trên mối liên hệ nhân quả mang tính quy luật giữa chúng đã được phát hiện ra, mà không nhất thiết phải dựa trên số lượng lớn các sự kiện riêng lẻ được khảo sát. Theo Ph.Bêcơn, quá trình nghiên cứu - nhận thức đúng đắn cần phải trải qua 3 bước như sau:

Một là, dựa vào giác quan, thông qua quan sát, thí nghiệm chúng ta trực tiếp tiếp cận thế giới tự nhiên đa dạng và sinh động để thu được những tài liệu kinh nghiệm cảm tính.

Hai là, so sánh, đối chiếu, hệ thống hóa, tổng hợp những tài liệu kinh nghiệm cảm tính này để xây dựng những sự kiện khoa học và phát hiện ra mối liên hệ nhân quả giữa chúng.

Ba là, từ những mối liên hệ nhân quả giữa sự kiện khoa học đó, bằng quy nạp khoa học, chúng ta xây dựng giả thuyết khoa học để lý giải các hiện tượng đang nghiên cứu. Rồi từ những giả thuyết khoa học đó, chúng ta rút ra các hệ quả tất yếu của chúng. Kế đến chúng ta tiến hành những quan sát, thí nghiệm mới để kiểm tra các hệ quả đó; nếu đúng thì ta có nguyên lý, định luật tổng quát; còn nếu sai thì chúng ta lập lại giả thuyết mới.

Phương pháp của Ph.Bêcơn có ý nghĩa rất lớn đến sự hình thành và phát triển khoa học thực nghiệm và triết học duy vật kinh nghiệm.

Như vậy, Ph.Bêcơn đòi hỏi quá trình nhận thức phải xuất phát từ kinh nghiệm cảm tính; còn kinh nghiệm cảm tính lại xuất phát từ thế giới khách quan. Ông coi nguyên tắc khách quan là nguyên tắc hàng đầu của khoa học và triết học mới để nhận thức đúng đắn thế giới. Ông cũng coi tư duy tổng hợpphép quy nạp khoa học là những công cụ hiệu quả đủ để xây dựng khoa học thực nghiệmchủ nghĩa duy vật kinh nghiệm nhằm khám phá ra các quy luật của thế giới để con người chinh phục nó và bắt nó phục vụ lợi ích cho chính mình.



d) Quan niệm về chính trị – xã hội

Là nhà tư tưởng kiệt xuất của tầng lớp quý tộc cấp tiến, Ph.Bêcơn chủ trương một đường lối chính trị phục vụ lợi ích cho giai cấp tư sản và chuẩn bị điều kiện để phát triển mạnh mẽ chủ nghĩa tư bản. Ông đòi hỏi: Phải xây dựng một nhà nước tập quyền đủ mạnh để chống lại mọi đặc quyền, đặc lợi của tầng lớp quý tộc bảo thủ; Phải phát triển một nền công nghiệp và thương nghiệp dựa trên sức mạnh của tri thức khoa học và tiến bộ của kỹ thuật. Ông chủ trương cải tạo xã hội bằng con đường khai sáng thông qua sự nghiệp giáo dục và đào tạo, đồng thời ông cũng chống lại mọi cuộc nổi dậy đấu tranh của nhân dân.

Từ những tìm hiểu trên, chúng ta thấy Ph.Bêcơn không chỉ là người sáng lập ra chủ nghĩa duy vật kinh nghiệm Anh và khoa học thực nghiệm, mà ông còn là một nhà tư tưởng của giai cấp tư sản phương Tây. Lịch sử triết học, khoa học và văn minh - kỹ thuật phương Tây chịu ảnh hưởng sâu sắc bởi các tư tưởng của Ph.Bêcơn. Triết học của Ph.Bêcơn về sau được Hốpxơ và Lốcơ kế tục và phát triển. Lốcơ đã đẩy chủ nghĩa duy vật kinh nghiệm do Ph.Bêcơn khởi xướng thành chủ nghĩa duy giác. Rồi từ chủ nghĩa duy giác của Lốcơ, giám mục Béccơly đã xây dựng chủ nghĩa duy tâm chủ quan nổi tiếng lúc bấy giờ.

2. Tôma Hốpxơ

Hốpxơ (Thomas Hobbs, 1588-1679) sinh ra trong một gia đình linh mục ở nông thôn của nước Anh. Ông chịu ảnh hưởng sâu bởi triết học Arixtốt và chủ nghĩa duy danh. Sau khi tốt nghiệp đại học Ócpho, phần lớn quãng đời còn lại ông sống ở nước ngoài như Ý, Pháp. Tại Paris, ông trở thành thư ký của Ph.Bêcơn. Ông nghiên cứu toán học và khoa học tự nhiên trong các tác phẩm của Côpécníc, Képlê, Galilê. Ông rất quan tâm đến vấn đề con người và đời sống chính trị – xã hội. Về con người, Về công dân, Léviafan… là các tác phẩm triết học chủ yếu của ông. Tuy nhiên, xét trong toàn bộ nền triết học bấy giờ thì tư tưởng của ông là kế tục sự nghiệp triết học của Ph.Bêcơn. Ông đã hệ thống hóa và phát triển chủ nghĩa duy vật kinh nghiệm, khắc phục tính chất thần học trong hệ thống triết học này35.

Xuất phát từ quan điểm thực tiễn và coi tri thức là sức mạnh của Ph.Bêcơn, Hốpxơ tiếp tục chủ trương phát triển triết học và khoa học, lấy tri thức phục vụ thực tiễn cải tạo thế giới vì lợi ích con người. Để phát triển triết học và khoa học, cần phải tách thần học ra khỏi triết học, đồng thời coi các ngành khoa học còn lại chỉ là các lĩnh vực khác nhau của triết học. Vấn đề trung tâm của triết học phải là vấn đề về con người. Nhưng do con người vừa là một tạo thể tự nhiên vừa là một tạo thể đạo đức – tinh thần (xã hội), nên theo Hốpxơ, triết học phải bao gồm hai bộ phận chủ yếu là triết học tự nhiên và triết học xã hội.



a) Triết học tự nhiên

  • Quan điểm về tự nhiên: Hốpxơ cho rằng, giới tự nhiên có trước con người, nó không do thần thánh hay Thượng đế tạo ra, nó đã tồn tại và sẽ tiếp tục tồn tại (duy vật). Giới tự nhiên là toàn thể các vật thể riêng lẻ, và chỉ có các vật thể riêng lẻ mới tồn tại thật sự khách quan (duy danh). Mọi khái niệm như thực thể, vật chất hay cái phi vật thể đều không tồn tại, chúng chỉ là tên gọi. Mọi vật thể cũng như những tính chất và sự thay đổi diễn ra trong chúng đều là kết quả vận động của những yếu tố vật thể gây ra. Vận động của vật thể là vận động cơ học - thay đổi vị trí do sự tác động của sức đẩy bên ngoài gây ra. Chúng ta cảm nhận được hậu quả của sức đẩy (chuyển động), chứ không phải bản thân sức đẩy.

Ông coi động vật và cả con người nữa đều chỉ là những “cổ máy phức tạp”, mà hành vi hoạt động của chúng hoàn toàn do sự tác động từ bên ngoài gây nên. Lý luận về sức đẩy và chuyển động mà ông xây dựng trong quan niệm về thế giới tự nhiên được sử dụng để lý giải cảm giác của linh hồn động vật và đời sống tinh thần con người. Cảm giác của linh hồn không ảnh hưởng gì đến các chuyển động và sức đẩy trong bộ óc hay trái tim mà nó chỉ là sự thể hiện chủ quan của sự tác động khách quan từ bên ngoài.

Tuy nhiên, theo Hốpxơ, có sự khác biệt nhất định giữa các vật thể phi linh hồn và các “cổ máy tự động” có linh hồn. Các “cổ máy tự động” có linh hồn bao giờ cũng có những cơ quan giúp lưu giữ các ấn tượng cũ và cho phép so sánh chúng với các ấn tượng mới. Đây là tiền đề dẫn tới đời sống ý thức ở con người. Như vậy, Hốpxơ đã phủ nhận sự tồn tại linh hồn như một thực thể tinh thần bất tử; ông chỉ thừa nhận thể xác (vật thể) và những hoạt động mang tính tự nhiên cơ học của nó. Điều này cho phép ông đi đến kết luận cho rằng, Thượng đế và lòng tin tôn giáo chỉ là những sản phẩm của trí tưởng tượng dồi dào của con người. Chủ nghĩa duy vật siêu hình máy móc và quan niệm vô thần này đã chi phối quan niệm của Hốpxơ về nhận thức.



  • Quan điểm về nhận thức: Hốpxơ phê phán chủ nghĩa duy lý, phủ nhận quan niệm về tư tưởng bẩm sinh, về tính rõ ràng hiển nhiên của tri thức mà Đềcáctơ xây dựng. Ông cho rằng, mọi quá trình nhận thức đều dựa vào ý tưởng (quan niệm và biểu tượng). Cảm giác về thế giới bên ngoài không chỉ là cội nguồn duy nhất của ý tưởng mà còn là nền tảng của mọi hoạt động nhận thức của chúng ta. Sự dao động của môi trường ête đã sinh ra ý tưởng về ánh sáng và màu sắc; sự dao động của không khí đã sinh ra ý tưởng về âm thanh. Hốpxơ cho rằng, sự tác động của thế giới bên ngoài sinh ra những ý tưởng đầu tiên với nội dung của nó hoàn toàn khách quan; sau đó, nhờ vào các thao tác tích cực của trí tuệ như đối chiếu, kết hợp và phân chia mà từ các ý tưởng này sản sinh ra các ý tưởng khác.

Xuất phát từ chủ nghĩa duy danh, Hốpxơ cho rằng mọi thao tác của quá trình nhận thức đều chỉ là thao tác trên những cảm giác và biểu tượng về những sự vật riêng lẻ trong thế giới. Sản phẩm do hoạt động nhận thức mang lại chỉ là kinh nghiệm - tri thức về những sự kiện mang tính riêng lẻ, đơn nhất đã hay đang xảy ra. Quá trình nhận thức kinh nghiệm chỉ thiết lập những mối liên hệ giữa các kinh nghiệm riêng lẻ. Vì vậy, nó chỉ mang lại những tri thức xác suất về cái riêng mà không thể mang lại tri thức chính xác hiển nhiên về cái chung. Loại tri thức chính xác này chỉ có thể xây dựng nhờ vào ngôn ngữ. Nếu ý niệm là cái riêng chỉ phản ánh các sự vật riêng rẽ, thì từ ngữ lại là tên gọi chung để chỉ một lớp các sự vật cùng loại. Với tính cách là cái chung, ngôn ngữ cho phép nắm bắt cái chung, mối liên hệ tất yếu. Từ đây, ông khẳng định chân lý không phải là tính chất gắn liền với các sự vật riêng lẻ mà là tính chất của các suy diễn về sự vật do tư duy chúng ta tiến hành.

Theo Hốpxơ, khoa học tự nhiên là khoa học thực nghiệm; nó chủ yếu sử dụng phương pháp quan sát, thí nghiệm và quy nạp để khảo sát mối liên hệ giữa các sự vật riêng lẻ và tính chất ngẫu nhiên, cá biệt của chúng; vì vậy, nó chỉ mang lại tri thức xác suất, không chắc chắn, mà không thể mang lại tri thức hiển nhiên chắc chắn, nghĩa là không phát hiện ra mối liên hệ tất yếu.

Là các khoa học lý thuyết, toán học và triết học sử dụng ngôn ngữ hay tên gọi chung và phép suy diễn tổng quát để thực hiện các thao tác chứng minh; do đó, chúng cho phép nhận thức được mối liên hệ tất yếu, khám phá ra các tri thức chắc chắn, chính xác.

Như vậy, Hốpxơ đã đứng trên quan niệm siêu hình mà tách cảm giác - kinh nghiệm - quy nạp ra khỏi tư duy - lý luận - suy diễn, và chia cắt hoạt động nhận thức thống nhất của con người ra làm hai loại tách biệt nhau. Chủ nghĩa duy danh đã đưa Hốpxơ tiến gần thuyết bất khả tri.



b) Triết học xã hội

Hốpxơ xuất phát từ quan niệm, con người là một thể thống nhất giữa cái tự nhiên và cái xã hội mà cho rằng có hai trạng thái tồn tại của xã hội loài người là trạng thái tự nhiên và trạng thái công dân.

Trong trạng thái tự nhiên, bản tính tự nhiên là ích kỷhiếu chiến của con người thống trị. Khi bị thúc đẩy bởi bản tính tự nhiên, con người chỉ biết thỏa mản mọi khát vọng cho riêng mình mà chà đạp tất cả. Đây là cội nguồn của mọi điều ác, và chúng đẩy xã hội vào các cuộc chiến tranh triền miên của tất cả (mọi người) chống lại tất cả. Trong trạng thái tự nhiên, mỗi con người phải tự bảo vệ mình dựa theo các định luật tự nhiên, và tranh giành tất cả những gì mình muốn. Mỗi người đều có quyền làm tất cả. Tuy nhiên, về mặt tự nhiên, nói chung con người ai cũng như ai. Sự bình đẳng về mặt tự nhiên đã làm cho con người bất hạnh chứ không mang lại hạnh phúc cho họ. Các cuộc chiến tranh sinh tồn chỉ làm cho con người ngày càng rơi vào tình trạng khó khăn phức tạp thêm. Ai cũng lo sợ cho tính mạng và cuộc sống của riêng mình. Để thoát ra khỏi tình trạng này, con người buộc phải từ bỏ quyền được làm tất cả. Điều này chỉ có thể thực hiện thông qua việc ký kết các khế ước xã hội. Khi khế ước xã hội được thực hiện, thì trạng thái tự nhiên sẽ nhường chỗ cho trạng thái công dân; khi đó, xã hội công dân sẽ ra đời và nhà nước sẽ xuất hiện.

Trong trạng thái công dân, bản tính tự nhiên của con người bị ức chế bởi bản tính xã hội. Dựa trên sự thống trị của bản tính xã hội, con người lập ra nhà nước. Nhà nước cùng bộ máy chính phủ - linh hồn của nó, thông qua các đạo luật của mình kìm hảm khát vọng tự nhiên và thu hẹp tự do - muốn làm gì thì làm của con người. Với nhiệm vụ là điều hành sự phát triển xã hội vì lợi ích chung, nhà nước trừng phạt một cách công minh và chính xác những ai vi phạm khế ước xã hội. Bản thân mỗi con người – công dân của nhà nước, phải có nghĩa vụ tuân thủ các chuẩn mực của nhà nước. Nhà thờ cũng phải phục tùng nhà nước chứ không phải ngược lại. Theo ông, các nhà vô thần không có tội, mà họ chỉ là những người suy nghĩ nông cạn. Hoạt động tôn giáo phải hướng vào việc khuyên con người làm theo các chuẩn mực của nhà nước…

Mặc dù các quan niệm về xã hội và nhà nước của Hốpxơ còn mang nặng tính tự nhiên, nhưng chúng đã thể hiện xu hướng tiến bộ của giai cấp tư sản trong quá trình đấu tranh chống lại thế quyền phong kiến của Nhà nước và thần quyền của Nhà thờ.

3. Giôn Lốcơ

Lốcơ (John Locke, 1632-1704) sinh ra trong một gia đình công chức nước Anh, là đại biểu duy cảm điển hình của chủ nghĩa duy vật Anh. Sau khi tốt nghiệp đại học, ông say mê nghiên cứu kinh tế - chính trị học, y học và triết học. Sau cách mạng tư sản Anh, ông sống lưu vong ở Pháp, Hà Lan. Kinh nghiệm về lý tính con người là tác phẩm triết học cơ bản, trong đó, ông chủ yếu bàn về nhận thức theo tinh thần của chủ nghĩa duy giác. Đây là cơ sở phương pháp luận của các nhà kinh tế chính trị học tư sản cổ điển.

Lốcơ phê phán các lý luận duy tâm về nhận thức như lý luận về tư tưởng bẩm sinh của Đềcáctơ, lý luận về khả năng bẩm sinh của Lépnít, đồng thời bảo vệ lý luận “linh hồn - tấm bảng trắng” do Arixtốt đưa ra. Dựa trên lý luận này, ông khẳng định mọi nhận thức của con người đều bắt đầu từ các cơ quan cảm tính, đều phải thông qua quá trình hoạt động năng động của linh hồn mà sản sinh ra tri thức; nghĩa là không có tri thức hay năng lực bẩm sinh, mọi tri thức của con người đều bắt nguồn từ cảm giác, từ kinh nghiệm.

Lốcơ chia cảm giác của con người thành cảm giác bên ngoài và cảm giác bên trong. Kinh nghiệm không chỉ là khả năng nhận thức cảm tính mà còn là bản thân lý tính. Vì vậy, kinh nghiệm cũng có hai loại là kinh nghiệm bên ngoài và kinh nghiệm bên trong. Kinh nghiệm bên ngoài là kết quả tập hợp các cảm giác phát sinh do sự tác động của các sự vật khách quan lên cơ quan cảm tính (ngoại cảm) của con người. Kinh nghiệm bên trong là kết quả tập hợp các nội cảm phát sinh từ các phản xạ bên trong hay các xúc cảm tâm lý chủ quan của con người.

Việc coi lý tính cũng là kinh nghiệm đã đưa Lốcơ đi đến khẳng định duy giác: Không có cái gì trong lý tính mà trước đó không có trong cảm tính. Còn tập hợp các kinh nghiệm sẽ đưa đến đời sống tâm lý – tư tưởng của con người. Và tư tưởng của con người, theo ông, cũng có hai loại là tư tưởng đơn giản và tư tưởng phức tạp. Tư tưởng đơn giản là tổng đơn thuần các cảm giác của con người. Tư tưởng phức tạp xuất hiện khi có sự hoạt động tích cực của lý trí như phân tích, so sánh, đối chiếu, kết hợp các cảm giác với nhau giúp hiểu sự vật sâu sắc hơn.

Lốcơ cũng phân chia đặc tính của sự vật ra thành đặc tính có trước và đặc tính có sau. Đặc tính có trước mang tính khách quan, nghĩa là không phụ thuộc vào cảm giác con người; đó là quãng tính, khối lượng…; chúng không mất đi cho dù ta biến đổi sự vật thế nào đi nữa; nhiệm vụ của các khoa học là phải phát hiện ra chúng. Đặc tính có sau có thể mang tính khách quan, nghĩa là không phụ thuộc vào cảm giác con người; nhưng, cũng có thể mang tính chủ quan, nghĩa là phụ thuộc vào cảm giác con người; đó là âm thanh, mùi vị, màu sắc… rất dễ biến đổi và có thể không giống nhau ở những người khác nhau.

Quan điểm không nhất quán về bản tính khách quan hay chủ quan của đặc tính có sau thể hiện sự dao động giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm trong lập trường triết học duy giác mà Lốcơ chịu ảnh hưởng. Chính từ chỗ không triệt để này mà chủ nghĩa duy giác của Lốcơ trở thành cội nguồn lý luận đưa đến sự xuất hiện của chủ nghĩa duy tâm chủ quan Béccơly lẫn chủ nghĩa duy vật Pháp.



Каталог: file -> downloadfile1 -> 293
293 -> VĂn phòng chính phủ
293 -> Đề tài: Sự tập trung hóa báo chí ở các nước tư bản chủ nghĩa Giảng viên hướng dẫn
293 -> Chiến dịch đánh Tống 1075
293 -> BỘ thông tin và truyềN thôNG
293 -> BỘ thông tin và truyềN thông số: 956/QĐ-btttt cộng hòa xã HỘi chủ nghĩa việt nam
293 -> Các lệnh nhảy, vòng lặp và lệnh gọi
293 -> 143 NĂm vưƠng triều nguyễN (1802-1945)
293 -> Chương I các bộ VI điều khiển 8051 1 các bộ VI điều khiển và các bộ xử lý nhúng
293 -> HÀ NỘI – 2006 BỘ XÂy dựng cộng hoà XÃ HỘi chủ nghĩa việt nam
293 -> Số 13 Tháng 3/2008 Chiều hướng phát triển dân số và học sinh, hiện tại và tương lai Vũ Quang Việt

tải về 1.37 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   ...   5   6   7   8   9   10   11   12   ...   16




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương