Lời Giới Thiệu Lịch sử Triết học


II. MỘT SỐ TƯ TƯỞNG, TRƯỜNG PHÁI TRIẾT HỌC



tải về 1.37 Mb.
trang2/16
Chuyển đổi dữ liệu31.07.2016
Kích1.37 Mb.
#11086
1   2   3   4   5   6   7   8   9   ...   16

II. MỘT SỐ TƯ TƯỞNG, TRƯỜNG PHÁI TRIẾT HỌC

A. TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC TRONG UPANISÁT

Upanisát cho rằng, trong thế giới, tồn tại brátman (đại ngã) và átman (tiểu ngã) cùng mang bản chất thần thánh, nhưng khác hình thức biểu hiện. Brátman là linh hồn vũ trụ hay thực thể tinh thần tối cao, là căn nguyên của vạn vật. Nó tồn tại tuyệt đối, vĩnh viễn sản sinh ra mọi cái, và cũng là đích cuối cùng của mọi cái. Atman là linh hồn con người, là sự biểu hiện cụ thể, cá biệt của brátman. Nó là cái nhỏ bé nhưng cũng là cái vĩ đại, bất diệt như brátman. Tuy nhiên, do gắn bó với thể xác và thông qua thể xác mà átman luôn bị lôi cuốn vào dục vọng; vì vậy, nó phải chịu nghiệp báo, luân hồi và phải trải qua số kiếp. Để thoát ra khỏi nghiệp báo, luân hồi, số kiếp, átman phải toàn tâm, toàn ý tự giác ngộ bản chất thần thánh nơi chính mình (tu luyện) để được giải thoát quay về với brátman.

Cũng như Brátmana – cơ sở giáo lý của đạo Bàlamôn và đạo Hinđu, Upanisát luôn bảo vệ chế độ đẳng cấp mà thực chất là bảo vệ các đặc quyền của giới tăng lữ Bàlamôn. “Vì sự phồn vinh của cả thế giới mà từ mồm, tay, đùi, và bàn chân của mình, Ngài (Brátman) đã tạo ra tăng lữ, quý tộc, bình dân tự do và nô lệ”. “Do sinh ra từ bộ phận cao quý nhất từ thân thể của brátman, do sinh ra sớm nhất, do hiểu biết Vêđa mà tăng lữ có quyền làm chúa tể của các tạo vật ấy” (Luật Manu).



Upanisát cho rằng tồn tại hai hình thức nhận thức là thượng trí (chiêm nghiệm tâm linh) và hạ trí (trực quan cảm tính, hay dựa vào trực quan cảm tính). Thượng trí là hình thức nhận thức cho phép vượt lên trên cái hữu hình, cảm tính, cái thay đổi để nắm bắt cái vô hình, bất biến, cái thực tại tuyệt đối, duy nhất ẩn mình đằng sau cái hữu hình, cảm tính, thay đổi; nghĩa là nhận thức được brátman. Hạ trí là hình thức nhận thức bị giới hạn trong cái hữu hình, cảm tính, thay đổi; nghĩa là nhận thức các sự vật vật chất xung quanh ta.

B. HỆ THỐNG CHÍNH THỐNG


1. Trường phái Vêđanta

Trường phái Vêđanta (Kết thúc Vêđa) xuất hiện vào thế kỷ II TCN, do Badarayana khởi xướng và Sankara phát triển. Là một trường phái triết học - tôn giáo, Vêđanta tiếp nối các tư tưởng của Upanisát, đưa ra các kiến giải siêu hình và duy tâm về nguyên nhân hình thành thế giới (vũ trụ và vạn vật). Những tư tưởng triết học cơ bản của nó là:

Một là, thừa nhận sự tồn tại của brátman linh hồn vũ trụ là thực tại tinh thần tối cao, là bản chất, là nguồn sống vĩnh hằng, là cội nguồn chi phối mọi sự sinh thành và hủy diệt của mọi cái trong thế giới.

Hai là, coi átman – linh hồn cá nhân - là hiện thân của brátman nơi thể xác trần tục của con người và bị vây hãm, ràng buộc bởi những ham muốn nhục dục của thể xác. Để giải thoát átman khỏi sự vây hãm ràng buộc này, con người (átman) phải dốc lòng tu luyện, suy tư, chiêm nghiệm tâm linh để nhận ra bản tính thần thánh của mình mà quay về với Brátman.

Ba là, coi thế giới vật chất chỉ là ảo ảnh do vô minh của con người mang lại.

Phái Vêđanta chịu sự phê phán mạnh mẽ của các trường phái khác, vì vậy, nó đã không đứng vững trước lập trường duy tâm nhất nguyên của mình. Sang thời trung đại, nó đã chuyển dần sang lập trường nhị nguyên. Dù vậy, nó vẫn là cơ sở triết học của giáo lý đạo Bàlamôn - Hinđu.



2. Trường phái Samkhya

Trường phái Samkhya (Số luận) do Kapila (~350-250 TCN) khởi xướng, và sau đó, Isvarakrisna phát triển thêm. Lý luận cơ bản của phái này là học thuyết duy vật về bản nguyên của thế giới. Những tư tưởng triết học cơ bản của nó là:

Một là, không thừa nhận sự tồn tại của brátman thần thánh, mà thừa nhận bản nguyên của thế giới là prakriti - vật chất đầu tiên, tiềm ẩn, không hình dạng, không giới hạn, không thể nhận biết được bằng cảm tính.

Hai là, thừa nhận vạn vật chỉ là thể thống nhất, tác động và chuyển hóa lẫn nhau giữa 3 yếu tốsativa (nhẹ nhàng, thuần khiết), razas (tích cực, năng động) và tamas (nặng, ỳ).

Ba là, thừa nhận tồn tại luật nhân quả chi phối mọi sự chuyển hóa trong thế giới vật chất [vật chất tri năng ngũ giác (thị, thính, khứu, vị, xúc giác)  trí tuệ (năng lực nhận thức); vật chất ngũ quan cảm giác (mắt, tai, mũi, lưỡi, da) và ngũ quan tác động (cuống họng, bàn tay, bàn chân, cơ quan bài tiết, cơ quan sinh dục); vật chất ngũ hành (không khí, lửa, nước, đất và ête); vật chất linh hồn hay tinh thần (purusa)]. Purusa không phải là linh hồn thế giới như Vêđa quan niệm mà chỉ là nguyên lý phổ quát, bất biến của cá tính trong các sinh vật. Nó giúp thực hiện việc truyền sinh khí, đẩy mạnh sự biến hóa của các yếu tố vật chất.

Phái Samkhya chịu sự phê phán mạnh mẽ của các trường phái khác, vì vậy, nó đã không đứng vững trước lập trường duy vật nhất nguyên của mình mà chuyển dần sang lập trường nhị nguyên vào thời trung đại. Khi thừa nhận sự tồn tại song hành hai yếu tố đầu tiên là prakritipurusa, Isvarakrisna coi vạn vật chỉ là thể thống nhất, tác động, chuyển hóa của chúng; mà cụ thể là, sự tác động giữa thể tinh thể thô. Là trung tâm của nghiệp, thể tinh bao gồm trí tuệ, giác quan và các yếu tố gắn liền với chúng cũng như cảm giác về cái tôi, về bản thân chủ thể; nó luôn đi theo Purusa khi nào còn chưa được giải thoát. Thể thô gắn liền với các yếu tố vật chất và chết đi cùng với các yếu tố vật chất.



3. Trường phái Yôga

Trường phái Yôga xuất hiện vào thế kỷ II TCN, do đạo sĩ Patanjali sáng lập. Tư tưởng triết học cốt lõi của phái này là sự thừa nhận nguyên lý hợp nhất của vũ trụ nơi mỗi cá thể; và thông qua các phương pháp yôga mà mỗi cá thể có thể tập luyện để khai thác được sức mạnh vũ trụ tiềm ẩn trong mình để làm chủ mình, tiến tới làm chủ môi trường, và sau cùng, vươn tới sự giải thoát. Phương pháp yôga đòi hỏi sự kiên trì, tính tích cực tự giác kết hợp giữa rèn luyện thể xác và rèn luyện tư duy qua tám nguyên tắc cơ bản (Bát bảo tu pháp) là: cấm chế (giữ đúng điều răn); khuyến chế (thanh tịnh trong học tập kinh điển); tọa pháp (giữ đúng vị trí thân thể); điều tức (điều chỉnh hơi thở hợp lý); chế cảm (chế ngự, kiểm soát, làm chủ cảm giác); chấp trì (tập trung tư tưởng, trí tuệ vào một chỗ); thiền định (giữ tâm thống nhất); tuệ (trạng thái xuất thần làm bừng sáng tư duy hoà nhập vào đại ngã).

4. Trường phái Mimansa



Trường phái Mimansa xuất hiện vào thế kỷ II TCN, do Gaimini khởi xướng và được nhiều người góp phần phát triển vào thời trung đại. Là một trường phái triết học - tôn giáo, Mimansa đưa ra các kiến giải nhằm biện hộ, củng cố và tuyên truyền cho các nghi thức được đề cặp đến trong Vêđa nói chung, trong giáo lý đạo Bàlamôn – Hinđu nói riêng. Tư tưởng chủ đạo của nó là:

Một là, coi cảm giác là nguồn gốc duy nhất của nhận thức; và do cảm giác không nhận thấy được thần linh, vì vậy, trong thế giới không có thần linh.

Hai là, coi bản thân những nghi thức, lời kinh tự chúng đã có sức mạnh huyền bí đối với người tu hành để giúp họ trên con đường hành đạo, vì vậy, không cần đến thần linh nữa.

Ba là, muốn giải thoát khỏi trạng thái hiện hữu phải thực hiện đúng mọi nghi thức được nêu ra trong Vêđa, trong giáo lý Bàlamôn – Hinđu, phải thực hiện mọi nghĩa vụ, bổn phận mà trật tự xã hội quy định.

Phái Mimansa chịu sự phê phán mạnh mẽ của các trường phái khác, vì vậy, nó đã không đứng vững trước lập trường vô thần của mình mà chuyển dần sang lập trường hữu thần vào thời trung đại.

5. Trường phái Niaja

Trường phái Niaja xuất hiện vào thế kỷ III TCN, do Gôtama sáng lập và được Vátsiaiana (thế kỷ IV) và Yđiatakara (thế kỷ VII) phát triển. Lý luận cơ bản của phái này bao gồm ba bộ phận là nguyên tử luận, lôgích học lý luận về nhận thức.

Về nguyên tử luận, phái này cho rằng, nguyên tử (Anu) là bản nguyên duy nhất tạo nên vạn vật trong thế giới. Nguyên tử là những hạt vật chất bé nhỏ, không đồng nhất, bất biến, vĩnh hằng, khác nhau về chất lượng, khối lượng, hình dạng và cách thức kết hợp. Khi kết hợp lại với nhau chúng tạo thành 4 thực thể vật lý là đất, nước, giólửa. Các thực thể này tồn tại trong một môi trường ête, trong không gianthời gian. Khi phối hợp với nhau thì chúng tạo nên vạn vật đa dạng nhưng nhất thời – thế giới vật chất… Bên cạnh việc thừa nhận sự tồn tại của nguyên tử, phái này còn thừa nhận sự tồn tại của các linh hồn (Ya). Linh hồn thể hiện qua những ước vọng, ý chí, vui, buồn, giận hờn...; chúng có thể tồn tại tự do nhưng cũng có thể tồn tại trong trạng thái gắn kết vào nguyên tử. Bên cạnh AnuYa, phái này cho rằng tồn tại thần Isvara với vai trò điều phối sự kết hợp, tác động của các linh hồn hay giải thoát linh hồn ra khỏi nguyên tử.

Về lôgích học, phái này đã xây dựng ngũ đoạn luận (suy luận với 5 mệnh đề: luận đề, nguyên nhân, ví du, suy đoán, kết luận). Xét về thực chất, thì đây là một biến tướng của tam đoạn luận (suy luận với 3 mệnh đề: đại tiền đề, tiểu tiền đề, kết luận). Bởi vì, trong ngũ đoạn luận, hai mệnh đề đóng vai trò luận đềnguyên nhân được lập lại trong suy đoánkết luận. Thí dụ, với ngũ đoạn luận: Trên đồi có lửa; vì trên đồi có khói; ở đâu có khói là ở đó có lửa; trên đồi đang có khói; vậy, trên đồi có lửa. Còn với tam đoạn luận: Ở đâu có khói là ở đó có lửa; trên đồi đang có khói; vậy, trên đồi có lửa.

Về nhận thức luận, phái này thừa nhận đối tượng nhận thức tồn tại khách quan; còn cảm giác, kết luận, tương tựbằng chứng là 4 phương thức nhận thức đáng tin cậy. Phái này cũng đề cao vai trò của kinh nghiệm trong nhận thức, đồng thời cho rằng nhận thức là đúng khi nó phù hợp với bản chất của đối tượng và giúp con người đạt được mục đích đề ra; còn nếu ngược lại, thì đó là nhận thức sai lầm.

Phái Niaja chịu sự phê phán mạnh mẽ của các trường phái khác, vì vậy, sau này, nó liên kết với trường phái Vaisêsika. Tuy nhiên, sang thời trung đại chúng đã không đứng vững trên lập trường vô thần của mình mà chuyển dần sang lập trường hữu thần, - coi thần đã dùng nguyên tử để tạo nên thế giới.

6. Trường phái Vaisêsika



Trường phái Vaisêsika xuất hiện vào thế kỷ II TCN, do Kanađa sáng lập và được Parasatapađa (thế kỷ V) phát triển. Lúc đầu, quan điểm của phái này và phái Niaja có nhiều điểm giống nhau. Cũng như phái Niaja, tư tưởng chủ đạo của phái Vaisêsika tập trung trong nguyên tử luận, lôgích học nhận thức luận.

Về nguyên tử luận, phái này cho rằng, nguyên tử là bản nguyên duy nhất tạo nên vạn vật trong thế giới. Nguyên tử là những hạt vật chất bé nhỏ, không đồng nhất, bất biến, vĩnh hằng, khác nhau về chất lượng, khối lượng, hình dạng và cách thức kết hợp. Khi kết hợp lại với nhau chúng tạo thành 9 thực thểđất, nước, gió, lửa, ête, thời gian, không gian, linh hồn trí tuệ. 5 thực thể đầu là thực thể vật lý mang tính cảm giác được; còn các thực thể còn lại là thực thể phi cảm giác. Khi kết hợp với nhau thì chúng tạo nên vạn vật đa dạng, nhất thời – thế giới vật chất. Phái này thừa nhận sự tồn tại của một lực lượng vô hình không cảm giác được điều khiển sự kết hợp đó.

Về lôgích học, phái này đã xây dựng lý luận về phạm trù. Họ nêu ra 7 phạm trù cơ bản để phản ánh sự tồn tại của thế giới là: thực thể, quan hệ, hoạt động, tính phổ biến, tính đặc thù, tính vốn có cái hư vô.

Về nhận thức luận, phái này đưa ra lý luận về tính tin cậy của nhận thức. Phái này coi đối tượng nhận thức tồn tại khách quan và nhận thức chỉ tin cậy được khi nó phản ánh trung thành với bản thân đối tượng; coi thực tiễn là thước đo độ tin cậy của tri thức (chân lý). Có 4 hình thức nhận thức không đáng tin cậy là ký ức, nghi ngờ, sai lầm giả thuyết.



Каталог: file -> downloadfile1 -> 293
293 -> VĂn phòng chính phủ
293 -> Đề tài: Sự tập trung hóa báo chí ở các nước tư bản chủ nghĩa Giảng viên hướng dẫn
293 -> Chiến dịch đánh Tống 1075
293 -> BỘ thông tin và truyềN thôNG
293 -> BỘ thông tin và truyềN thông số: 956/QĐ-btttt cộng hòa xã HỘi chủ nghĩa việt nam
293 -> Các lệnh nhảy, vòng lặp và lệnh gọi
293 -> 143 NĂm vưƠng triều nguyễN (1802-1945)
293 -> Chương I các bộ VI điều khiển 8051 1 các bộ VI điều khiển và các bộ xử lý nhúng
293 -> HÀ NỘI – 2006 BỘ XÂy dựng cộng hoà XÃ HỘi chủ nghĩa việt nam
293 -> Số 13 Tháng 3/2008 Chiều hướng phát triển dân số và học sinh, hiện tại và tương lai Vũ Quang Việt

tải về 1.37 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4   5   6   7   8   9   ...   16




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương